Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Bài tiểu luận an ninh môi trường và an toàn môi trường ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.48 KB, 20 trang )

Đề tài: Vấn đề an ninh môi trường và an toàn môi
trường của Việt Nam


LỜI CẢM ƠN
Mỗi một đề tài báo cáo là kết quả của cả một quá trình lao động mệt mài
nghiêm túc và sự thành công của đề tài là thước đo giá trị công việc của quá trình lao
động. Với đề tài nghiên cứu này, để hoàn thành được thì đó không chỉ là kết quả của
quá trình thu thập thông tin mà còn là quá trình học tập và rèn luyện dưới sự dìu dắt
chỉ bảo của quý thầy, cô giáo trong trường…………..
Nhóm em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô Ths…………….., đã tận tình hướng dẫn, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm giúp đỡ
nhóm em hoàn thành đề tài báo cáo này.
Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình làm việc, song do trình độ, vốn kiến thức
có hạn nên đề tài báo cáo không tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy nhóm em rất mong
nhận được sự nhận xét, bổ sung từ cô.
Nhóm em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ANMT

An ninh môi trường

ATMT

An toàn môi trường

ANQG



An ninh quốc gia

BĐKH

Biến đổi khí hậu

ĐDSH

Đa dạng sinh học

ÔNMT

Ô nhiễm môi trường

PTBV

Phát triển bền vững


PHẦN MỞ ĐẦU
Hiện nay, bảo đảm an ninh môi trường (ANMT) và an toàn môi trường (ANMT)
đã trở thành vấn đề toàn cầu, cần có sự hợp tác, chia sẻ giữa quốc gia. Các thách thức
ANMT và ATMT không chỉ đe dọa an ninh con người, kinh tế, lương thực… mà còn
là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia (ANQG) và sự tồn vong của
nhân loại. Hiện nay, vấn đề ANMT và ATMT được đặt ra cấp bách đối với Việt Nam.
Tại Việt Nam, chất lượng môi trường đang có những biến đổi theo chiều hướng
bất lợi đối với cuộc sống của con người. Nếu không giữ được ANMT và ATMT thì
không có bất kỳ một sự tồn tại và phát triển nào của con người cũng như xã hội loài
người.

Vì vậy, với vai trò là những chủ nhân tương lai của đất nước, đặc biệt là sinh viên
ngành Công tác Xã hội, đứng trước vấn đề cấp bách về ANMT và ATMT trường quốc
gia thì việc trau dồi vốn kiến thức cơ sở lý luận về vấn đề này là hết sức cần thiết.
Trong bài báo cáo này nhóm đã nghiên cứu và tổng hợp được những kiến thức cơ bản,
chỉ ra khái niệm, Nguyên nhân, biểu hiện của ANMT và ATMT, mạnh dạn đưa ra một
số giải pháp nhằm giữ vững ANMT và ATMT ở Việt Nam trong thời gian tới.


PHẦN NỘI DUNG
1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1. Môi trường
Môi trường là khái niệm có nội hàm vô cùng rộng, theo cách thức tiếp cận khác
nhau thì khái niệm môi trường được đưa ra là không như nhau.
Trong giáo trình An ninh môi trường” của PGS.TS Nguyễn Đình Hòe, khi xét
dưới góc độ môi trường là tính chất của không gian sống của con người, chỉ nảy sinh
khi con người sử dụng, làm biến đổi không gian sống; và khi đã xuất hiện, chúng gây
ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Thì khái niệm môi trường được đề cập như
sau: “Môi trường là từ gọi tắt "môi trường sống của con người", bao gồm một tập hợp
các tính chất của không gian sống của con người; không gian này được tạo thành từ
các yếu tố tự nhiên và nhân tạo (yếu tố vật chất) và các yếu tố xã hội – nhân văn (yếu
tố phi vật chất); các tính chất này chỉ nảy sinh khi con người sử dụng và làm biến đổi
không gian sống, và chịu tác động của chính những biến đổi đó".
1.2. An ninh môi trường và an toàn môi trường
Trong quá trình nghiên cứu giáo trình Môi trường và Phát triển bền vững của
PGS.TS Nguyễn Đình Hòe. Nhận thấy, ANMT và ATMT về cơ bản là hai khái niệm
hoàn toàn giống nhau, đều “là trạng thái mà một hệ thống môi trường có khả năng
đảm bảo điều kiện sống an toàn của con người cư trú trong hệ thống đó”.
Tuy nhiên, ANMT được hiểu theo quy mô rộng, thường là ở mức quốc gia, khu
vực hay quốc tế, Những sự kiện lớn hơn như suy thoái tầng ôzôn, hiệu ứng nhà kính,
sa mạc hoá diện rộng.... Còn ATMT được sử dụng trong phạm vi nhỏ hơn (địa phương)

như: rò rỉ phóng xạ thừ một bệnh viện, cháy một khu rừng, một trận lũ quét tại một
huyện, một trận dịch tả do ô nhiễm nước tại một địa phương, một trận ngộ độc thức ăn
do ô nhiễm thực phẩm tại một xí nghiêp... Tuy nhiên, cũng rất khó phân định rạch ròi
giới hạn giữa "an ninh" và "an toàn".
Quá trình gây mất ổn định trong hệ thống môi trường sẽ tác động nhiều mặt vào
môi trường, có khả năng gây tác hại đối với tài sản, sức khỏe, tính mệnh con người
cũng như tác động tiêu cực đến môi trường trái đất.
Như vậy, có thể thấy ANMT và ATMT là mối quan hệ đan xe giữa môi trường và
xã hội, giữ vững ANMT và ATMT chính là bảo vệ những thành quả phát triển chung
của nhân loại, bảo vệ sự sống còn của loài người.


