Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tiểu luận triết học về vai trò khoa học công nghệ thời kì đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (58.02 KB, 7 trang )

Tiểu luận triết học về vai trò khoa học công nghệ thời kì đổi mới
A/đặt vấn đề
Đất nước việt nam ta trong thế kỉ trước đã trải qua 3/4 thế kỉ sống trong chiến tranh đất nước bị tàn phá
hoang tàn đổ nát với vật chất kĩ thuật lạc hậu.Vậy mà mới chỉ sau gần 30 năm sau ngày giải phóng cuộc
sống của chúng ta được cải thiện rõ ràng .Kinh tế chính trị ổn định tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền
vững. Đặc biệt là từ năm 1988 trở lại đây,từ khi chóng ta tiến hành công cuộc đổi mới đất nước một cách
toàn diện về mọi mặt đời sống xã hội có những chuyển biến sâu sắc, tích cực Đảng và nhà nước đã vận
dụng sáng tạo tư duy triết học Mac- Lênin: “bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” Con
người là sản phẩm của xã hội nhưng cũng chính con người tạo lên xã hội Êy và cải tạo xã hội đưa xã hội
tiến lên bằng chính tri thức mà mình có được từ xã hội. Có được sự phát triển của đất nước nh ngày nay
không thể không kể đến đóng góp của tri thức khoa học. Ngay từ xưa tổ tiên ta vẫn coi “hiền tài là nguyên
khí quốc gia nguyên khí Êy mạnh thì nước thịnh nguyên khí Êy yếu thì nước suy”. Vì thế hiền tài được
trọng dụng ở mọi thời đại mọi lúc mọi nơi. Hay nói khác đi là tri thức khoa học luôn cần cho sự phát triển
của loài người Không có ý thức con người không khác gì so với những loài vật trong tự nhiên. Vì có ý
thức từ quan sát trực quan, con người tìm ra được nguyên lý cũng như tác dụng của moị hiện tượng từ đó
sáng tạo ra những cái mới từ đó nhờ quá trình lao động sự tiến hoá của loài người luôn đi cùng sự tiến bộ
của công cụ sản xuất. Ngày nay lực lượng sản xuất trên thế giới đã phát triển tới một trình độ cao trong
khi đó đất nước ta còn ở tình trạng lẹt đẹt chậm tiến hàng chục thậm chí hàng trăm năm so với các nước
khác trên thế giới. Năm 1988 là một dấu mốc quan trọng nã thể hiện quyết định đúng đắn sáng suốt của
Đảng và Nhà nước ta. Đất nứơc ta chậm phát triển lực lượng sản xuất trình Học viện ngân hàng 2 Tiểu
luận triết học MácLênin độ thấp kém kĩ thuật lạc hậu sở dĩ như vậy vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ
chế độ phong kiến lai bị chiến tranh tàn phá bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa một chế độ là nền tảng khoa
hoc kĩ thuật để xây dựng nền tảng cho chủ nghĩa xã hội. Vì thế chúng ta phải mở cửa và mở cửa là đúng
đắn và cần thiết chúng ta mở cửa để tiếp thu khoa học công nghệ và tri thức thế giới vận dụng vào viêt
nam ta Cho đến nay sau gần 20 năm đổi mới mở cửa với sự góp sức của một lực lượng sản xuất quan
trọng là khoa học công nghệ bộ mặt đất nứơc đã thay đổi rõ rệt đời sống nhân dân cải thiện, đường sá, cầu
cống , nhà cửa khang trang hơn xây dựng được nhiều nhà máy điện lớn với sự góp sức của nước ngoài.
Xác định được tầm quan trọng của khoa học công nghệ nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách , biện
pháp đẩy mạnh hơn nữa Chóng ta luôn coi khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự phát
triển đất nước Ngày nay xu hướng phát triển của nền kinh tế thế giới là gắn kết ngày cằng chặt chẽ giữa
khoa học với công nghệ, tri thức khoa học là nền tảng sáng tạo khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ


ngày càng có vai trò quyết định đối với phát triển sản xuất xã hội .Khoa học và công nghệ được coi là lực
lượng sản xuất hàng đầu, đội ngò cán bộ khoa Tiểu luận triết học về vai trò khoa học công nghệ thời kì
đổi mới
9houz Tải bản đầy đủ Thích 0 Chia sẻ 26/11/2018 Tiểu luận triết học về vai trò khoa học công nghệ thời
kì đổi mới - Tài liệu text 2/9 học công nghệ là lực lượng nòng cốt của sức sản xuất mới nó tác
động toàn diện lên sự phát triển chung của tất cả các ngành các lĩnh vực. Làn sóng đổi mới công nghệ,
đặc biệt việc ứng dụng công nghệ cao như: công nghệ thông tin,công nghệ sinh học, công nghệ tự động
hoá, công nghệ chế tạo vật liệu, năng lượng mới đang tạo ra cho nhân loại những hệ thống sản xuất siêu
chính xác, hệ thống liên lạc hiện đại và trao đổi thông tin ở tốc độ rất cao, làm thay đổi cơ bản xã hội
nông nghiệp và công nghiệp truyền thống. Sự tụt hậu về khoa học công nghệ ngày nay có thể sẽ nhanh
chóng dẫn đến tụt hậu và lệ thuộc về kinh tế, chính trị và văn hoá của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy,


các nước nhất là các nước phát triển đã giành ưu tiên phát triển khoa học công nghệ phục vụ phát triển
kinh tế -xã hội. Học viện ngân hàng 3 Tiểu luận triết học MácLênin Đầu tư cho giáo dục thích đáng, cấp
vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và ứng dụng nó .Trọng dụng các nhà khoa học tránh chảy
máu chất xám hiện nay đất nước rất cần những nhà khoa học tài giỏi tuy nhiên những nhà khoa học lai
được hưởng chế độ chưa được thoả đáng cho nên giới trẻ ngày nay rất Ýt người chon cho mình nghề
nghiên cứu khoa học. Vì vây nhà nước cần có những chính sấch giữ lại những nhân tài do chính mình đào
tạo ra. Các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới, đang thay đổi toàn bộ hành vi và tư
duy của mỗi thành viên nhân loại. Vai trò con người và tri thức khoa học công nghệ được nâng lên một
tầm cao mới. Vì vậy mà em chon đề tài : “vai trò của khoa học công nghệ thời kì đổi mới của Việt Nam”
cho bài tiểu luận đầu tay này. Do thời gian hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai sót nhất định.
Kính mong các thầy cô đóng góp ý kiến nhiệt tình của các thầy cô trong khoa cho bài tiểu luận của em.
Học viện ngân hàng 4 Tiểu luận triết học MácLênin
I.2/TRI THỨC KHOA HỌC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI.
a/Khái niệm về khoa học Khoa học có nhiều định nghĩa khác nhau. Với tính cách là một lĩnh vực đặc thù
của con người khoa học bao gồm hoat động tinh thần hoạt động vật chất hoạt động lý luận và hoạt động
thực tiễn xã hội. Với tính cách là một hình thái xã hội, khoa học là một hệ thống tri thức khái quát, được
hình thành, phát triển và kiểm nghiệm trên cơ sở thực tiễn . Khoa học phản ánh một cách chân thực các

mối liên hệ bản chất, tất nhiên, các quy luật vân động của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Từ đó
thấy rằng:khoa học khác tôn giáo ở chỗ phản ánh một cách chân thực hiện thực, sự hình thành, phát triển
của thế giới khách quan và được kiểm nghiệm qua thực tiễn;còn tôn giáo phản ánh thực tiễn một cách hư
ảo với niềm tin mù quáng xa dời thực tiễn. Sự phản ánh của khoa học khác với các hình thái ý thức xã hội
khác ở chỗ phản ánh đúng đắn chân thực những gì đang diễn ra và đi sâu vào các mối liên hệ bản chất, tất
nhiên, các quy luật vận động phát triển của hiện thực. Hình thức biểu hiện chủ yếu của khoa học là các
khái niệm, phạm trù, quy luật.
b/ Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hôi.
Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn.Vai trò của khoa học ngày
càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Vai trò của nó thể hiện ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời những ngành sản xuất mới
công nghệ mới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu của người lao động,
biến người lao động thành người điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngò các nhà khoa hoc, kỹ
thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày một đông . Bản thân khoa học cũng trở thành
một lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn . Cùng với khoa học tự nhiên và khoa
học kỹ thuật , các khoa học xã hội nh kinh tế học , luật học , xã hội học …cũng không ngừng phát triển và
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội . Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống mà còn giúp con người có đầu óc tư duy sáng tạo , tầm nhìn sâu rộng . Điều này đặc biệt có ý nghĩa
đối với các 9houz nhà lãnh đạo vì phải nắm được cơ sở khoa học thực tế thì mới có kế hoạch định được
chính sách đường lối phát triển của một tổ chức hay một quốc gia . Tóm lại, có khoa học là bạn đồng
hành thì xã hội ngày càng văn minh tiến bộ hơn .
II/ VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA
VIỆT NAM
II.1/VAI TRÒ CỦA TRI THỨC KHOA HỌC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM


a/Tính tất yếu của công cuộc đổi mới. Hiện nay trên thế giới đang diễn ra những biến đổi xã hội nhanh
chóng và sâu sắc . Khoa học công nghệ đã đạt được những thanh tựu to lớn . So với các nước trên thế giới
Việt Nam tụt hậu rất nhiều . Cô thể là: - Trình độ công nghệ tụt hậu xa so với các nước . Tiềm lực khoa
học công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt động khoa học công

nghệ - Cơ chế quản lý khoa học công nghệ còn yếu kém . - Khoa học công nghệ Ýt gắn bó với sản xuất
kinh doanh . Do vậy đổi mới chính là con đường sống duy nhất của chúng ta . Chỉ có đổi mới , mới đưa
nước ta ra khỏi nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước có nền kinh tế phát triển “ Dân giàu , nước mạnh ,
xã hội công bằng văn minh”
b / Tri thức khoa học là nền tảng và động lực cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong công cuộc đổi
mới Trong công cuộc đổi mới tri thức khoa học được xem là nền tảng và động lực của sự phát triển đất
nước. Những cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học đã giúp đảng có một sự định hướng về đường
lối chính sách phát triển của đất nước, vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp,
Nông nghiệp, Du lịch và dịch vụ, Khoa học công nghệ…. Nói đến vai trò nền tảng và động lực của tri
thức khoa học trong công cuộc đổi mới là nói đến con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dùa trên cơ sở
khoa học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu.Quan điểm
này cho thấy rõ sự quyết tâm và lùa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm
và đổi mới phương thức phát triển phù hợp với những đòi hỏi phải tiến hành công Học viện ngân hàng 13
Tiểu luận triết học MácLênin nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính
bền vững trong những thập niên đầu của thế kỉ XXI. Nhìn lại thế kỉ XX đã qua chóng ta thấy có những
đổi thay to lớn do khoa học –công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm nước mới công
nghiệp hoá (Nic) sau chiến tranh thế giới thứ hai cũng không nằm ngoài ảnh hưởng lan toả của các thành
tựu khoa học công nghệ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ tiến bộ bằng các chính sách công
nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã tận dụng được cơ hội tiếp thu nhanh chóng các công
nghệ mới , thay đổi phương thức sản xuất cũ vốn dùa trên lao động thủ công và tài nguyên chủ yếu để
chuyển sang áp dụng các kĩ thuật cơ khí hoá ,tự động hoá theo hướng tạo ra các giá trị tăng cao thúc đẩy
sự phát triển tăng trưỏng kinh tế. Nhờ đi theo con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dùa hẳn vào khoa
học công nghệ mà một số nước đã rút ngắn được thời gian cần thiết để làm tăng gấp đôi thu nhập bình
quân đầu người. Trước kia, nước Anh phải mất 58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giê đây Braxin chỉ mất 18
năm , hàn quốc chỉ mất 11 năm và Trung Quốc chỉ trong vòng 10 năm. Ta có thể so sánh Hàn Quốc và
Gana vào những năm 60 và bây giê. Điểm xuất phát hai nước đều có thu nhập bình quân đầu người như
nhau, đều là các quốc gia chậm phát triển. Vậy mà ngày nay, thu nhập đầu người của Hàn Quốc đã gấp 6
lần của Gana. Vì sao có sự cách biệt lớn lao nh vậy? Đó là do Hàn quốc đã thu nhận và sử dụng tri thức
khoa học sáng tạo và phù hợp với thực tiễn hơn. Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy:ở
đâu có sự sáng tạo trong công cuộc đổi mới các giải pháp về khoa học công nghệ thì ở đó có sự tiến bộ

