Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

tiểu luận về chính sách công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.34 KB, 18 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Trong những năm gần đây, sinh viên tốt nghiệp ra trường và bài toán việc làm
đã không còn là câu chuyện riêng của bản thân người trong cuộc mà đã trở thành
bài toán làm đau đầu các chuyên gia, các nhà quản lý. Và cho đến bao giờ vấn đề
việc làm không còn là gánh nặng của sinh viên sau những năm miệt mài đèn sách
dường như vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời đáp.
Mỗi mùa tuyển sinh cận kề thì việc chọn trường, chọn nghề luôn là điều băn
khoăn lớn của nhiều bạn trẻ. Và trở thành tân sinh viên của các trường đại học
chính là ước mơ mà các bạn luôn cố gắng, nỗ lực hết mình để hướng tới. Tuy
nhiên, sau 4 - 5 năm (thậm chí còn lâu hơn nữa) “dùi mài kinh sử”, khi chuẩn bị
hành trang bước vào cuộc sống thì không ít trong số họ luôn băn khoăn câu hỏi “Sẽ
đi đâu, về đâu?”.
Câu chuyện sinh viên ra trường loay hoay tìm việc làm hay chấp nhận thất
nghiệp đã trở nên quá quen thuộc. Và mặc dù không phải là vấn đề gì mới, nhưng
hàng ngày, hàng giờ vẫn luôn nóng hổi và nhận được sự quan tâm, theo dõi của
sinh viên, gia đình hay cả dư luận xã hội.
Và để làm rõ vấn đề nêu trên, chúng ta hãy xem xét, tìm hiểu sơ qua về chính
sách công, tiêu chuẩn để có một chính sách công tốt, hay vấn đề chính sách công là
gì. Để từ đó có cơ sở phân tích “thực trạng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường
hiện nay ở nước ta”.
I. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG
DeLeon (1994) cho rằng: “Nghiên cứu chính sách có một lịch sử dài và một
quá khứ ngắn”. Mặc dù chính sách của nhà nước là vấn đề nghiên cứu từ rất lâu,
nhưng chỉ trở thành vấn đề được xem xét có tính hệ thống từ vài thập kỷ gần đây.
Sự phát triển của nó gắn với một số (không nhiều) sự kiện lớn trên thế giới, đánh
dấu sự thay đổi từ khi kết thúc thế chiến thứ hai.
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, từ
các tổ chức quốc tế đến từng quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ chức chính trị
xã hội, doanh nghiệp,..nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho mỗi tổ chức đó và
chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó.


1. Khái niệm chính sách công
1.1. Khái niệm chính sách

Trang | 1


Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau:
“Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính
sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…”
Theo James Anderson: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích
theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan
tâm”.
Ngoài ra, còn có thể kể đến một số khái niệm khác như:
– Chính sách là những gì mà Chính phủ làm, lý do làm và sự khác biệt nó tạo
ra (Dye 1972).
– Chính sách là một hành động mang tính quyền lực nhà nước nhằm sử dụng
nguồn lực để thúc đẩy một giá trị ưu tiên (Considine 1994).
Như vậy, có thể hiểu đơn giản: Chính sách là chương trình hành động do các
nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi
thẩm quyền của mình.
1.2. Khái niệm chính sách công
Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn
là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng răi. Trên các ấn phẩm ở
Việt Nam những năm gần đây, thuật ngữ “Chính sách công” được sử dụng với
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về chính sách công ở
nước ta vẫn còn khá khiêm tốn; nhiều vấn đề liên quan đến chính sách công cần
phải tiếp tục được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn.
Ở các nước phát triển và các tổ chức kinh tế quốc tế, thuật ngữ “Chính sách

công” được sử dụng rất phổ biến. Có thể nêu ra một số quan niệm sau:
William Jenkin cho rằng: "Chính sách công là một tập hợp các quyết định có
liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm nhà chính trị gắn liền với
việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt được các mục tiêu đó".
Định nghĩa này nhấn mạnh các mặt sau:
– Chính sách công không phải là một quyết định đơn lẻ nào đó, mà là một
tập hợp các quyết định khác nhau có liên quan với nhau trong một khoảng thời gian
dài.
– Chính sách công do các nhà chính trị trong bộ máy nhà nước ban hành. Nói
cách khác, các cơ quan nhà nước là chủ thể ban hành chính sách công.
– Chính sách công nhằm vào những mục tiêu nhất định theo mong muốn của
Nhà nước và bao gồm các giải pháp để đạt được mục tiêu đă lựa chọn.
Trang | 2


Thomas R. Dye lại đưa ra một định nghĩa ngắn gọn về chính sách công, song
định nghĩa này lại được nhiều học giả tán thành. Theo ông, "chính sách công là cái
mà Chính phủ lựa chọn làm hay không làm". Ba mặt quan trọng của định nghĩa này
là:
Thứ nhất, không giống như các định nghĩa khác, nó không bàn luận về "mục
tiêu" hay "mục đích" của chính sách. Các chính sách là các chương tŕnh hành động
riêng biệt; việc áp dụng các chính sách không có nghĩa là tất cả những ai đồng tt́nh
với chính sách sẽ có cùng một mục đích như nhau. Trên thực tế, một số chính sách
ra đời không phải vt́ sự nhất trí về mục tiêu, mà bởi vt́ nhiều nhóm người khác nhau
đồng tt́nh với chính sách đó với nhiều nguyên do khác nhau (tuy nhiên, theo chúng
tôi, dù các nhóm khác nhau có những mục tiêu khác nhau, song bản thân mỗi chính
sách vẫn phản ánh những mục tiêu nhất định của Chính phủ).
Thứ hai, định nghĩa của Dye thừa nhận rằng, các chính sách phản ánh sự lựa
chọn làm hay không làm. Việc quyết định không làm có thể cũng quan trọng như
việc quyết định làm. Điều này hoàn toàn hợp lư trong trường hợp Chính phủ ra