2. Nguyên Nhân dẫn đến mất an ninh môi trường và an toàn môi trường ở Việt
Nam Hiện Nay
Một hệ thống môi trường bị mất an ninh và an toàn có thể do các nguyên nhân
tự nhiên (thiên tai), do hoạt động của con người (gây suy thoái môi trường, cạn kiệt tài
nguyên...) hoặc do phối hợp cả hai nguyên nhân trên.
- Thứ nhất: Mất an ninh và an toàn về môi trường do thiên tai:
Thiên tai là những biến đổi của thiên nhiên làm thiệt hại đến con người và sản
xuất. Để giảm nhẹ, hạn chế những thiệt hại do thiên tai gây ra, con người tìm cách
phòng tránh là chủ yếu, bằng việc tăng cường khả năng dự đoán, dự báo, chung sống
thích nghi, quy hoạch, thiết kế công trình thích ứng, ứng cứu khi thiên tai xảy ra. Thiên
tai xảy ra có thể ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, quân sự, an ninh
quốc phòng...
- Thứ hai: Mất an ninh và an toàn về môi trường do các hoạt động của con
người:
Việc con người khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên sẽ dẫn đến nguy cơ cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, mất cân bằng sinh thái và suy thoái môi trường nghiêm
trọng. Việc tăng dân số quá mức, việc sử dụng năng lượng không hợp lý, sự khai thác
quá độ tài nguyên thiên nhiên, sự phá hoại của quân sự... đều gây mất an ninh và an

toàn về môi trường.
Mất ANMT và ATMT bởi hoạt động của con người nảy sinh từ các vấn đề sau:
- Thứ nhất: Do nhận thức chưa đầy đủ về môi trường:
Trong thời gian qua, nhận thức của các cấp chính quyền và nhân dân trong việc
cần phải giữ vững ANMT và ATMT còn yếu kém. Việc lồng ghép chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội gắn liền với ANMT và ATMT chưa cao. Việc giáo dục ý thức ANMT
và ATMT cho xã hội vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Qua khảo sát của Bộ Tài nguyên
và Môi trường, 33,9% số người được hỏi cho rằng: Tài nguyên của Việt Nam là vô tận;
36,9% cho rằng tài nguyên rừng của Việt Nam là vô tận; 27,55% cho rằng chỉ nước
mặt mới bị ô nhiễm, còn nước ngầm thì không; 29,2% cho rằng môi trường ở thành
phố bị ô nhiễm, còn ở nông thôn thì không.
Theo khảo sát của Tổng cục môi trường (tháng 10-2015), trên 90% người dân
được hỏi cho rằng họ có quá ít thông tin về môi trường và cho rằng lỗi ô nhiễm môi
trường là thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương. Trên


thực tế còn có nhiều quy định về bảo vệ môi trường mà người dân không được biết,
nhất là những người dân ở vùng sâu, vùng xa thường có những hoạt động trực tiếp liên
quan đến bảo vệ ANMT và ATMT. Chính việc nhận thức sai lệch trên là một trong
những nguyên nhân khiến cho các cấp chính quyền và người dân có những hành vi
không thân thiện với môi trường, thiếu ý thức bảo vệ ANMT và ATMT.
- Thứ hai: Do quản lý nhà nước về môi trường thiếu hiệu quả:
Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường tuy đã được hình thành về cơ bản
nhưng vẫn nhiều quy định còn chung chung, thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể, thậm chí
chồng chéo giữa các luật với nhau như: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật
Bảo vệ rừng, Luật Khoáng sản,... Thiếu các cơ chế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
môi trường gây ra, giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường. Nhiều quy định về
xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường mới chỉ dừng lại ở nguyên tắc, chưa có cơ chế
phù hợp để thực hiện nên chưa phát huy được hiệu quả. Các loại thuế, phí về môi
trường mới chỉ bước đầu tạo nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trò

công cụ kinh tế điều tiết vĩ mô, hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Năng lực quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường còn nhiều bất cập, không theo
kịp với sự phát sinh và tính chất ngày càng phức tạp của các vấn đề môi trường. Ở cấp
địa phương, cơ cấu tổ chức và năng lực của tổ chức chuyên môn về bảo vệ môi trường
chưa đáp ứng yêu cầu quản lý. Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu về số
lượng và chất lượng, mất cân đối về cơ cấu. Bên cạnh đó, nguồn lực tài chính đầu tư từ
ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Hoạt động hợp tác quốc tế về bảo vệ ANMT và
ATMT chưa có sự chủ động, chưa tranh thủ được tối đa, nắm bắt kịp thời các cơ hội
huy động hỗ trợ tài chính và chuyển giao công nghệ về bảo vệ ANMT và ATMT.
- Thứ ba: Vai trò tham gia của doanh nghiệp trong bảo đảm ANMT và ATMT
chưa cao.
Còn nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tập trung vào
các nhóm hành vi: Thực hiện không đúng các nội dung báo cáo đánh giá tác động môi
trường, cam kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt, xác nhận; Quản lý chất thải
không đúng quy định; tự ý điều chỉnh, thay đổi thiết kế, công nghệ của các công trình
xử lý chất thải nhằm xả trộm chất thải không qua xử lý ra môi trường; Xả nước
thải, khí thải không đạt quy chuẩn kỹ thuật về môi trường...
3. Biểu hiện an ninh môi trường và an toàn môi trường ở Việt Nam hiện nay


