Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Kịch bản biến đổi khí hậu tỉnh phú yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.11 MB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
Sự nóng lên toàn cầu nguyên nhân chính bắt nguồn từ sự phát thải quá mức vào
khí quyển các chất có hiệu ứng nhà kính do hoạt động kinh tế và xã hội trên trái đất được
cho là biểu hiện chính của Biến đổi khí hậu (BĐKH). Ngày nay BĐKH đã và đang diễn
ra trên phạm vi toàn cầu và là một thách thức lớn đối với môi trường toàn cầu trong đó
có Việt Nam. BĐKH xảy ra kéo theo sự tăng lên của nhiệt độ toàn cầu, những biến động
mạnh mẽ của lượng mưa và sự gia tăng các hiện tượng khí hậu, thời tiết cực đoan như lũ
lụt, hạn hán,…
Để giảm nhẹ hậu quả của thiên tai, Liên hiệp quốc đã phát động “Năm quốc tế
giảm nhẹ thiên tai” với nhiều nội dung cụ thể, trong đó đặc biệt chú ý thay đổi thái độ
của mọi người đối với thiên tai: từ chỗ tập trung nỗ lực vào việc khắc phục hậu quả sau
thiên tai sang việc chuẩn bị phòng tránh trước thiên tai. Để nhận thức đúng đắn về hiệu
quả của các cực đoan khí tượng đã có nhiều hội thảo quốc tế, trong đó có hội nghị đánh
giá về các hiện tượng cực đoan khí tượng của Ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu
(IPCC).
Theo IPCC, “kịch bản khí hậu là sự thể hiện đáng tin cậy và đơn giản khí hậu
trong tương lai, dựa trên một tập hợp các mối quan hệ khí hậu, được xây dựng để sử
dụng trong nghiên cứu những hệ quả có thể của biến đổi khí hậu (BĐKH) do con người
tạo ra, thường được dùng như là đầu vào cho các mô hình đánh giá tác động”.
Cũng như khí hậu, các kịch bản khí hậu không giống nhau giữa các khu vực khác
nhau trên thế giới cũng như các thời đoạn khác nhau trong năm. Xây dựng các kịch bản
BĐKH của thế kỉ 21 cũng là đối tượng quan trọng trong nghiên cứu BĐKH của các
nước, các vùng lãnh thổ nhỏ hơn trong mỗi nước.
Ở nước ta, trong một số công trình cũng đã đưa ra các kịch bản về BĐKH ở Việt
Nam đến cuối thế kỉ 21 song hầu hết đều dừng ở một ước lượng chung cho cả nước dựa
vào những kịch bản về BĐKH toàn cầu hay chi tiết hơn cho khu vực châu Á của IPCC.
Hiện nay, để mô phỏng khí hậu nói chung, những biến đổi khí hậu có khả năng xảy ra ở
các vùng đặc biệt là những tiểu khu vực, người ta đã xây dựng các kịch bản BĐKH cho
một khu vực nhỏ trên cơ sở các kịch bản BĐKH toàn cầu.
Báo cáo chuyên đề trình bày các kết quả xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu, nước
biển dâng cho khu vực TP Phú Yên. Các kịch bản được xây dựng dựa trên cơ sở phương


pháp chi tiết hóa thống kê của Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Môi trường
(SD_IMHEN). Các kịch bản được xây dựng dựa trên kế thừa các kết quả của Bộ Tài
nguyên và Môi trường công bố năm 2012. Nội dung chính của báo cáo bao gồm:
1. Điều kiện tự nhiên
2. Phương pháp chung trong xây dựng kịch bản cho Phú Yên
3. Số liệu sử dụng
4. Kết quả xây dựng kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Phú Yên
Cụ thể các nội dung chính như sau:

7


1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Phú Yên
1.1.