quyết định không can thiệp vào hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, một điểm được nhấn mạnh ở đây là các chính sách không chỉ là
những đề xuất của Chính phủ về một vấn đề nào đó, mà cũng là cái được thực hiện
trên thực tế. Nói cách khác, định nghĩa của Dye về những cái mà Chính phủ làm
hoặc không làm, chứ không phải là cái mà họ muốn làm hoặc lập kế hoạch để làm.
Wiliam N. Dunn cho rằng "chính sách công là một kết hợp phức tạp những
sự lựa chọn liên quan lẫn nhau, bao gồm cả các quyết định không hành động, do
các cơ quan nhà nước hay các quan chức nhà nước đề ra". Ông dùng thuật ngữ "sự
lựa chọn" – đây là điểm đáng lưu ư để tránh sự nhầm lẫn giữa chính sách với các
khái niệm khác như quyết định hành chính.
B. Guy Peter đưa ra định nghĩa: "chính sách công là toàn bộ các hoạt động
của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công
dân". Định nghĩa này khẳng định chủ thể ban hành và thực thi chính sách công là
Nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tác động của chính sách công đến đời sống của
người dân với tư cách là một cộng đồng.
Từ các quan niệm trên, chính sách công có thể được nhìn nhận như sau:
Trước hết, là một chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do
chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung
của mỗi nước.
Thứ hai, về mặt kinh tế, chính sách công phản ánh và thể hiện hoạt động
cũng như quản lý đối với khu vực công, phản ánh việc đảm bảo hàng hóa, dịch vụ
công cộng cho nền kinh tế.
Trang | 3


Thứ ba, là một công cụ quản lý của nhà nước, được nhà nước sử dụng để:
Khuyến khích việc sản xuất, đảm bảo hàng hóa, dịch vụ công cho nền kinh tế,
khuyến khích cả với khu vực công và cả với khu vực tư; Quản lý nguồn lực công
một cách hiệu quả, hiệu lực, thiết thực đối với cả kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường, cả trong ngắn hạn lẫn trong dài hạn. Nói cách khác chính sách công là một

trong những căn cứ đo lường năng lực hoạch định chính sách, xác định mục tiêu,
căn cứ kiểm tra, đánh giá, xác định trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực công
như ngân sách nhà nước, tài sản công, tài nguyên đất nước.
Tuy có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về chính sách công như đă nêu
trên, song điều đó không có nghĩa là chính sách công mang những bản chất khác
nhau. Thực ra, tùy theo quan niệm của mỗi tác giả mà các định nghĩa đưa ra nhấn
mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng khác của chính sách công. Những đặc trưng
này phản ánh chính sách công từ các góc độ khác nhau, song chúng đều hàm chứa
những nét đặc thù thể hiện bản chất của chính sách công.
2. Cấu trúc chính sách công
Cấu trúc của chính sách bao gồm:
Thứ nhất, hành động ứng xử được thể hiện là thái độ đồng thuận hay phản
đối của chủ thể với kết quả vận động của mỗi đối tượng quản lý (thành phần kinh
tế, các tổ chức, các ngành) hay một quá trình nào đó ( kinh tế, xã hội hay môi
trường). Nếu đồng tình với sự tồn tại của các chủ thể, chủ thể sẽ cho phép duy trì
và thúc đẩy nó vận động phát triển tốt hơn. Trái lại, nếu phản đối thì chủ thể sẽ
không thừa nhận hay bài xích, tậy chay và tỉm cách kìm hãm tốc độ vận động của
chúng để hạn chế tối đa những ảnh hưởng tiêu cực do các quá trình đó mang lại cho
các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Thái độ ứng xử như vậy của Nhà nước được
đưa vào chính sách công đề định hướng cho hành động của mọi tổ chức và tầng lớp
nhân dân trong xã hội.
Ví dụ: Về giáo dục, Nhà nước ta có thái độ đồng thuận nên đã thúc đẩy mạnh
mẽ các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng để không ngừng nâng cáo dân trí. Thái độ này
hoàn toàn trái ngược với Nhà nước thực dân phong kiến trước đây trong “chính
sách ngu dân” để dễ bề cai trị, bóc lột. Hoặc như vấn đề dân số, Nhà nước ta không
ủng hộ cho việc tăng nhanh dân số nên đã kìm hãm tốc độ sinh đề từng bước nâng
cao chất lượng dân số và cải thiện đời sống kinh tế, xã hội. Thái độ này trái ngược
với quan điềm phổ biến trước đây dưới thời phong kiến: “hạnh phúc là con đàn,
cháu đống”. Hoặc trước năm 1986, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện phát
triển một “nền kinh tế đóng” để vừa giữ gìn nền độc lập dân tộc, vừa chủ động phát

triển kinh tế quốc dân bằng nội lực. Nhưng ngày nay, cũng như hầu hết các nước
trên thế giới, chúng ta đang thực hiện chính sách “mở cửa nền kinh tế”.v.v…. Như
Trang | 4