Ở Việt Nam, bảo đảm ANMT và ATMT được coi là một trong những nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Bảo vệ môi trường là
một trong những vấn đề sống còn của nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khỏe và chất
lượng cuộc sống của nhân dân; góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã
hội, ổn định chính trị, an ninh quốc phòng và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế của
nước ta.
Giống như ở nhiều nước khác, ở Việt Nam hiện nay môi trường sống của con
người đang trở nên bất an, đang bị đe dọa nghiêm trọng vì ô nhiễm môi trường đang
tác động hàng ngày, hàng giờ đến con người. Những hiện tượng suy thoái môi trường
mà các nước đang phải đối mặt như: Biến đổi khí hậu toàn cầu, tính đa dạng sinh vật

giảm xuống, đất đai hoang mạc hóa, rừng bị cạn kiệt, nguồn nước ngọt và tài nguyên
biển bị cạn kiệt...cũng là những hiện tượng mà Việt Nam đang phải đối mặt.
Vì vậy, việc xem xét, đánh giá vấn đề ANMT và ATMT ở nước ta hiện nay là cần
thiết. Có thể khái quát một số biểu hiện của ANMT và ATMT ở Việt Nam hiện nay
như sau:
3.1. Biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng đe dọa môi sinh
Có thể thấy, một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của ANMT và
ANTMT hiện nay là Biến đổi khí hậu (BĐKH). BĐKH, nước biển dâng là một thách
thức lớn, đe dọa nghiêm trọng mục tiêu phát triển bền vững và sinh kế của người dân.
Quốc tế cảnh báo Việt Nam là một trong 5 quốc gia ở khu vực châu Á phải chịu nhiều
hậu quả nhất do BĐKH, nước biển dâng. Trong gần 50 năm qua, thời tiết ở nước ta đã
có nhiều biến đổi bất thường. Nhiệt độ trung bình năm giai đoạn 1961 - 2000 ở nước ta
cao hơn trung bình năm của giai đoạn 1931 - 1960. Ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố
Hồ Chí Minh, nhiệt độ trung bình năm trong giai đoạn 1991 - 2007 đều cao hơn trung
bình giai đoạn 1931 - 1940. Số đợt không khí lạnh đã giảm rõ rệt trong 20 năm qua
nhưng lại có diễn biến bất thường. Số cơn bão trên Biển Đông trung bình đều có xu
hướng tăng và cường độ ngày một mạnh hơn, quỹ đạo có dấu hiệu dịch chuyển dần về
phía Nam và mùa bão cũng kết thúc muộn hơn. Bản đồ phân bố mưa ở nước ta có
nhiều thay đổi, phân bố không đều và nhiều dị thường. BĐKH đã và tiếp tục tác động
mạnh hơn đến cuộc sống và kế sinh nhai của người dân, làm suy giảm tài nguyên thiên
nhiên, thay đổi cấu trúc xã hội, kết cấu hạ tầng của nền kinh tế và gây ra những bất ổn
chính trị - xã hội.
Hiện tượng ENSO (El Nino và La Nina) ảnh hưởng đến nước ta mạnh hơn
trong các thập kỷ 1981 - 1990, đặc biệt là từ 1991 - 2000 so với các thập kỷ trước đó,


làm xuất hiện nhiều cực trị mới về nhiệt độ, lượng mưa, hạn hán, lũ lụt. Đợt mưa cuối
tháng 10 và đầu tháng 11 năm 2008 với lượng mưa 24 giờ lớn nhất ở Hà Nội, Hà Đông
là một trong những biểu hiện của mưa lớn trái mùa, gây hậu quả nghiêm trọng.
Sự bất thường của chu kỳ khí hậu nông nghiệp không những dẫn tới sự tăng