Đặc điểm tự nhiên

1.1.1. Vị trí địa lí
Phú Yên là tỉnh ở Duyên hải Nam Trung Bộ, có tọa độ địa lí: 12o42'36"13o41'28" vĩ độ Bắc, 108 o40'40"-109o27'47" kinh độ Đông; phía bắc giáp tỉnh
Bình Định, phía tây giáp hai tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, phía nam giáp tỉnh
Khánh Hòa, phía đông là Biển Đông với bờ biển dài khoảng 189 km. Diện
tích tự nhiên 5060 km2, tỉnh Phú Yên gồm thành phố Tuy Hòa và 8 huyện:
Sông Cầu, Đồng Xuân, Tuy An, Sơn Hòa, Sông Hinh, Phú Hòa, Đông Hòa và
Tây Hòa.
1.1.2. Đặc điểm địa hình
Tỉnh Phú Yên nằm ở sườn phía đông dãy Trường Sơn, phía đông nam
địa khối Kon Tum và phía đông bắc đới Đà Lạt, là một trong những khu vực
chịu ảnh hưởng nhiều của hoạt động kiến tạo. Do đó, địa hình, địa mạo trong
địa phận tỉnh khá phức tạp, gồm đồi núi, đồng bằng, ven biển với một số đầm,
vịnh.

Địa hình núi cao tạo thành vòng cung kéo dài từ đèo Cù Mông ở phía
bắc đến đèo Cả ở phía nam, độ cao từ 500 m trở lên, có một số đỉnh núi cao
trên 1000 m như: La Hiêng (1238 m), Sông Hinh (1196 m), Hòn Ông (1110
m)…
Địa hình dạng đồi phân bố chủ yếu ở ven quốc lộ 1A và rải rác dọc bờ
biển; trên các bán đảo và đảo, có độ cao khoảng 150-300 m; địa hình đồi cũng
bị chia cắt mạnh; có chỗ còn sót miệng núi lửa cổ trên các bề mặt cao nguyên
bazan ở huyện Sơn Hòa, huyện Sông Hinh.
Địa hình đồng bằng là những cánh đồng bị chia cắt bởi những dãy núi
chạy sát ra biển nằm ở hạ lưu các sông Đà Rằng, sông Cầu, sông Kỳ Lộ và
sông Bàn Thạch, có nguồn gốc sông - biển hỗn hợp. Địa hình trong các đồng
bằng cũng không bằng phẳng liên tục mà có những đồi, gò xen kẽ. Riêng
đồng bằng Tuy Hòa (hạ lưu sông Ba) là đồng bằng phì nhiêu do sông Ba chảy
qua các vùng đất bazan, cuốn theo đất màu mỡ về hạ lưu, bồi đắp cho vùng
đồng bằng này.
Tiếp giáp với đồng bằng là những gò đồi, những cồn cát, đụn cát ở ven
biển. Giữa 2 vùng này có những đầm phá, những vùng đất trũng. Bờ biển dài
8


khoảng 189 km, khúc khuỷu, có nhiều dải núi chạy sát ra biển, tạo thành các
eo vịnh, đầm phá. Dọc bờ biển có các cửa sông, lạch như các cửa: đầm Cù
Mông, vịnh Xuân Đài, Tiên Châu (cửa sông Kỳ Lộ), Tân Quy (đầm Ô Loan),
Đà Diễn (cửa sông Đà Rằng), Đà Nông (cửa sông Bàn Thạch) và cửa vịnh
Vũng Rô. Hai vịnh Vũng Rô và Xuân Đài là vùng nước rộng, sâu và kín gió,
thích hợp cho các loại tàu, thuyền lớn hơn 1000 tấn neo đậu, trú ẩn khi có gió
bão.
Vùng cửa sông, bãi triều nước lợ tạo nên vùng nước lợ (có độ mặn từ 2
0
00 trở lên đến 23 00 vào mùa khô), ở ven biển rộng hàng trăm hecta là vùng

thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản.
0

Ngoài ra, ven bờ biển còn có 9 hòn đảo lớn, nhỏ, như các đảo: hòn Lao
mái nhà (1,51 km2), hòn Yến (0,01 km2), hòn Chùa (0,22 km2), hòn Than
(0,01 km2), hòn Dứa (0,02 km2), hòn Khô (0,015 km2) và hòn Nưa (phía đông
Vũng Rô).
Tóm lại, địa hình trong tỉnh Phú Yên thấp dần từ tây sang đông, đồi núi
chiếm khoảng 70% diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phần còn lại là đồng bằng,
ven biển với tổng diện tích khoảng 816 km 2, trong đó đồng bằng Tuy Hòa
chiếm 500 km2.
Địa hình phức tạp, đa dạng và chia cắt mạnh ở vùng đồi núi là nhân tố
chủ yếu gây nên sự biến đổi trong không gian của các yếu tố khí tượng, thuỷ
văn khá phức tạp; phần lớn sông suối có hướng chảy tây bắc - đông nam hay
tây - đông từ vùng đồi núi cao ra biển.
1.1.3. Thổ nhưỡng
Theo kết quả điều tra năm 1976-1978, kết quả xây dựng bản đồ đất tỉ lệ
1/100.000 năm 2003, đất thổ nhưỡng của tỉnh gồm các nhóm chính sau đây
[18].
- Nhóm đất cát biển: Nhóm này phân bố ở ven biển và một số bãi sông với
diện tích 15009 ha, chiếm tỉ lệ 2,97%. Đất có độ phì thấp, chủ yếu trồng rừng
phòng hộ, một số có thể trồng hoa màu nhưng năng suất thấp, một số còn lại
trồng dừa, còn đại bộ phận là đất trống đồi trọc, dễ bị hoang mạc hoá. Duy trì
trồng rừng dọc theo bờ biển để bảo vệ đất, chắn cát, sóng biển và điều hòa
môi sinh.
- Nhóm đất mặn, phèn: Phân bố trên các địa hình thấp ven biển, tập trung ở
huyện Sông Cầu, huyện Đông Hoà. Diện tích 7899 ha, chiếm tỉ lệ 1,57 %,
9



gồm có: đất mặn ít và trung bình, đất phèn ít và trung bình, đất mặn phèn,
phèn ít và trung bình. Loại đất này có phản ứng hơi chua đến kiềm yếu, nghèo
mùn, hàm lượng đạm và lân tổng số nghèo, nên không thích hợp trồng lúa.
Hiện tại một số diện tích đã được cải tạo để nuôi trồng thủy sản và sản xuất
muối đạt kết quả tốt. Đây cũng là phương hướng khai thác lâu dài của nhóm
đất này.
- Nhóm đất phù sa: Nhóm đất này tập trung chủ yếu ở vùng hạ lưu các sông
suối, lớn nhất là hạ lưu sông Ba, hình thành một vùng đất trồng lúa rộng lớn
và các loại cây hoa màu khác. Do đất tốt, khai thác sớm và được đầu tư đồng
bộ nên hiệu quả sử dụng đất khá cao. Diện tích 55752 ha, chiếm tỉ lệ 11,05%,
gồm 5 đơn vị phân loại: Đất phù sa được bồi, đất phù sa không được bồi chưa
phân dị, đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng, đất phù sa xám và đất phù sa
sông ngòi.
- Nhóm đất xám: Diện tích khoảng 39552 ha, chiếm tỉ lệ 7,84%, phân bố ở
bậc thềm chuyển tiếp có độ cao 50-100 m, tập trung ở vùng gò đồi thấp ở hai
huyện Sông Hinh và Sơn Hòa. Do độ phì thấp, đất chua, nghèo mùn và đạm
tổng số các chất dễ tiêu và cation trao đổi đều nghèo, dễ bị xói mòn, rửa trôi,
nên trên loại đất này thường là đất trống đồi núi trọc dưới dạng đồng cỏ tự
nhiên, trảng cỏ, trảng cỏ xen cây bụi, một số có thể trồng hoa màu. Trong
tương lai, loại đất này có thể trồng cây hàng năm (như cây mía), cây công
nghiệp lâu năm (cao su) và trồng rừng phòng hộ kết hợp với chăn nuôi đại gia
súc.
- Nhóm đất đen: Diện tích khoảng 18831 ha, chiếm tỉ lệ 3,73%, gồm đất đen
trên đá bazan, đất nâu thẫm phát triển trên đá bazan; phân bố chủ yếu ở vùng
thấp, địa hình tương đối bằng (đất đen) và gò đồi (đất nâu thẫm) ở huyện Tuy
An và một số nơi ở huyện Sơn Hòa. Loại đất này tuy có độ phì cao, nhưng
tầng đất nông, có nhiều đá, và một số nơi độ dốc lớn. Tuy vậy, loại đất này
vẫn được canh tác nông nghiệp, như trồng lúa nước ở vùng đồng bằng, trồng
hoa màu (bắp, đỗ, đậu…) và cây công nghiệp: bông, mía… trên vùng đất dốc.
- Nhóm đất đỏ vàng: Đây là nhóm đất chiếm diện tích lớn nhất 336579 ha,