vậy, thái độ ứng xử của Nhà nước ta với các vấn đề phát sinh hay sự tồn tại của các
hiện tượng xã hội nêu trên là vì mục tiêu nâng cáo dân trí, cải thiện đời sống dân cư
v.v…. Những mục tiêu này là mong muốn của chủ thể về khả năng vận động của
một hiện tượng hay quá trình nào đó đến một kết quả nhất định. Đó là những mục
tiêu hướng đạo được thể hiện trong chính sách và mang tính định hướng cao. Nói
một cách khác mục tiêu chính sách công là những giá trị hướng tới phù hợp với yêu
cầu phát triển chung của nền kinh tế, xã hội.
Thứ hai, hành động ứng xử còn được hiểu là cách giải quyết vấn đề theo mục
tiêu định hướng của chính sách. Đó là cách thức mà chủ thể sử dụng trong quá trình
hành động để tối đa hóa kết quả về lượng và chất của mục tiêu chính sách hay còn
gọi là những biện pháp của chính sách. Trên cơ sở định hướng của chính sách, chủ
thể tìm kiếm các giải pháp để đạt mục tiêu trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể
về không gian, thời gian với các nguồn lực nhất định.
Do mục tiêu của chính sách mang tính định tính cao nên các biện pháp của
chính sách cũng chứa đựng những động lực thúc đẩy, cân bằng hay kìm hãm theo
yêu cầu mục tiêu. Nhìn một cách tổng quát, biện pháp của chính sách thường chứa
đựng những cơ chế nhằm quy định các nguyên tắc tác động của chủ thể đến mỗi
quá trình làm cho chúng vận động có hệ thống theo một hành lang nhất định. Ví dụ:
để đạt mục tiêu chính sách giáo dục, Nhà nước ta có thể đầu tư cho giáo dục,
khuyến khích phát triển giáo dục toàn dân, cho phép các thành phần kinh tế đầu tư
phát triển giáo dục ngoài công lập, hoặc phát triển các hình thức đào tạo, kể cả đào
tạo từ xa; để thực hiện mục tiêu chính sách dân số, Nhà nước ta có thể sử dụng các
biện pháp giáo dục thuyết phục, biện pháp kinh tế và cả biện pháp hành chính. Dù
là biện pháp nào thì chúng đều phải tuân theo những cơ chế phù hợp với xu thế vận
động nhằm đạt được mục tiêu của chính sách.

Như vậy, có thể thấy cấu trúc của một chính sách bao gồm hai bộ phận hợp
thành quan trọng và thống nhất với nhau, đó là mục tiêu chính sách và biện pháp
chính sách. Mối quan hệ giữa mục tiêu và biện pháp của chính sách là mối quan hệ
biện chứng – lịch sử được thề hiện trên các phương diện: quan hệ tương đồng, quan
hệ tập hợp và quan hệ vận động.
3. Vai trò chính sách công
Chính sách công có vai trò to lớn trong hoạt động quản lý xã hội của nhà
nước.
Trong nền hành chính nhà nước, chính sách công là bộ phận nền tảng trọng
yếu của thể chế hành chính, là cơ sở và chi phối các yếu tố cấu thành khác của nền
hành chính như: bộ máy hành chính; đội ngũ cán bộ - công chức; tài chính công.
Trang | 5


Ở Việt Nam, với hoạt động quản lý, điều hành của Chính phủ trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì chính sách công là công cụ tiền đề,
không thể thay thế và chi phối các công cụ quản lý khác như pháp luật, kế hoạch,
phân cấp - phân quyền… Điều đó giải thích vì sao trong những năm gần đây Đảng
và Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm tới việc nâng cao vai trò của chính sách
công như là một công cụ hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước nói
riêng và đẩy mạnh chất lượng của sự nghiệp đổi mới nói chung. Tuy nhiên, trước
yêu cầu ngày càng cao và phức tạp của quản lý nhà nước thì hoạt động hoạch định
và thực thi chính sách công ở nước ta đang ở trong bối cảnh nào và đặt ra những
vấn đề gì cần giải quyết?
Trong thời gian qua, hoạt động hoạch định chính sách công đã đạt được một
số kết quả đáng khích lệ cả về số lượng và chất lượng trên các lĩnh vực trọng yếu,
cấp bách về kinh tế, chính trị (tổ chức bộ máy nhà nước, an sinh xã hội, quân sự,
ngoại giao…). Một số chính sách công quan trọng đã được luận chứng khoa học
hơn, bám sát thực tiễn đất nước, địa phương và ngành. Nhờ đó, bước đầu đã tạo lập
và hoàn thiện được một hệ thống chính sách công khá phù hợp, đáp ứng được yêu

cầu ngày càng cao của quản lý hành chính nhà nước, phục vụ chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, một số chính sách mới được
ban hành đã đáp ứng được về cơ bản yêu cầu phát triển và hoàn thiện thể chế của
nền kinh tế thị trường, đặc biệt, có tính ứng phó khá tốt với tác động của cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu như: chính sách kích cầu, chính sách điều chỉnh tiền
lương cơ bản, chính sách hạ thấp lãi suất cho vay của ngân hàng, lãi suất tối đa cho
tiền gửi bằng đồng Việt Nam, chính sách mang ngoại tệ, tiền Việt Nam của cá nhân
khi xuất nhập cảnh, chính sách điều chỉnh thuế thu nhập cá nhân, chính sách miễn
giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp… Theo đó, nhiều chính sách đã phát huy được
tác dụng trong kiềm chế lạm phát, góp phần ổn định giá cả thị trường và mức độ
tăng trưởng của nền kinh tế trong điều kiện khủng hoảng kinh tế. Điều đó được
đánh giá như những phản ứng kịp thời của nhà nước trước những biến động lớn của
kinh tế toàn cầu và khu vực.
4. Chu trình chính sách công
4.1. Khái niệm
Chu trình chính sách được hiểu là quá trình luân chuyển các bước từ khởi sự
chính sách đến khi xác định được hiệu quả của chính sách trong đời sống xã hội.
4.2. Các bước trong chu trình chính sách
Bước đầu tiên trong chu trình chính sách là khởi sự chính sách. Khởi sự
chính sách bao gồm các hoạt động nhằm xác định được những mong muốn, những
Trang | 6