dịch bệnh, dịch hại, giảm sút năng suất mùa màng, mà còn gây ra các rủi ro nghiêm
trọng khác. Theo tính toán của các nhà khoa học, BĐKH đang làm cho năng suất lúa
xuân ở vùng đồng bằng sông Hồng có thể giảm 3,7% vào năm 2020 và giảm tới 16,5%
vào năm 2070; năng suất lúa mùa sẽ giảm 1% vào năm 2020 và giảm 5% vào năm
2070 nếu không có các biện pháp ứng phó kịp thời và hiệu quả.
Trong 10 năm trở lại đây, cả nước liên tiếp xảy ra thiên tai, như: lũ lụt, ngập úng
lớn, lũ quét, hạn hán,...gây thiệt hại nặng nề đến đời sống dân cư, hạ tầng cơ sở. Chỉ
tính riêng đợt mưa lũ trên địa bàn các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Sơn La, Cao
Bằng đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản. 33 người chết và mất tích, tổng thiệt
hại về vật chất lên tới hơn 610 tỷ đồng.
Đợt mưa lũ bất thường xảy ra từ ngày 9 đến 14/10/2017 tại các tỉnh Bắc Bộ và
Bắc Trung Bộ gây thiệt hại nặng nề: Hòa Bình ước tính 802 tỷ đồng, Yên Bái khoảng
700 tỷ đồng, Thanh Hóa khoảng 2,9 nghìn tỷ đồng. Tổng thiệt hại do thiên tai ước tính
khoảng 6,1 nghìn tỷ đồng. Tính chung mười tháng năm 2017, thiên tai làm 280 người
chết, mất tích và 283 người bị thương; 4,9 nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi và 308
nghìn ngôi nhà bị ngập, sạt lở, tốc mái; 163,7 nghìn ha lúa và 101,4 nghìn ha hoa màu
hư hỏng.
Nếu nước biển dâng 1m thì 10,8% người dân Việt Nam bị ảnh hưởng trực tiếp,
tỷ lệ lớn nhất trong 84 nước đang phát triển; 40.000 km2 đồng bằng ven biển Việt
Nam sẽ bị ngập lụt hằng năm, trong đó 90% diện tích thuộc các tỉnh đồng bằng sông
Cửu Long bị ngập hầu như hoàn toàn, dẫn tới tình trạng mất chỗ ở và di cư vĩnh viễn,
hoặc tạm thời ở một số khu vực bị ảnh hưởng nặng nề. Mất nơi ở, thiếu đất sản xuất,
môi trường biến đổi hoặc do bệnh tật và nghèo đói thì vấn đề này sẽ không chỉ đơn
thuần là vấn đề xã hội, kinh tế mà có thể còn là vấn đề chính trị, chiến tranh.
3.2. An ninh nguồn nước
Việt Nam có 2.360 con sông thuộc 16 lưu vực sông. Do tính đặc thù về địa lý,
hơn 60% nước mặt của Việt Nam bắt nguồn từ các quốc gia khác (lưu vực sông Cửu
Long, 95% lượng nước chảy về từ thượng lưu sông Mê Kông; gần 40% lượng nước



mặt sông Hồng - sông Thái Bình bắt nguồn từ Trung Quốc; 30% của sông Mã, 22%
của sông Cả chảy về từ Lào; 17% của sông Đồng Nai chảy về từ Cam-pu-chia).
Do phải phụ thuộc chủ yếu từ nguồn cấp từ bên ngoài lãnh thổ, an ninh nguồn
nước của ta có thể bị đe dọa từ sự sử dụng của các nước láng giềng, đặc biệt là sông
Mê Kông và sông Hồng. Và trên thực tế, hai con sông này đang bị các quốc gia vùng
thượng nguồn (đặc biệt là Trung Quốc và Thái Lan) sử dụng bất chấp hậu quả gây ra
đối với Việt Nam. Nhiều đập và hồ chứa lớn, nhỏ được Trung Quốc, Thái Lan, Lào
xây dựng trên sông Mê Kông đang đe dọa trực tiếp cuộc sống của hàng chục triệu
người dân đồng bằng sông Cửu Long. Sông Hồng cũng đang bị cạn kiệt và ô nhiễm,
trong đó có sự xả nước thải độc hại từ các khu công nghiệp phía bên kia biên giới,
nguy hiểm nhất là nguy cơ rò rỉ phóng xạ hạt nhân từ các nhà máy điện nguyên tử của
Trung Quốc phía thượng nguồn. Trong tương lai gần, nếu các quốc gia có quyền lợi
gắn với các dòng sông chung với nước ta cố tình triển khai các dự án phát triển một
cách thiếu trách nhiệm với các nước liên quan, thì tranh chấp tài nguyên nước giữa
Việt Nam và các nước trong khu vực cũng trở nên căng thẳng, nghiêm trọng.
Với đặc điểm như vậy, Việt Nam cực kỳ nhạy cảm với mọi hoạt động liên quan
đến khai thác và sử dụng nguồn nước từ phía thượng lưu. Trong khi đó, BĐKH đang
làm suy thoái tài nguyên nước, nhưng nhu cầu dùng nước của các quốc gia đều tăng
lên, làm tăng các bất đồng và xung đột trong sử dụng chung nguồn nước. Mặc dù có
nhiều cơ chế hợp tác song phương, đa phương về phát triển bền vững (PTBV) nguồn
nước, nhưng thực tế vẫn đang đặt ra nhiều sức ép cho Việt Nam.
Để bảo đảm sự bền vững về tài nguyên nước, mức khai thác không được vượt
ngưỡng 30% nguồn nước, nhưng hầu hết các lưu vực sông ở miền Trung, miền Đông
Nam Bộ và Tây Nguyên đã và đang khai thác trên 30 -50% lượng dòng chảy, ở Ninh
Thuận khai thác tới 70 -80% nguồn nước. Việc khai thác quá mức nguồn nước, đặc
biệt là xây dựng các công trình hồ chứa thủy lợi, hồ chứa thủy điện chặn hoàn toàn
dòng chảy sông là nguyên nhân làm suy giảm rõ rệt số lượng và chất lượng nước trên
các lưu vực sông lớn như: Sông Hồng, Sông Đồng Nai, Sông Sài Gòn, Sông Gia Vu,
Sông Thu Bồn, Sông Ba, Sông Sêrêpok ...
Do tập quán, thói quen sản xuất, canh tác nông nghiệp sử dụng nhiều nước của

nhân dân nhưng lại thiếu các biện pháp hợp lý giữ, trữ nước trong mùa mưa lũ để dùng
dần trong mùa khô nên thường xuyên phải đối phó với tình trạng thiếu nước vào mùa
khô ở nhiều nơi. Việt Nam hiện thuộc nhóm quốc gia “thiếu nước” do lượng nước mặt
bình quân đầu người mỗi năm chỉ đạt 3.840m 3, thấp hơn chỉ tiêu 4.000m3 một người