vượt bậc. Thử hỏi nếu Việt Nam vẫn giữ nền kinh tế tập chung bao cấp chưa chuyển sang kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần thi hiện giê đất nước chúng ta sẽ ra sao. Về nông nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong
chính sách khoá áp dụng trong nông nghiệp những năm 80 là một ví dụ điển hình cho thấy vai trò của
chính sách trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỉ lục về Học viện ngân hàng 14 Tiểu luận triết
học MácLênin lương thực mà không có một yếu tố sản xuất thông thường nào như : vốn , lao động vật tư
có thể mang lại . Chính sách mới làm cho người lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo
hơn . Đảng đẩy mạnh và khuyến khích nông dân đưa khoa học và công nghệ vào sản xuất như : Sử duụng
các loại giống mới, phân bón, máy móc sản xuất theo công nghệ cao của thế giới ; nâng cấp hệ thống thuỷ
lợi bàng cách đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống sông, đê ngăn chặn nước mặn lên. Ứng dụng các tiến bộ
kĩ thật và vật liệu mới trong thiết kế và thi công công trình làm cho công việc thực hiện công trinh xảy ra


nhanh chóng đáp ứng kip thời nhu cầu ,lợi Ých của bà con nông dân. Về công nghiệp quá trình sáng tạo
và triển khai chính sách mở cửa thu hót vốn đầu tu nước ngoài đã dẫn tới sự ra đời của một khu vực kinh
tế mới –khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài rất năng động đang góp phần tạo ra trên
10%GDP,30%kinh ngạch xuất khẩu của cả nước. Các công ty, xý nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ hiện
đại mà đã đạt được những thắng lợi ngoài cả sự mong đợi ví dụ: điển hình là công ty chế biến sữa
VINAMILK từ tình trạng vô cùng khó khăn đã vươn lên sản xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh
được với hàng nhập ngoại. Trong các ngành: Bưu chính viễn thông, khai thác dầu khí và 9houz các ngành
nghề khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào kĩ thuật và công nghệ hiện đại mà đạt được
mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn định. Văn hoá giáo dục được nâng cấp đầu tư cơ sở một cách
thoả đáng. Thực tế cho thấy sau 15 năm đổi mới dùa vào tiềm năng của đất nước và sự trợ giúp của khoa
học công nghệ chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm
2000 tăng gấp đôi so với năm 1990 , kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền
kinh tế tù tình trạng khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân.
Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chgủ
nghĩa. Học viện ngân hàng 15 Tiểu luận triết học MácLênin Đời sống của nhân dân dần được cải thiện.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về
thị trường.Kinh tế tăng trưởng tương đối cao: tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7,5% trong một
năm; giá trị nông lâm ngư nghiệp tăng bình quân 5,7% trong một năm. Trong đó : nông nghiệp tăng 5,6%,

lâm nghiêp tăng 0,4%và ngư nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp
độ tăng giá trị sản xuất hàng năm 13,5%. Đầu tư sản xuất ra sản phẩm có chiều sâu đáp ứng nhu cầu trong
nước và xuất khẩu. Dịch vụ phát triển với giá trị trung bình là 6,8%/năm, lạm phát giảm đáng
kể:năm1986là 587,2%thì năm 1990 chỉ còn 52,8%. Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và
nhân văn trong giai đoạn 1996-2000 đã có đóng góp tích cực trong phát triển lý luận và tổng kết thực tiễn
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỉ XX. nhờ kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho quá
trình chuẩn bị các văn kiện hội nghị trung ương khoá VIII, xây dựng chiến lựơc phát triển kinh tế xã hội
những năm sau và đóng góp cho việc chuẩn bị văn kiện đại hội IX vừa qua. Khoa học xã hội còn đóng
góp quan trọng vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản giới luật, các
chính sách hiệp định quan hệ quốc tế trong đó có hiệp định thương mại Việt - Mỹ, khoa học xã hội còn
hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội như; vấn đề
toàn cầu hoá quốc tế hoá, công nghiệp hoá- hiện đại hoá…. Các vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hoá
dân téc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy năn hoá phát triển lành mạnh với các phương trâm “hoà
nhập nhưng không hoà tan’’. Bên cạnh viêc tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta không quên giữ gìn và phát
huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân téc việt nam. Giáo gục ngày càng được chú trọng các quốc gia phát
triển đã rót ra một điểm quan trọng là giáo dục là con đường ngắn nhất để phát triển để tiến tới nền kinh tế
trí thức hay còn gọi là nền kinh tế chất xám. Ở Viêt Nam từ năm 1997 đến nay nhân lực khoa học công
nghệ cả nước tăng 1,5 lần. Cán bộ khoa học công nghệ có trình độ Học viện ngân hàng 16 Tiểu luận triết
học MácLênin đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ xung 180 nghìn người. Cán bộ có trình độ tiến
sỹ tăng nhanh và đã phần nào đáp ứng nhu cầu của đất nước. Trình độ,năng lực cán bộ trong một số lĩnh
vực như nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, công trình điểm, bưu chíng viễn thông, thăm dò và
khai thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm 2000 chính phủ đã bố trí
khoản ngân sách riêng để hàng năm gửi sinh viên cán bộ khoa học công nghệ có năng lực đi đào tạo dài
hạn tại các nước có nền khoa học tiên tiến. Khoa học –công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi
nhiều công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong các lĩnh vực nh viễn thông khai thác dầu khí, năng lượng
…. Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước do thực tiễn đặt ra được các lực lượng