chiếm 66,71% gồm 6 đơn vị đất: Đất nâu vàng trên phù sa cổ: 3850 ha. Đất
vàng nhạt trên đất cát: 5250 ha. Đất nâu đỏ trên đá bazan: 4250 ha. Đất nâu
vàng trên đá bazan: 25700 ha. Đất nâu vàng trên đá magma: 288180 ha và đất
đỏ vàng trên đá phiến sét: 15750 ha.
10


Đất đỏ vàng (đất nâu đỏ và đất nâu vàng trên đá bazan) tương đối tốt, có khả
năng sử dụng trong nông nghiệp tập trung ở huyện Tuy An và Sông Hinh.
- Nhóm đất vàng đỏ trên núi: Diện tích của loại đất này khoảng 11300 ha,
chiếm 2,5% phân bố trên núi cao, độ dốc lớn, không sử dụng cho sản xuất
nông nghiệp.
- Nhóm đất thung lũng dốc tụ: Phân bố rải rác ven các suối nhỏ với diện tích
1.246 ha, chiếm tỉ lệ 0,31%. Đất có độ phì cao, thích hợp cho trồng cây ngắn
ngày.
- Các loại đất khác: Các loại đất khác có diện tích 21192 ha, chiếm tỉ lệ
4,21%, gồm núi đá (18360 ha) và đất khác (2832 ha), không có ý nghĩa đối
với sản xuất nông nghiệp.
Nhìn chung tài nguyên đất tỉnh Phú Yên khá đa dạng về nhóm, các loại đất
phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo ra những tiểu vùng sinh thái nông lâm thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây trồng lâu năm
vùng đồi.
1.1.4. Thảm phủ thực vật: Tỉnh Phú Yên có 3 kiểu rừng chính:
- Rừng kín lá rộng thường xanh: Kiểu rừng này rất phổ biến, chiếm tới 96,5%
diện tích rừng tự nhiên, phân bố hầu hết ở các vùng đồi núi với độ cao 3001000 m, trên đất feralit màu vàng đỏ hoặc xám được hình thành từ đá granít,
cát kết hoặc đất dốc tụ, nơi có tầng đất trung bình đến dày, cấu trúc phức tạp,
loài đa dạng, phong phú, có khả năng phòng hộ cao, có khoảng 302 loại cây
gỗ thuộc 39 họ thực vật khác nhau, điển hình là các họ: Dầu, đậu, giẻ, bứa,
thị, sim, long não, đào lộn hột, sổ, dâu tằm…
- Rừng rụng lá (khộp): Kiểu rừng này chiếm diện tích nhỏ (3,5% diện tích
rừng tự nhiên), phân bố chủ yếu ở khu bảo tồn thiên nhiên Krông Trai; chủ