mỗi năm của Hội Tài nguyên Nước quốc tế (IWRA). Đây được xem là một nghịch lý
đối với một quốc gia có mạng lưới sông ngòi dày đặc như nước ta.
3.3. An ninh môi trường biển
Việt Nam có lợi thế về biển, tuy nhiên, nước ta cũng phải đối mặt với các vấn
đề về ANMT và chủ quyền lãnh thổ. Theo các tài liệu, 80% các rạn san hô ở biển
Đông bị suy giảm, dẫn đến suy giảm nguồn cá. Thời gian gần đây, việc Trung Quốc
tiến hành hàng loạt các hoạt động tôn tạo, xây dựng trái phép các bãi đá nhân tạo với
quy mô lớn tại biển Đông cũng là nguyên nhân dẫn tới những tác động tiêu cực về môi
trường tại vùng biển này.
Hiện nay, 70% - 80% lượng rác thải trên biển có nguồn gốc từ các nhà máy, xí
nghiệp, khu công nghiệp, khu dân cư xả nước thải, chất thải rắn không qua xử lý ra các
con sông ở vùng đồng bằng ven biển, hoặc xả thẳng ra biển. Bên cạnh đó, năng lực
ứng phó với rủi ro ô nhiễm môi trường (ÔNMT) biển còn nhiều hạn chế. Trong tháng
4/2016, tại ven biển 4 tỉnh miền Trung xảy ra sự cố môi trường biển nghiêm trọng, làm
hải sản chết bất thường, gây thiệt hại lớn về kinh tế - xã hội, môi trường biển; ảnh
hưởng đến đời sống người dân, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Từ đó cho thấy, một số
địa phương đã chú trọng phát triển kinh tế, thu hút đầu tư mà chưa quan tâm đúng mức
tới bảo vệ môi trường (BVMT). Đây là một bài học lớn và đắt giá cho Việt Nam, cần
phải bảo đảm hài hòa lợi ích giữa phát triển kinh tế và BVMT.
3.4. Xâm lược sinh thái
Ở nước ta, các hành vi “xâm lược sinh thái” đang diễn biến rất phức tạp và rất
khó kiểm soát. Các tổ chức tội phạm về môi trường trong nước móc nối với một số cán
bộ, các ngành chức năng, lợi dụng sơ hở, thiếu sót, bất cập trong hệ thống pháp luật và
yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thực hiện nhiều hành vi tiếp tay cho các

cuộc “xâm lược sinh thái” của nước ngoài, như nhập khẩu phế liệu công nghiệp, biến
nước ta thành bãi rác công nghiệp của thế giới; nhập nông sản có hóa chất độc hại gây
hại sức khỏe cộng đồng; du nhập các loài sinh vật lạ làm mất cân bằng sinh thái và hủy
hoại môi sinh. Tình trạng nhập khẩu trái phép chất thải vào trong nước dưới hình thức
phế liệu làm nguyên liệu sản xuất, máy móc, thiết bị công nghệ lạc hậu diễn ra công
khai nhưng chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để. Hàng trăm sân gôn do các nhà đầu tư
nước ngoài được xây dựng ở hầu hết các tỉnh, thành phố, chiếm hàng trăm nghìn hécta đất canh tác, đe dọa an ninh lương thực và hủy diệt môi sinh chưa được kiểm soát.
Tình trạng nhập nông sản có chứa các hóa chất bảo quản độc hại, gây hại cho sức khỏe
cộng đồng ngày càng có xu hướng gia tăng, chưa được ngăn chặn. Có khá nhiều loài


con và cây lạ có nguồn gốc từ nước ngoài đã xuất hiện ở Việt Nam, phá hoại cây trồng,
vật nuôi, gây mất cân bằng sinh thái và ảnh hưởng nghiêm trọng sức khỏe cộng đồng.
3.5. Ô nhiễm môi trường
Tình trạng ô nhiễm môi trường sống (hay còn gọi là quá trình tự hủy diệt) do các
hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người gây ra gây bức xúc trong dư luận. Vấn
đề này ngày càng trầm trọng, đe dọa trực tiếp sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững,
đến ANMT và ATMT của các thế hệ hiện tại và tương lai. ÔNMT bao gồm ba loại
chính là: ô nhiễm đất, ô nhiễm nước và ô nhiễm không khí. Cả ba loại ô nhiễm đó đều
đang vượt nhiều lần tiêu chuẩn cho phép ở các đô thị lớn, khu công nghiệp và làng
nghề.
Theo báo cáo giám sát của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội, tỷ lệ các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải rất thấp, có nơi chỉ
đạt 15 - 20%, như: Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Vĩnh Phúc. Một số khu công nghiệp có
xây dựng hệ thống xử lýnước thải tập trung nhưng hầu như không vận hành vì để giảm
chi phí. Thí dụ như, dọc lưu vực sông Đồng Nai mỗi ngày phải tiếp nhận trên 111
nghìn m3 nước thải của 56 khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động nhưng chỉ
có 21 khu có hệ thống xử lý nước thải tập trung, số còn lại đều xả trực tiếp vào nguồn
nước, gây tác động xấu đến chất lượng nước của các nguồn tiếp nhận...
Có nơi, hoạt động của các nhà máy trong khu công nghiệp đã hủy hoại môi