khoa học – công nghệ nghiên cứu và giải quyết như: cơ sở khoa học cho các phương án phòng chống
thiên tai, các phương pháp sản xuất vacxin phòng bệnh… Rõ ràng quan niệm về vai trò nền tảng và động

lực phát triển của khoa học và công nghệ đối với sự phát triển vừa có cơ sở thực tiễn trong nước vừa hợp
với xu thế phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tương đối của các yếu tố lao động rẻ và tài nguyên
thiên nhiên đang chuyển dần sang các yếu tố tri thức khoa học công nghệ.
II.2/ THỰC TRẠNG CỦA CÁC NGÀNH KHOA HỌC CÔNG NGHỆ Ở NƯỚC TA VÀ NHỮNG BIỆN
PHÁP KHẮC PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN.
Sau khi cách mạng tháng tám thành công, sự nghiệp giáo dục và khoa học ở nước ta đã được quan tâm
phát triển mạnh. Ngay trong những năm đầu kháng chiến chống thực dân Pháp đội ngò cán bộ khoa học
đã có nhiều đóng góp tích cực trong công tác đào tạo cán bộ, trong việc nghiên cứu phục vụ quốc
phòng,trong sản xuất nông nghiệp, giao thông vận tải… Khi miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng,
nền khoa học của ta nói chung và các ngành khoa học cơ bản nói riêng có điều kiện phát triển thuận lợi.
Những năm sáu mươi đã đánh dấu sự ra đời của hầu hết các ngành khoa Học viện ngân hàng 17 Tiểu luận
triết học MácLênin học cơ bản nước ta: toán, lý, hoá, sinh, các ngành khoa học trái đất biển. .v.v… Ngày
nay chóng ta đã có khoảng hai ngàn năm trăm tiến sỹ và tiến sỹ khoa học đang làm việc trong các lĩnh
vực khác nhau của các ngành khoa học cơ bản. Con số đó chưa phải là nhiều so với một đất nước trên 70
triệu dân (theo bài viết của GS.VS NGUYỄN VĂN ĐẠO báo KHOA HỌC và TỔ QUỐC) song cũng là
con số đáng phấn khởi và là con số mơ ước đối với nhiều nước đang phát triển Trong những năm gần đây
những nghiên cứu cơ bản ở nước ta đã tập chung trong các lĩnh vực điều tra tổng hợp các nguồn tài
nguyên và điều kiện tự nhiên của đất nước, phát triển các lý thuyết cơ bản trong Toán học, Vật lý, cơ học,
nghiên cứu sinh học, vật liệu linh kiện, sử dụng có hiệu quả các nguồn năng lượng sẵn có và nghiên cứu
thăm dò các nguồn năng lượng tự nhiên, trong việc phục vụ cho công tác quản lý và trong nhiều Nhờ
trình độ khoa học cơ bản tốt, nhơ những nghiên cứu được tiến hành từ những thập kỉ 60 đến nay, chóng ta
đã nhập và cải tiến có kết quả nhiều kĩ thuật mới, công nghệ mới, trong đó nổi bật là các thành tựu trong
nông nghiệp ( các loại giống cây trồng vật nuôi) và trong lĩnh vực tin học. Cũng nhờ có trinh độ nghiên
cứu cơ bản cao mà nước ta đã được biết đến trên một số lĩnh vực khoa học lý thuyết nh Toán học, Vật lý,
Cơ học…
a/ Thành tựu Đảng ta đã có một số nghị quyết về khoa học và công nghệ nh nghị quyết 37 của bộ chính trị
(khoá VI), nghị quyết 01của bộ chính tri và nghị quyết trung ương 7 (khoáVII). Việc thực hiện các nghị
quyết này bước đầu nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước, thúc đẩy việc đưa các tiến bộ
khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống, góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng
kinh tế xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để bước vào thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiên đại hoá.