yếu là rừng non với trữ lượng bình quân 40-80 m 3/ha, độ tán che 0,3-0,5. Tổ
hợp thực vật chủ yếu thuộc họ dầu, họ đào lộn hột, họ gạo, họ vừng, họ tử vi,
họ vang, họ ban…
- Rừng trồng: Hiện có 20963 ha và khoảng 8,4 triệu cây phân tán. Rừng trồng
gồm các loại cây chủ yếu như: Bạch đàn, keo lá tràm, keo tai tượng, xà cừ,
phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gỗ đỏ, muồng đen, giáng hương và một số loài
khác, trong đó chủ yếu là bạch đàn, keo, phi lao.

11


Theo thống kê đến tháng 11 năm 2006 của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Phú Yên
[1], diện tích đất có rừng ở tỉnh Phú Yên là 160994,7 ha, trong đó rừng tự
nhiên 125888,5 ha (chiếm 78,19%), rừng trồng 35106,2 ha (chiếm 21,81%),
diện tích đồi núi có rừng khoảng 120063,2 ha, diện tích đất khác khoảng
223473 ha. Độ che phủ của rừng 31,9%. Tuy nhiên, độ che phủ của rừng có
sự chênh lệch khá lớn giữa các huyện, cao nhất ở huyện Tây Hòa (49,8%) và
thấp nhất ở huyện Tuy An (7%), các huyện ở vùng đồng bằng ven biển có độ
che phủ của rừng thấp.
Tuy diện tích rừng trồng tăng lên trong những năm gần đây (năm 2000:
1829,5 ha, năm 2001: 7193,9 ha, năm 2002: 3088,4 ha, năm 2003: 3582,1 ha,
năm 2004: 378,8 ha và năm 2005: 3908 ha), nhưng tỉ lệ rừng năm 2006
khoảng 31,9% thấp hơn so với năm 1978 (41,1%), năm 1995 (34,4%) và năm
2000 (34,7%). Độ che phủ của rừng theo diện tích các huyện thể hiện ở bảng
1.1.
Bảng 1.1. Độ che phủ của rừng trong các huyện thuộc tỉnh Phú Yên
TT
1
2
3

4
5
6
7
8
9
10

Huyện,
Thành phố
Sông Cầu
Đồng Xuân
Tuy An
Sơn Hòa
Sông Hinh
Phú Hòa
Tp Tuy Hòa
Tây Hòa
Đông Hòa
Toàn tỉnh

Diện tích
tự nhiên (ha)
48730
106341
41357
95033
88460
26324
10682

60844
26760
504531

Diện tích
đất có rừng (ha)
16403,2
27747,6
2894,4
39747
33115,7
4010
1005,1
30328,3
5743,3
160994,6

Độ che phủ
(%)
33,7
26,1
7,0
41,6
37,4
15,2
9,4
49,8
26,1
31,9


1.1.5. Đặc điểm khí hậu
Khí hậu ở tỉnh Phú Yên thuộc khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, nhưng
nằm trong vùng khí hậu Nam Trung Bộ với đặc điểm cơ bản là có 2 mùa, gió
đông bắc và tây nam, nền nhiệt độ cao, nắng nhiều, không có mùa đông lạnh,
chỉ có mùa mưa và mùa nắng. Mùa khô kéo dài từ tháng I đến tháng VIII, khí
hậu khô nóng chịu ảnh hưởng của gió tây khô nóng, mưa ít. Mùa mưa kéo dài
từ tháng IX đến tháng XII, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc, áp thấp
nhiệt đới và bão, mưa nhiều.