trường, phá vỡ hệ thống thủy lợi, tạo ra những cánh đồng hạn hán hoặc ngập úng và ô
nhiễm nguồn nước tưới, gây trở ngại cho phát triển kinh tế - xã hội như trường hợp
nhà máy Formusa (Hà Tĩnh) năm 2016. Số hải sản chết dạt vào bờ được đánh giá
khoảng 100 tấn, có tới trên 17.600 tàu cá và gần 41 nghìn người đã bị ảnh hưởng trực
tiếp.
Trên 176 nghìn người phụ thuộc bị ảnh hưởng do không thể đánh bắt trong phạm
vi từ bờ đến 20 hải lý, có tới 90% tàu lắp máy công suất thấp và gần 4nghìn tàu không
lắp máy đã phải nằm bờ. Sản lượng khai thác ven bờ thiệt hại khoảng 1.600 tấn/tháng.
Bên cạnh ô nhiễm ở các khu công nghiệp là ô nhiễm ở các làng nghề. Trong đó,
ngành sản xuất có thải lượng ô nhiễm lớn nhất là tái chế kim loại, quá trình nàyphát
sinh các khí độc,như:hơi axit, kiềm, oxit kim loại (PbO, ZnO, Al 2 O3), như làng nghề
tái chế chì Đông Mai (Hưng Yên).


Các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm, chăn nuôi và giết mổ phát sinh ô
nhiễm mùi do quá trình phân hủycác chất hữu cơ trong nước thải và các chất hữu cơ
trong chế phẩm thừa thải ra tạo nên các khí như SO 2, NO2, H2S, NH3... Các khí này có
mùi hôi tanh, điển hình như ở làng trống da Lâm Yên (Đại Lộc, Quảng Nam).
Các làng nghề ươm tơ, dệt vải và thuộc da, thường bị ô nhiễm các khí: SO 2, NO2.
Các làng nghề thủ công mỹ nghệ thường bị ô nhiễm nặng bởi khí SO 2 phát sinh từ quá
trình xử lý chống mốc cho các sản phẩm mây tre đan. Nồng độ SO 2, NO2 tại các làng
nghề tái chế nhựa khá cao, vượt nhiều lần giới hạn cho phép. Hoạt động gây ô nhiễm
môi trường tại các làng nghề không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống, sinh hoạt
và sức khỏe của người dân làng nghề mà còn ảnh hưởng đến cả những người dân sống
ở vùng lân cận, dẫn đến sự phản ứng quyết liệt của bộ phận dân cư này, làm nảy sinh
các xung đột xã hội.
Ngoài ra, ô nhiễm môi trường tại các đô thị lớn cũng ở mức báo động. Đó là các
ô nhiễm về nước thải, rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, không khí, tiếng ồn... Theo thống
kê của cơ quan chức năng, mỗi ngày người dân ở các thành phố lớn thải ra hàng nghìn
tấn rác; các cơ sở sản xuất thải ra hàng trăm nghìn mét khối nước thải độc hại; các

phương tiện giao thông thải ra hàng trăm tấn bụi, khí độc.
Trong tổng số khoảng 34 tấn rác thải rắn y tế mỗi ngày, Hà Nội và TP. Hồ Chí
Minh đã chiếm đến 1/3; bầu khí quyển của thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có
mức benzen và sunfua đioxit đáng báo động. Đây là quá trình tự hủy diệt môi sinh của
con người trong quá trình tồn tại và phát triển.
3.6. Ô nhiễm xuyên biên giới
Thời gian qua, một số nhà máy điện hạt nhân Trung Quốc được xây dựng gần
Việt Nam là vấn đề đáng lo ngại. Đây thực sự là thách thức ô nhiễm xuyên biên giới
đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa tới ANMT, ANQG. Nước ta cũng đang phải đối diện với
nguy cơ trở thành “bãi rác công nghiệp của thế giới”. Theo thống kê của Tổng cục Hải
quan, năm 2011, phát hiện 17 vụ với khối lượng chất thải nguy hại thu giữ là 573 tấn,
năm 2012, có 30 vụ với khối lượng thu giữ 3.868 tấn.
Nghiên cứu của IMHEN tại 9 tỉnh ở miền Bắc cho thấy, môi trường không khí
đang chịu ảnh hưởng của các nguồn ô nhiễm xuyên biên giới từ vùng phía Đông và
Đông Nam Trung Quốc, đặc biệt là vào các tháng mùa đông. Do chịu ảnh hưởng của
gió mùa Đông Bắc, không khí từ Trung Quốc (có thể tới 55% đối với SO 2, 48% đối


với NO2 và 30% đối với CO) nên gây ra hiện tượng lắng đọng mưa axit, làm độ pH
của hồ, ao giảm đi nhanh chóng, các sinh vật trong hồ, ao suy yếu hoặc chết hoàn toàn.
3.7. Suy giảm tài nguyên rừng và đa dạng sinh học
Cũng theo Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2015, điều
đáng lo ngại là chất lượng rừng tự nhiên tiếp tục giảm. Tuy độ che phủ rừng có xu
hướng tăng, nhưng chủ yếu là rừng trồng với mức đa dạng sinh học (ĐDSH) thấp.
Tính riêng năm 2014, tổng diện tích rừng bị cháy là 3.157 ha, tăng 157,2% so với năm
trước. Trong 22 năm qua (1990 - 2012), tỷ lệ mất rừng ngập mặn gấp 1,7 lần giai đoạn
47 năm trước (1943 - 1990). Theo thống kê, tính đến năm 2012, 56% tổng diện tích
rừng ngập mặn trên toàn quốc là rừng mới trồng, thuần loại, chất lượng rừng kém cả
về kích cỡ, chiều cao và đa dạng thành phần loài.
Suy giảm ĐDSH, sự du nhập của các sinh vật ngoại lai xâm hại và sinh vật