mâu thuẫn nảy sinh trong đó có chứa đựng vấn đề cần được tập trung giải quyết
bằng chính sách (vấn đề chính sách). Muốn xác định được vấn đề chính sách cần
phải thường xuyên quan sát và phân tích tỉnh hình thực tế để dự báo được mâu
thuẫn cơ bản cần giải quyết nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Tiếp theo là hoạch định chính sách, đây là bước đề xuất thái độ ứng xử của
chủ thể với vấn đề chính sách bằng cả mục tiêu và biện pháp chính sách. Nếu bước
này làm đúng yêu cầu sẽ cho ra đời một chính sách tốt.

Kế đến là tổ chức thực thi chính sách, đây là bước đưa chính sách vào thực
hiện trong đời sống. Bước này bao gồm các hoạt động triển khai, phối hợp thực
hiện, kiểm tra đôn đốc và hiệu chỉnh chính sách cùng các biện pháp tổ chức thực thi
để chính sách phát huy tác dụng trong cuộc sống. Có thể nói bước này có ý nghĩa
quyết định đến sự thành bại của một chính sách.
Cuối cùng là đánh giá chính sách, đây là bước đo lường kết quả và hiệu quả
của một chính sách trong thực tế sau khi đã đưa chính sách vào thực thi. Đánh giá
chính sách có thể tiến hành thường xuyên hay định kỳ tùy theo mục đích, yêu cầu
quản lý của chủ thể.
Giữa tổ chức thực thi và đánh giá chính sách có một hoạt động quan trọng
nhằm giữ cho chính sách tồn tại và phát huy tác dụng trong đời sống xã hội, ngay
cả khi phải thay đồi các biện pháp thực hiện mục tiêu chính sách. Hoạt động đó gọi
là duy trì chính sách.
Sau khi đánh giá chính sách chúng ta sẽ lại thấy có những mâu thuẫn mới
nảy sinh từ việc giải quyết các mâu thuẫn đã có. Nếu những mâu thuẫn mới nảy
sinh cần được giải quyết bằng chính sách thì chủ thể lại tiếp tục xem xét để cho ra
đời một chính sách mới. Cứ như thế chu trình chính sách được lặp lại với mức độ
ngày càng hoàn thiện cả về lượng và chất.
Có thể minh họa các bước trong chu trình chính sách như sau:

Trang | 7


II. TIÊU CHUẨN CHO MỘT CHÍNH SÁCH CÔNG TỐT
1. Chính sách tốt phải hướng tới mục tiêu phá triển chung
Mục tiêu chính sách phản ánh mong muốn của nhà nước về những giá trị
kinh tế - xã hội cần đạt dduocj trong tương lai phù hợp với yêu cầu phát triển chung
của đời sống xã hội. Muốn tốt phải đề cập tới mục tiêu cụ thể, đích thực vừa phù
hợp với định hướng phat triển vừa phù hợp với nhu cầu của đời sống xã hội.
2. Chính sách tốt phải tạo ra động lực mạnh

Sau khi ban hành, nếu một chính sách đề cập được những vấn đề bức xúc mà
xã hội đang quan tâm giải quyết, tác động trực tiếp đến nguyên nhân của vấn đề
bức xúc mà xã hội đang quan tâm giảu quyết tác đọng trực tiếp đén ngyên nhân của
vấn đề, có mục tiêu cụ thể, rõ ràng với những biện pháp khoa học chứa đựng cơ chế
tác động thích hợp sẽ có ảnh hưởng tích cực đén hooatj động kinh tế - xã hội.
3. Chính sách tốt phải phù hợp với tình hình thực tế
Một chính sách được ban hành phải xuất phát từ những vấn đề nảy sinh từ
thực tế và trở về giải quyết những vấn để đó, bởi vậy chính sách mới được ban
hành nhất thiết phải phù hợp với những điều kiện cụ thể. Nghĩa là cả mục tiêu và
biện pháp của chính sách phải phù hợp với điều kiện của đất nước, vừa đáp ứng
được yêu cầu bức xúc của đời sống xã hội, vừa không làm phát sinh hay hạn chế
được những vấn đề mâu thuẫn với mục tiêu quản lý.
4. Chính sách tốt phải có tính khả thi cao
Tính khả thi của chính sách phụ thuộc vào sự ủng hộ của dân chúng, trình độ
điều hành quản lý của nhà nước và điều kiện thuận lợi của môi trường.
5. Chính sách tốt phải đảm bảo tính hợp lí
Tính hợp lí của chính sách được hiểu là sự cân đối, hài hòa giữa mục tiêu
chính sách với nguyện vọng của đối tượng thụ hưởng trong hiện tại và tương lai.
Tính hợp lí còn có nghĩa là để chính sách phát huy được tác dụng đúng với tính
năng riêng của nó không làm biến dangjchinhs sách.
6. Chính sách tốt phải mang lại hiệu quả cho đời sống xã hội
Hiệu quả của chính sách là cơ sở để duy trì sự tồn tại và phát triển của các
quá trình kinh tế - xã hội theo định hướng. Để đánh giá chính sách công thông
thường người ta chia các chính sách công thành các chương trình, dự án khác nhau
để trên cơ sở đó đánh giá được chi phí của đầu vào, kết quả của đầu ra.
Những yêu cầu trên đây được coi là những tiêu chuẩn để đánh giá về một
chính sách xem có tốt hay không căn cứ vào đó, các nhà quản lý sẽ tìm kiếm được
mục tiêu và giải pháp tốt trong quá trình hoạch định chính sách, đồng thời cũng
đánh giá được mức độ hoàn thiện của một chính sách khi được ban hành.
Trang | 8



III. KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ CHÍNH SÁCH CÔNG VÀ THƯC TIỄN
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Khái niệm vấn đề chính sách công
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về vấn đề chính sách công, tùy theo
góc độ tiếp cận.
Chẳng hạn có nhiều nhà khoa học và quản lý cho rằng : Vấn đề chính sách
công là những nhu cầu tương lai của đời sống xã hội cần đạt được bằng chính sách.
Davit Dery định nghĩa: "Vấn đề chính sách công là các nhu cầu, các giá trị,
hay các cơ hội cải thiện chưa được thực hiện hóa".
Về bản chất, nhu cầu tương lai của xã hội chính là sự khác biệt giữa mong
muốn tương lai và tình trạng hiện tại của xã hội.
2. Đặc điểm vấn đề chính sách công
Vấn đề chính sách công cũng được sinh ra như mọi vấn đề, nhưng có những
khác biệt mang những đặc trưng sau đây:
- Tính phụ thuộc của các vấn đề chính sách công: Các vấn đề chính sách
công trong một lĩnh vực thường ảnh hưởng đến các cấn đề chính sách công trong
một lĩnh vực khác. Trên thực tế, các vấn đề chính sách công không tồn tại một cách
độc lập, mà là các thành phần của một hệ thống các vấn đề, nghĩa là hệ thống các
điều kiện bên ngoài dẫn đến tình trạng mà cộng đồng không mong muốn. Thật khó
hoặc không thể nào giải quyết các vấn đề thông qua sử dụng một cách tiếp cận
phân tích chuyên biệt, nghĩa là chia nhỏ vấn đề thành các bộ phận cấu thành, vì
hiếm khi các vấn đề có thể được xác định và giải quyết một cách độc lập với nhau.
Đôi khi việc giải quyết nhiều vấn đề đan xen với nhau một cách đồng thời còn dễ
hơn giải quyết một vấn đề đơn lẻ. Hệ thống các vấn đề phụ thuộc lẫn nhau đòi hỏi
một cách tiếp cận hệ thống, nghĩa là xem các vấn đề là không thể tách rời và không
thể đo lường riêng biệt so với hệ thống, trong đó chúng là những thành phần đan
xen với nhau.
- Tính chủ quan của các vấn đề chính sách công: Chúng ta chỉ có thể có các

vấn đề chính sách công khi chúng ta mong muốn thay đổi một tình trạng vấn đề nào
đó. Các vấn đề chính sách công là sản phẩm của sự phán xét chủ quan của con
người. Những con người khác nhau xác định, phân loại, giải thích và đánh giá một
vấn đề khác nhau
Ví dụ: Ô nhiễm không khí có thể được định nghĩa theo hàm lượng khí CO2
và các hạt trong khí quyển - nhưng cùng những số liệu như vậy về việc ô nhiễm có
thể được lý giải theo những cách hết sức khác nhau.
- Tính nhân tạo của các vấn đề chính sách công: Các vấn đề chính sách công
không tồn tại tách rời với những cá nhân và những nhóm đã xác định vấn đề. Hơn
Trang | 9


nữa, nhiều vấn đề cco6ng do con người tạo ra. Điều này có nghĩa là không có
những trạng thái xã hội "tự nhiên" tự tạo ra các vấn đề chính sách.
- Tính động của các vấn đề chính sách công: Có nhiều giải pháp khác nhau
cho một vấn đề công, vấn đề công và giải pháp giải quyết vấn đề có thể thay đổi,
bởi vấn đề công có thể bị thay đổi do sự thay đổi của môi trường. Hơn nữa, các giải
pháp cho một vấn đề công cũng có thể được thay đổi do sự thay đổi của khoa học công nghệ, cho dù vấn đề đó không thay đổi.
- Việc thừa nhận tính phụ thuộc, tính chủ quan, tính nhân tạo, và tính động
của các vấn đề chính sách công giúp chúng ta tránh được những hệ quả không thể
lường trước do ban hành những chính sách dựa vào giải pháp đúng cho một vấn đề
không đúng.
3. Nguồn gốc vấn đề chính sách công
Để phân tích về nguồn gốc vấn đề chính sách công,chúng ta cần nghiên cứu
nguồn gốc chung của mọi vấn đề. Muốn biết vấn đề sinh ra từ đâu, trước tiên phải
biết nó là gì. Vấn đề là những mâu thuẫn nảy sinh cần được giải quyết để cho thực
thể tồn tại và phát triển. Như vậy, vấn đề phải gắn liền với các dạng vật chất và
cũng vận động như các dạng vật chất khác. Bằng cách tư duy này có thể xác định
được nguồn gốc của vấn đề chính sách công như sau:
- Vấn đề chính sách công sinh ra từ các hoạt động thực tế trong xã hội.

- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những nguyện vọng của nhân dân.
- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những tác động quản lý nhà nước.
- Vấn đề chính sách công sinh ra từ những tác động của môi trường bên
ngoài xã hội.
4. Căn cứ lựa chọn vấn đề chính sách công
Nghiên cứu đặc tính của vấn đề chính sách công cho phép xác định được
những vấn đề công cần phải có sự can thiệp của nhà nước. Tuy nhiên, nhà nước
không thể giải quyết cùng một lúc tất cả các vấn đề, mà phải chọn trong số đó
những vấn đề cần giải quyết trước. Để chọn đúng vấn đề, nhà phân tích phải cẩn
trọng xem xét một số căn cứ chủ yếu sau:
- Căn cứ vào tính bức xúc của vấn đề chính sách;
- Căn cứ vào yêu cầu quản lý nhà nước đối với vấn đề chính sách;
- Căn cứ vào khả năng giải quyết vấn đề chính sách của nhà nước;
- Căn cứ vào sự ủng hộ của nhân dân đối với vấn đề chính sách;
Kết quả phân tích lựa chọn vấn đề chính sách công được dùng làm cơ sở để
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoạch định chính sách công.
Trang | 10


5. Thực tiễn hiện nay ở nước ta
Xã hội càng phát triển, cơ sở hạ tầng ngày càng được nâng cao, các vấn đề
bức xúc sinh ra ngày càng nhiều cũng như nhiều vấn đề chính sách công cũng tăng
lên và cần Nhà nước ta can thiệp giải quyết. Hiện nay, Việt Nam ta đang phải đối
mặt với nhiều vấn đề chính sách công vô cùng bức xúc, tham nhũng, ô nhiễm môi
trường, đói nghèo, già hóa dân số…là những vấn đề tiêu biểu nhất. Một vấn đề
đang được quan tâm trên cả nước và bức xúc hơn hết là “Tình trạng thất nghiệp của
sinh viên sau khi ra trường”.
Lao động, việc làm là một yếu tố tất yếu không thể thiếu được của con người,
nó là hoạt động cần thiết và gắn chặt với lợi ích của con người.
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối

với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các
hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn
bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội.
Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản
thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân.
Việc làm ngày nay gắn chặt với trình độ học vấn, trình độ tay nghề của từng cá
nhân, thực tế cho thấy những người không có việc làm thường tập trung vào những
vùng nhất định (vùng đông dân cư khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng,..),
vào những nhóm người nhất định (lao động không có trình độ tay nghề, trình độ
văn hoá thấp,..). Việc không có việc làm trong dài hạn còn dẫn tới mất cơ hội trau
dồi, nắm bắt và nâng cao trình độ kĩ năng nghề nghiệp làm hao mòn và mất đi kiến
thức, trình độ vốn có.
Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu
vào không thể thay thế, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập
quốc dân, nền kinh tế luôn phải đảm bảo tạo cầu và việc làm cho từng cá nhân sẽ
giúp cho việc duy trì mối quan hệ hài hoà giữa việc làm và kinh tế, tức là luôn bảo
đảm cho nền kinh tế có xu hướng phát triển bền vững, ngược lại nó cũng duy trì lợi
ích và phát huy tiềm năng của người lao động.
Do tầm quan trọng như vậy nên lao động, việc làm luôn là vấn đề nóng, được
quan tâm đặc biệt và chiếm vị trí quan trong trong các chính sách phát triển của
mọi quốc gia.
Ở Việt Nam những năm qua, lao động việc làm luôn là vấn đề nóng và chiếm
vị trí quan trọng trong các chính sách phát triển của Đảng và Nhà nước. Là quốc
gia với nguồn lao động dồi dào và đang trong thời kì dân số vàng thì vấn đề tận
Trang | 11


dụng hiệu quả nguồn lực này cho phát triển đất nước là vấn đề hàng đầu, quan
trọng và cấp bách hiện nay của nước ta. Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm và đưa ra nhiều chính sách nhằm phát triển việc làm, tận dụng

hiệu quản thời kì dân số vàng để đưa đất nước nhanh chóng tiến lên. Chúng ta đã
đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, vấn đề việc làm vẫn luôn là vấn đề nhức nhối,
làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách. Tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp
vẫn còn cao, đặc biệt ngay cả nguồn lao động đã qua đào tạo, có trình độ cao đẳng,
đại học trở lên vẫn rất cao. Hiện trạng sinh viên ra trường không có việc làm chiếm
số lượng không nhỏ, gây lãng phí một nguồn lực lớn không được tham gia vào hoạt
động sản xuất đang là vấn đề nhức nhối của các cơ sở giáo dục, của hàng trăm ngàn
sinh viên và của các nhà hoạch định chính sách.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam có tỷ lệ sinh viên khi mới ra trường bị thất
nghiệp đang ở mức cao. Theo số liệu thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội vào quý II năm 2016 cả nước có 418.200 người có chuyên kĩ thuật thất
nghiệp, đặc biệt có 191.300 người có trình độ từ đại hoc trở lên, 94.800 người có
trình độ cao đẳng chuyên nghiệp và 59.100 người có trình độ trung cấp chuyên
nghiệp. Đây thực sự là sự lãng phí quá lớn cho nền kinh tế, là mối quan tâm và lo
lắng của hàng triệu sinh viên đang theo học trong các trường đại học, cao đẳng và
cần thiết phải được giải quyết nhất là trong hoạch định các chính sách của Nhà
nước. Vậy nguyên nhân của vấn đề này xuất phát từ đâu? Và nó đã để lại hậu quả
nghiêm trọng gì? Cần phải có biện pháp như thế nào để giải quyết vấn đề này?
6. Nguyên nhân, hậu quả của vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra
trường
Việt Nam là nước đang phát triển với dân số đông trên 90 triệu người và đang
trong thời kì dân số vàng với khoảng trên 54 triệu người đang trong độ tuổi lao
động. Với lượng lao động đông đảo, mỗi năm lại có thêm khoảng 1 triệu lao động
mới nhưng nền kinh tế còn nhiều khó khăn, phát triển chưa theo kịp với số lượng
nhu cầu việc làm tăng thêm làm cho cung lao động luôn lớn hơn nhu cầu lao động
của các doanh nghiệp. Điều này đã gây ra thất nghiệp, đối với sinh viên thì việc tìm
một công việc trong thị trường lao động như vậy đã khó, tìm được việc đúng ngành
học còn khó hơn. Trong tình hình đó, Nhà nước ta cũng đã có nhiều chính sách.
Biện pháp nhằm mở rộng thị trường lao động trong nước (các chính sách khuyến
khích đầu tư, các chính sách về thuế, tín dụng......nhằm kích thích người dân, doanh