Học viện ngân hàng 18 Tiểu luận triết học MácLênin Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần bổ sung ,
lý giải và làm rõ thêm những quan điểm của Đảng về con đường đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở Việt Nam .
Làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc lấy chủ nghĩa Mac- Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng cho tư tưởng của Đảng . Các vấn đề về mối quan hệ giữa kinh tế với thị trường và chủ nghĩa xã hội ,
tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội , văn hoá và phát triển còng đã được nghiên cứu sâu hơn . Việc
nghiên cứu các di sản lịch sử , văn hoá , văn minh và con người Việt Nam tiếp tục có những phát hiện mới
. Việc tổng kết kinh nghiệm chiến tranh và phát triển lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam đã đạt mét số
kết quả . Nhiều kết luận khoa học đã được dùng làm cơ sở để soạn thảo các nghị quyết , hoạch định các
chủ trương , chính sách của Đảng và nhà nước, góp phần vào thành công , của công cuộc đổi mới . Khoa
học tự nhiên có những thành tựu trong nghiên cứu , điều tra điều kiện tự nhiên , tài nguyên thiên nhiên và
môi trường, góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội ,


tạo cơ sở cho quá trình tiếp thu và làm chủ công nghệ mới . Mét số nghành nghiên cứu cơ bản đã xây
dựng được đội ngò cán bộ khoa học có khả năng tiếp cận trình độ hiện đại trên thế giới . Các nhà khoa
học và công nghệ gắn bó hơn với sản xuất và đời sống . Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ mới được
áp dông , góp phần rất quan trọng vào việc nâng cao năng suất , chất lượng và hiệu quả trong các ngành
sản xuất nông nghiệp , y tế , bưu chính viễn thông , giao thông vận tải, xây dùng , năng lượng , dầu khí ,
hàng tiêu dùng , hàng xuất khẩu…, xây dựng và củng cố quốc phòng- an ninh . Việc nghiên cứu về chính
sách , biện pháp bảo vệ và cải thiện môi trường bước đầu được quan tâm , luật môi trường đã được ban
hành . Học viện ngân hàng 19 Tiểu luận triết học MácLênin Đội ngò cán bộ khoa học và công nghệ có
bước trưởng thành , được tập hợp , có thêm điều kiện để phát huy khả năng để cống hiến cho sự nghiệp
chung . Đây là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển của đất nước . Có được những thành tựu trên đây,
trước hết là do đường lối đúng đắn của Đảng , do nhu cầu phát triển kinh tế đòi hỏi đưa tiến bộ khoa học
và công nghệ vào sản xuất , nhờ sự đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, khoa học và công nghệ . Mặt khác, đội
ngò cán bộ khoa học và công nghệ đã trưởng thành một bứơc và có nhiều cố gắng thích nghi với cơ chế
mới , quan hệ đối ngoại hợp tác quốc tế về kinh tế , khoa học và công nghệ được mở rộng .
b/ Những hạn chế của khoa học công nghệ nước ta hiện nay Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong
hoạt động khoa học –công nghệ ở nước ta còng con nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và chưa thực sự