biến đổi gen xâm lấn ngày càng tăng. Trên thực tế, nước ta có nhiều loài (mai dương,
ốc bươu vàng, rùa tai đỏ, bọ cánh cứng hại dừa, virus gây bệnh heo tai xanh...) có
nguồn gốc từ nước ngoài, phá hoại cây trồng, vật nuôi, gây mất cân bằng sinh thái, hủy
hoại môi sinh và ảnh hưởng tới sức khỏe cộng đồng. Nhiều loài động, thực vật hoang
dã ở Việt Nam có nguy cơ tuyệt chủng, diện tích rừng nguyên sinh còn thấp và khó có
khả năng phục hồi, một số loài sinh vật biển suy giảm nghiêm trọng... Theo Sách đỏ
của Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN), nếu như năm 1996 mới chỉ có 25
loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp thì đến năm 2014, con số này đã lên tới
188.
3.8. Vấn đề môi trường trong khai thác khoáng sản
Thực trạng khai thác tài nguyên khoáng sản của Việt Nam cho thấy đang tồn tại
nhiều bất cập. Một số khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố liên tục đã bị chia nhỏ để
khai thác. Đặc biệt, nạn khai thác không phép, tự do, nhất là đối với vàng, đá quý, chì,
kẽm, đồng, than, cát... chưa được kiểm soát hiệu quả, tác động nghiêm trọng đến môi
trường, tài nguyên và an ninh xã hội. Vấn nạn “cát tặc” trên các con sông diễn ra rất
phức tạp, gây sụt lún đất hai bên bờ sông, ÔNMT và xảy ra nhiều xung đột nhưng
chưa có biện pháp xử lý triệt để.
4. Biện pháp
Ở Việt Nam, bảo đảm ANMT và ATMT được coi là một trong những nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Để chủ động làm giảm
nhẹ các nguy cơ đe dọa ANMT và ATMT, Việt Nam cần thực hiện nhiều giải pháp,
trong đó có các giải pháp sau:


- Thứ nhất: Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận
thức của xã hội
Đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, giáo dục nâng cao nhận thức của xã
hội trước hết là của tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức chính trị xã hội và đội ngũ cán bộ, đảng viên về ANMT và ATMT và trách nhiệm bảo đảm
ANMT và ATMT; làm cho nhiệm vụ bảo vệ ANMT và ATMT phải trở thành ý thức và
hành động tự giác của mỗi thành viên trong xã hội, trở thành nếp sống văn hóa của

mỗi người; tạo dư luận xã hội lên án các hành vi sử dụng lãng phí tài nguyên, đốt phá
rừng, gây ô nhiễm môi trường, săn bắt, tiêu thụ động vật hoang dã; làm cho ANMT và
ATMT thực sự trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của an ninh quốc gia.
Đồng thời, quán triệt quan điểm đầu tư phát triển bền vững, không đánh đổi môi
trường để phát triển kinh tế, không thu hút đầu tư bằng mọi giá; trong các kế hoạch,
các quy hoạch, các dự án của quá trình phát triển kinh tế phải có các biện pháp và kế
hoạch bảo vệ môi trường. Phải nhanh chóng lồng ghép chặt chẽ ANMT và ATMT với
các chính sách phát triển kinh tế, xã hội
- Thứ hai: Đẩy mạnh giáo dục về môi trường cho học sinh bậc tiểu học và
trung học cơ sở:
Nhà trường là nơi truyền thụ tri thức và giáo dục nhân cách cho các thế hệ học
sinh. Giáo dục môi trường giúp cho người học phát triển toàn diện về nhân cách. Nhà
trường là môi trường thuận lợi nhất để xây dựng văn hóa ứng xử với môi trường cho
học sinh; đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục nhân cách cho học sinh.
Hiện nay ở các nhà trường bậc tiểu học và trung học cơ sở chưa có môn học riêng về
môi trường tự nhiên, nên nội dung văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên chưa trở
thành hệ thống kiến thức đầy đủ. Môn giáo dục công dân tuy có bài giảng về chủ đề
môi trường và phát triển bền vững, nhưng nội dung còn khô cứng, khó hiểu. Để đạt
được hiệu quả giáo dục cao, cần kết hợp giáo dục xây dựng văn hóa ứng xử với môi
trường tự nhiên với các hoạt động ngoại khóa.
- Thứ 3: Tiếp tục nghiên cứu, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường và xây dựng pháp luật về ANMT và ATMT; tăng cường năng lực của cơ
quan chuyên trách bảo vệ môi trường, thành lập cơ quan chuyên trách bảo đảm
ANMT và ATMT quốc gia:
Về công tác lập pháp, ngoài việc tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi pháp luật
về bảo vệ môi trường, cần nghiên cứu xây dựng, ban hành pháp luật về ANMT và
ATMT.