nghiệp làm ăn tạo thêm việc làm) và nước ngoài như xuất khẩu lao động sang Hàn
Quốc, Nhật bản....Đã có nhữg tác động tích cực, tuy nhiên còn nhiều bất cập, khó
khăn nên việc mở rộng thị trường lao động cò chậm. Ảnh hưởng của khủng hoảng
Trang | 12


kinh tế thế giới vẫn còn cộng thêm các chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước
còn nhiều bất cập, lúng túng chưa thực sự hiệu quả đã làm cho việc tạo thêm việc
làm còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Một thực tế khác đó là do sinh viên của ta khi ra trường phần nhiều là thiếu kĩ
năng, nghiệp vụ để có thể tham gia, hội nhập nhanh chóng vào thị trường lao động
vói những tiêu chuẩn ngày càng khó khăn hơn. Nguyên nhân của vấn đề này là do
chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo đại học còn kém không theo kịp thực tế. Các
trường đại học, cao đẳng mở ra ngày càng nhiều nhưng chỉ chú ý đến số lượng mà
ít quan tâm đến chất lượng đào tạo. Sự liên kết giữa các trường với các doanh
nghiệp còn lỏng lẻo, ít được quan tâm , điều này dẫn tới sinh viên sau khi ra trường
phải đào tạo lại hoặc tham gia vào thị trường lao động nhưng không đáp ứng được
nhu cầu của nhà tuyển dụng, và do đó mà bị thải loại. Hoặc phải làm những công
việc không đúng chuyên môn, mang tính phổ thông. Yếu tố nữa là do sinh viên học
không đúng với sở thích, năng lực cá nhân, điều này có nhiều nguyên nhân như do
bị ép buộc từ phía gia đình, do thiếu thông tin trong chọn ngành học, do theo tâm lí
đám đông chọn những ngành được nhiều người lựa chọn (ví dụ như ngân hàng,...
nhưng thực tế lại đang thừa lao động trong những ngành này ). Một nguyên nhân
khác là do tâm lí sính bằng, do ảnh hưởng tiêu cực của kinh tế thị trường, tâm lí
thích hưởng thụ sinh ra tệ lười biếng học tập của sinh viên mà dẫn đến học tập
không thực chất, không nắm được kiến thức, do đó mà khi ra trường sinh viên bị lỗ
hổng kiến thức lớn lên không thể làm việc hoặc là không tốt. Một vấn đề rất quan
trọng, đó là do chính sách giáo dục còn nhiều hạn chế bất cập chưa tạo được đột
phá trong việc nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là giáo dục đại học, thiếu cơ
chê kiểm soát chất lượng giáo dục. Các cơ sở đào tạo mở ra tràn lan nhưng thiếu đi

cơ chế giám sát, kiểm tra chất lượng đào tạo một cách hiệu quả, thực chất, chưa
gắn được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp với đào tạo.
Từ những nguyên nhân trên có thể thấy hậu quả của vấn đề này không hề đơn
giản. Chỉ một vấn đề thất nghiệp của sinh viên có thể dẫn tới những hậu quả khó
lường và không thể kiểm soát được nếu không được ngăn chặn ngay lập tức. Hậu
quả nghiêm trọng để lại đầu tiên là kinh tế - xã hội sẽ không thể nào phát triển vững
mạnh hay vươn xa hơn nữa nếu số lượng sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường
ngày càng nhiều. Nhu cầu của con người ngày một tăng cao mà chính họ lại không
thể thực hiện được bất cứ nhu cầu nào cho xã hội thì tình trạng đói nghèo sẽ diễn ra
theo hướng tiêu cực nhất. Hiện nay trên đất nước ta có những khu vực thừa nguồn
tri thức( tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành Phố Hồ Chí Minh…)
nhưng lại có những khu vực thiếu nguồn tri thức( tập trung ở các tỉnh nghèo, miền
Trang | 13


núi ). Thành phố chật hẹp ngày càng chật hẹp thêm do số lượng sinh viên ở lại tìm
cho mình một chỗ đứng đông, nạn thất nghiệp xảy ra nhiều, cuộc sống khó khăn
đói, nghèo đó đã đẫn tới hậu quả hình thành ngày một nhiều các tệ nạn xã hội. Và
nếu một đất nước có chính trị không yên ổn hay đời sống kinh tế - xã hội của người
dân không được đảm bảo, tệ nạn xã hội luôn tồn tại và tăng lên thì đất nước đó sẽ
kém phát triển, ngày càng suy thoái dần dần và đất nước ấy không thể tồn tại một
cách hoàn hảo nữa.
Trên cơ sở phân tích trên, sơ đồ cây vấn đề sau đây sẽ mô tả đầy đủ nguyên
nhân cũng như hậu quả của thực trạng “Sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường”
như sau