12


Trên cơ sở số liệu quan trắc khí tượng tại 2 trạm Tuy Hòa và Sơn Hòa,
đồng thời tham khảo số liệu quan trắc khí tượng tại một số trạm của các tỉnh
lân cận, sau đây sẽ đánh giá chung về sự biến đổi của một số yếu tố khí hậu
theo không gian và thời gian (bảng 1.2)
a/ Lượng bức xạ: Tại trạm Tuy Hòa, lượng bức xạ trung bình năm đạt tới
147,3 kcal/năm; lượng bức xạ trung bình tháng tương đối cao trong các tháng
III-VIII (13,9-15,4) kcal/cm2 và tương đối thấp trong các tháng X-XII (9-9,4)
kcal/cm2. Cán cân bức xạ thực nghiệm trung bình năm tại trạm Tuy Hòa đạt
tới 97,86 kcal/cm2, cao nhất vào tháng IV (10,21 kcal/cm2) và thấp nhất vào
tháng XII (4,27 kcal/cm2).
b/ Số giờ nắng: Tổng số giờ nắng trung bình năm khoảng 2500-2600 giờ/năm
ở vùng đồng bằng ven biển (2497 giờ/năm tại trạm Tuy Hòa) giảm còn
khoảng 2300-2500 giờ ở vùng trung du (2313 giờ/năm tại trạm Sơn Hòa) và
dưới 2300 giờ/năm ở vùng núi cao. Số giờ nắng trung bình tháng của các
tháng trong năm dao động trong phạm vi từ 93,8 giờ (tháng XII) đến 255 giờ
(tháng IV, V) tại trạm Sơn Hoà; 120 giờ (tháng XII) đến 270 giờ (tháng IV, V)
tại trạm Tuy Hòa.
Số giờ nắng trong các tháng mùa khô thường trên 200 giờ, cao nhất vào tháng

IV, V, còn trong các tháng mùa mưa thường dưới 200 giờ, thấp nhất vào tháng
XII.
c/ Nhiệt độ không khí: Nhiệt độ không khí trung bình năm khoảng (26-27) oC
ở vùng đồng bằng ven biển, (22-23) oC ở vùng núi cao. Nhiệt độ không khí
trung bình tháng dao động không nhiều: (23,3-29,3) oC tại trạm Tuy Hòa,
(22,1-28,8)oC tại trạm Sơn Hòa; các tháng V-VIII đều có nhiệt độ trung bình
tháng 28-29,5oC, thấp nhất vào tháng I (22-23)oC.

13


Bảng 1.2. Đặc trưng trung bình tháng, năm một số các yếu tố khí tượng

Trạm

Tuy
Hòa

Sơn
Hòa
Tuy
Hòa
Sơn
Hòa
Tuy
Hòa
Sơn
Hòa

Yếu tố


Thời kì
quan
trắc

I

Bức xạ tổng
cộng
(kcal/cm2)

19962004

VIII

IX

X

XI

XII

Năm

9,40

11,30 13,90 14,90 14,20 14,50 15,40 14,50

11,4


9,00

9,40

9,40

147,3

4,99

7,33

8,51

10,21

9,09

9,38

9,59

8,76

6,25

5,11

4,43


4,27

87,92

19792005

85

83

80

78

78

76

75

76

83

89

89

88


82

19772005

83

84

83

81

78

74

74

74

80

85

85

84

80


Bức xạ thực nghiệm
(kcal/cm2)

Độ ẩm (%)

Nắng (giờ)

Nhiệt độ TB
(°C)