đóng vai trò động lực – nền tảng cho sự phát triển. Sau đây là những biểu hiện. Tiềm lực khoa học – công
nghệ vẫn còn ở mức thấp so với thế giới và khu vực chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Tỉ lệ cán bộ
khoa học-công nghệ trên tổng số dân chưa cao. Đặc biệt, còn thiếu rất nhiều chuyên gia đầu ngành, việc
đào tạo và đào tạo lại tiến hành còn chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngò rất lớn, nhất là trong những
ngành mòi nhọn như công nghệ tin học, sinh học, cơ khí, chế tạo máy. Việc xếp lại các cơ quan khoa học
– công nghệ còn lúng túng , việc sử dụng đội ngò trí thức còn lãng phí , cơ sở vật chất , trang thiết bị cho
nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu cầu thực tiễn . Cơ chế quản lý kinh tế chưa thực sự gắn kết
các hoạt động khoa học- công nghệ với kinh tế xã hội , tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho
hoạt động khoa học – công nghệ phát triển . Cơ chế quản lý khoa học- công nghệ chậm và chưa được đổi
mới một cách căn bản mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lý đã xuất hiện từ rất Học viện ngân hàng 20
Tiểu luận triết học MácLênin sớm. Chưa có sự liên thông giữa cơ chế quản lý kinh tế và cơ chế quản lý
khoa học công nghệ. Chưa đảm bảo được quyền lợi vật chất và tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa
học có cống hiến lớn . Cơ chế hình thành, quản lý, đánh giá các đề tài khoa học-công nghệ vẫn còn nhiều
khó khăn , để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật khoa học công nghệ . Thị trường khoa học
công nghệ còn manh nha chưa phát triển . Mặc dù giá trị các hợp đồng ký kết giữa các cơ quan khoa học
– công nghệ với các tổ chức kinh tế xã hội , giữa trong nước và nước ngoài đang tăng lên nhưng vẫn chưa
xứng đáng với tiềm năng . Học viện ngân hàng 21 Tiểu luận triết học MácLênin
C/KẾT LUẬN Gần 20 năm đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng thức khoa học ngày càng
có vai trò quan trọng. Nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Trong suốt thời
kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay nền kinh tế Việt Nam luôn có tăng trưởng dương, GDP trong 10 năm từ
1991 đến năm 2000 tăng bình quân 7,56% năm. Năm 2000-2002 tốc độ tăng trung trưởng lần lượt là
6,7%, 6,8% và 7% . Từ năm 1991 đến nay sản xuất không chỉ đáp ứng được tiêu dùng mà còn dành một
phần để tích luỹ ( năm 1991: 10,1% năm, 1995: 20%, năm 2000: 27% GDP ). Bên cạnh đó đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện, thu nhập của người dân tăng đáng kể. Đó là do
khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh và được ứng dụng rộng rãi vào trong các lĩnh vực của đời
sống xã hội . Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản. Thành


tựu nổi bật nhất là đã giải quyết vững chắc an toàn lương thực quốc gia. Đứng trước thế kỉ XXI thế kỉ có
nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thế

kỉ XXI thế kỉ của cong nghiệp thế kỉ văn minh hậu công nghiệp , các nước trên thế giới đã và đang sẵn
sàng chuẩn bị bước vào thế kỉ này.Việt Nam thì sao chóng ta đã chuẩn bị nh thế nào? Đây là thử thách
đòng thời cũng là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia dân téc trên thế giới trong đó có Viết Nam.
Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các ứng dụng khoa
học – công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tê tri thức mà không qua kinh tế
công nghiệp. Đó là sự lùa chọn đúng đắn và hợp lí. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa tri
thức khoa học vào tất cả các kĩnh vực hoạt động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt
cho mét khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó của mọi người, nó phải được thẩm thấu
vào trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Đất nước Việt Nam đã đi qua chiến tranh thăng lợi vẻ
vang vậy tại sao \ chóng ta lại không giành thắng lợi trên con đường xây dựng và phát triển đất nước?
Nhất định chúng ta sẽ làm được điều đó và con làm tốt nó nữa bởi mang trong mình sức mạnh của đoàn
kết dân téc và bán tính thông minh sáng tạo của con người việt nam . Những thắng lợi bước đầu của cuộc
đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Đảng và nhà nước ta đã thấy được tầm quan trọng của khoa học và công
nghệ trong thời đại ngày nay. Một vấn đề cấp thiết của nhà nước ta bây giê là phải không ngừng phát triển
khoa học công nghệ. Phải tổ chức thống nhất từ trung ương đến địa phương từ các bộ ngành đến các
phòng ban. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học cấp vốn cho những công trình nghiên cứu có tính
khả thi. Đề cao vai trò các nhà khoa học. Đảng phải đề ra đường lối mục tiêu phát triển cho từng lĩnh vực
khoa học ứng dụng trong thực tiễn. Cần đổi mới hệ thống giáo dục.Ở nước ta hiện nay còn nặng về lí
thuyết chúng ta rất giỏi lý thuyết nhưng kém về thực hành. từ học sinh sinh viên cho đến các nhà khoa
học. Cần đổi mới cho học sinh nghiên cứu cụ thể hơn.



×