Trang | 14


Sơ đồ mô tả cây vấn đề chính sách công “Sinh viên thất nghiệp sau khi ra trường”

Đất nước kém phát
triển, suy thoái
Tệ nạn xã hội

Đói nghèo

Kinh tế - Xã hội
không phát triển

SINH VIÊN THẤT NGHIỆP
SAU KHI RA TRƯỜNG

Thiếu kỹ năng,
nghiệp vụ

Chính sách giáo
dục bất cập,
kém hiệu quả
(giáo dục đại
học)

Đào tạo
chủ yếu
theo số
lượng, ít
chú trọng
chất lượng

Thiế
u

thực
hành
trong
học

Cung lao động vượt cầu
lao động

Ngành
học không
phù hợp
với bản
thân

Phương
pháp
giảng
dạy lạc
hậu

Áp
lực
gia
đình

Thiếu
thông
tin

Số

người
trong độ
tuổi lao
động
cao

Nhu
cầu lao
động
tăng
chậm

Kinh tế
phát
triển
chậm

Thị trường
lao động
(trong nước,
nước ngoài)
chậm mở
Trang
rộng| 15


Nơi đào tạo
chỉ vì lợi ích
cá nhân,vì lợi
nhuận


Giáo viên không
nhiệt tình với
nghề, không có
trách nhiệm

Chính sách kinh
tế chưa thực sự
hiệu quả

Khủng
hoảng kinh
tế

7. Biện pháp giải quyết vấn đề thất nghiệp của sinh viên sau khi ra trường
Thứ nhất, cần quan tâm hơn đến chất lượng giáo dục đại học, cao đẳng mà
đầu tiên là ở chất lượng đầu vào. Giáo dục đại học cần hướng tới năng lực và kĩ
năng mà sinh viên thu nạp được sau bốn năm học. Cần phải có sự gắn kết giữa đào
tạo nguồn nhân lực và nhu cầu của xã hội. Phải xác định rõ các doanh nghiêp, nhà
tuyển dụng cần gì, để hướng tới mục tiêu đào tạo. Việc đào tạo đại học, cao đẳng
cần mang tính ứng dụng thực tế, tránh tình trạng sinh viên sau khi ra trường vẫn chỉ
có một lượng kiến thức lý thuyết mà chưa biết áp dụng như thế nào. Để làm được
điều đó, nên tạo điều kiện cho sinh viên được tiếp xúc trực tiếp với công việc thực
tiễn của các doanh nghiệp, tổ chức nhiều hơn. Phải có sự liên kết giữa nhà trường
và doanh nghiệp, nhà trường nên dựa vào nhu cầu tuyển dụng trong tương lai của
doanh nghiệp để đề ra chỉ tiêu tuyển sinh.
Thứ hai, đối với người lao động, trước tiên phải có định hướng việc làm tương
lai ngay trong thời gian học tập, để tìm cách tiệm cận với thực tế công việc đó, trau
dồi cho bản thân những kĩ năng mà nhà tuyển dụng yêu cầu. Một trong những giải
pháp đó là vấn đề làm thêm, thực tập, sinh viên làm quen dần với công việc tương

lai, để biết bản thân thiếu, yếu những khía cạnh nào để tự khắc phục.
Thứ ba, cần có sự quan tâm, giải quyết của Nhà nước và các cơ quan có thẩm
quyền về vấn tham khảo ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp
trong xây dựng chích sách giáo dục quốc gia, đặc biệt là giáo dục đại học và giáo
dục nghề nghiệp.
Tóm lại, tạo công ăn việc làm cho người lao động nói chung và sinh viên sau
tốt nghiệp nói riêng là một vấn đề cần được quan tâm hàng đầu. Tuy nhiên, điều đó
không thể giải quyết trong một sớm một chiều, mà đây là vấn đề xuyên suốt của xã
hội từ thời kì này qua thời kì khác, cần được Nhà nước quan tâm, hoạch định chính
sách phù hợp, thiết thực để giải quyết.
Trang | 16


PHẦN KẾT LUẬN
Sinh viên, những người được đào tạo bài bản, có trình độ là lực lượng lao
động to lớn góp phần vào phát triển kinh tế nước nhà. Là lực lượng chủ chốt trong
việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại vào công cuộc xây dựng đất
nước, là lực lượng đi đầu trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nhân lực chất lượng cao cho xây dựng
và phát triển đất nước, những năm qua Đảng và Nhà nước ta luôn dành mối quan
tâm đặc biệt cho việc đào tạo, phát triển nguồn lực này. Tuy nhiên, ngoài những
thành tựu đạt được thì vẫn cò đó nhiều mặt hạn chế. Tình trạng sinh viên ra trường
thiếu năng lực, không đáp ứng được nhu cầu thị trường, thất nghiệp gia tăng, làm
trái với ngành nghề đào tạo nên không hát huy được năng lực đang là vấn đề nhức
nhối, làm lãng phí nguồn lực to lớn của xã hội. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần có
những chính sách giáo dục, phát triển kinh tế, việc làm... thiết thực, hiệu quả hơn
nữa nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, đủ khả năng hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu, tận dụng tối đa, hiệu quả nguồn nhân lực dồi dào để đưa nước ta nhanh
chóng thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu , tiến nhanh, tiến vững chắc để sánh ngang với
các cường quốc năm châu.



Trang | 17


MỤC LỤC

Trang

Trang | 18



×