Nghiên cứu thành lập cơ quan ANMT và ATMT quốc gia, theo hướng: là cơ quan

của Chính phủ có chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ ANMT và ATMT, thực hiện
các nhiệm vụ bảo vệ ANMT và ATMT, là đầu mối quan hệ, hợp tác quốc tế về bảo vệ
ANMT và ATMT và có thẩm quyền xử lý các hành vi xâm phạm ANMT và ATMT
(không trùng với chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tổng cục Môi trường của Bộ
Tài nguyên và Môi trường), trên cơ sở hợp nhất chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền
của Ban Chỉ đạo phòng, chống lụt bão Trung ương, Ủy ban Tìm kiếm, cứu hộ, cứu
nạn, một số chức năng của Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) và
Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường (Bộ Công an).
- Thứ tư: Giữ nghiêm kỷ cương và phép nước về môi trường:
Tăng cường xử phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường là giải pháp cần thiết đối với
mọi đối tượng. Ô nhiễm môi trường diễn ra ở nhiều nơi, cả trong sản xuất và trong
sinh hoạt do nhiều hành vi khác nhau, vì vậy cần phải có những chế tài đủ mạnh để có
sức răn đe. Việc xử phạt các hành vi gây ô nhiễm môi trường là một trong những biện
pháp hiệu quả nhất để hình thành ý thức, thái độ và hành vi ứng xử có văn hóa với môi
trường tự nhiên, tạo thành hành vi mang tính tự giác, tự nguyện của con người trong
mối quan hệ với tự nhiên. Việc xử phạt các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường
phải được thực hiện thường xuyên ở tất cả các lĩnh vực của cuộc sống, ở các mức độ vi
phạm khác nhau, các chủ thể khác nhau, ởđâu có hành vi vi phạm thì ở đó cần phải có
những biện pháp xử phạt đúng mức. Hiện nay, việc xử phạt các hành vi gây ô nhiễm
môi trường chưa được thực hiện nghiêm, chưa kiên quyết, kể cả hành vi vi phạm
nghiêm trọng của các doanh nghiệp.
- Thứ Năm: Tập trung đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo,
khắc phục hậu quả thiên tai, ứng phó với BĐKH:
Chủ động xây dựng, tổ chức diễn tập thành thục các kịch bản, phương án ứng
phó với các tình huống thời tiết cực đoan, bão, lũ, lụt, động đất, sóng thần và thảm
họa hạt nhân. Chuẩn bị tốt các phương án di dân, di dời các công trình quan trọng về
quốc phòng, an ninh ra khỏi vùng nguy hiểm. Tổ chức rà soát, đánh giá tác động, ảnh
hưởng của các dự án phát triển đến sinh hoạt và sản xuất của nhân dân, hạn chế thấp
nhất để xảy ra các xung đột môi trường, nhất là xung đột giữa công nghiệp (thủy điện,
khu công nghiệp tập trung) với cộng đồng làm nông nghiệp, thủy sản, giữa người dân

với chính quyền, doanh nghiệp, chủ đầu tư do doanh nghiệp xả ô nhiễm ra môi trường
và chính quyền xử lý không nghiêm, để người dân nghi ngờ có sự tiếp tay của cán bộ
chính quyền.
- Thứ sáu: Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ ANMT và ATMT:


Tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế về bảo vệ ANMT và ATMT. Đặc biệt
quan tâm xử lý tốt các tranh chấp an ninh nguồn nước trong khuôn khổ Tiểu vùng
sông Mê Kông, sông Hồng và khai thác nguồn lợi thủy sản khu vực Biển Đông với
Trung Quốc và các nước có liên quan.
- Thứ bảy: Giải quyết một cách hài hòa, đồng bộ mối liên hệ giữa phát triển kinh
tế, BVMT và các vấn đề xã hội: Thay đổi tư duy phát triển và kiểm soát chặt chẽ các
nguồn gây ô nhiễm, xả thải trực tiếp ra môi trường mà không qua xử lý.
- Thứ 8: Tăng cường công tác quản lý về bảo tồn ĐDSH, bảo vệ và phát triển
rừng:
Nghiêm cấm, kiểm soát chặt chẽ các sinh vật ngoại lai xâm hại; kiểm soát chặt
chẽ việc quy hoạch, cấp phép trong hoạt động khai thác, chế biến tài nguyên thiên
nhiên. Bên cạnh đó, tăng cường năng lực, bộ máy của các cơ quan dự báo khí tượng,
đồng thời, lồng ghép BĐKH vào các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình
của Trung ương cũng như địa phương.


PHẦN KẾT LUẬN
Môi trường ở Việt Nam hiện nay đang rất không an toàn cho con người. Con
người đang phải gánh chịu những tác động tiêu cực từ môi trường. Sự bất an toàn về
môi trường là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội. Để
đảm bảo an ninh và an toàn về môi trường thì trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội thì con người cần nêu cao tinh thần, ý thức, trách nhiệm cân bằng giữa lợi ích
trước mắt và lâu dài, kết hợp đầu tư phát triển kinh tế với đầu tư bảo vệ môi trường.



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đình Hòe, giáo trình An ninh môi trường, Hà Nội – 2003.
2. Nguyễn Đình Hòe, giáo trình Môi trường và Phát triển bền vững, nhà xuất bản giáo
dục, tháng 11-2007.
3. Trần Thị Thúy Hà, An ninh về môi trường ở Việt Nam hiện nay, tháng 5 – 2017.
4. Nguồn internet



×