II

III

IV

V

VI

VII

19782005

146,9 184,2 246,7 254,6 255,5 228,3 238,8 217,4 182,3 149,4 115,3

93,8

2313,0


19792005

174,6 203,4 257,5 272,2 270,5 229,9 243,1 225,9 197,5 169,7 134,0 119,7

2497,9

19772005

22,1

23,3

25,5

27,7

28,8

28,6

28,5

28,2

27,0

25,5

24,3


22,5

26,0

12


Tuy
Hòa

19792005

23,3

23,8

25,4

27,4

28,9

29,3

29,0

28,8

27,7


26,4

25,4

23,8

26,6

Sơn
Hòa

19792004

7,1

6,5

5,1

5,8

6,4

7,2

6,7

7,4


7,8

7,4

8,2

8,1

7,0

19792004

6,5

5,5

3,6

4,2

5,0

6,1

5,5

6,5

6,6


7,1

7,5

7,4

6,0

19772005

76,6

95,4

134,8 154,3 165,3 171,3 195,2 191,6 107,7

61,7

55,1

57,5

1466,5

19792005

89,8

79,5


97,1

75,2

77,9

87,4

1386,5

19772005

1,2

1,4

1,5

1,4

1,6

2,5

2,8

2,9

1,5


1,0

1,2

1,2

1,7

2,3

2,0

1,9

1,8

1,7

2,5

2,4

2,5

1,7

1,7

3,1


3,1

2,2

Tuy
Hòa
Sơn
Hòa
Tuy
Hòa
Sơn
Hòa
Tuy
Hòa
Ghi
chú:

Lượng mây
(1/10)

Bốc hơi (mm)

Tốc độ gió
TB (m/s)

19792005

105,7 141,0 167,6 180,5 170,6 114,0

Lượng bốc hơi đo bằng ống

Piche
Các đặc trưng bức xạ và lượng mây tổng quan lấy
theo [2]

13


Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối đã quan trắc được đạt tới 40,5 oC vào năm 1994,
tại trạm Tuy Hòa, 41,7oC vào năm 1983 tại trạm Sơn Hòa. Nhiệt độ thấp nhất
tuyệt đối 15,2oC tại trạm Sơn Hòa đều xuất hiện vào năm 1984.
d/ Độ ẩm tương đối của không khí trung bình năm khoảng 80-82% ở vùng
đồng bằng ven biển (83-85)% ở vùng đồi núi thấp và trên 85% ở vùng núi
cao. Các tháng mùa mưa đều có độ ẩm tương đối cao, đạt tới 80-90%, còn độ
ẩm không khí trong các tháng mùa khô tương đối thấp, nhất là vào các tháng
VI-VIII.
e/ Gió: Tốc độ gió trung bình năm khoảng (2-2,5) m/s ở vùng đồng bằng ven
biển, 1,5-2 m/s ở vùng đồi núi. Tốc độ gió trung bình tháng cao nhất vào các
tháng có gió tây khô nóng (các tháng VI-VIII), riêng ở trạm Tuy Hoà, do chịu
ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới nên tốc độ gió trung bình tháng XI và
XII đạt tới 3,1 m/s. Tốc độ gió trung bình tháng thấp nhất khảng 1,0 m/s vào
tháng X ở trạm Sơn Hòa và 1,7 m/s vào tháng IX, X tại trạm Tuy Hòa.
Hướng gió thịnh hành là hướng tây bắc vào các tháng I, II, III và XI, XII,
hướng gió đông bắc vào các tháng IV-VI và hướng tây vào các tháng VII-IX.
Tốc độ gió lớn nhất đã quan trắc được đạt tới 40 m/s tại trạm Tuy Hòa, 25 m/s
tại trạm Sơn Hòa.
Tốc độ gió lớn nhất ứng với chu kì 10 năm tại 2 trạm Tuy Hòa và Sơn Hòa
tương ứng: 28 m/s và 24 m/s, với chu kì 50 năm tương ứng 35 m/s và 29 m/s.
g/ Bốc hơi
Lượng bốc hơi trung bình năm đo bằng ống Piche khoảng 1386 mm tại trạm
Tuy Hòa, 1466 m3/s tại trạm Sơn Hòa và có thể giảm còn 1000-1200 mm ở

vùng núi cao. Lượng bốc hơi trung bình tháng dao động trong khoảng 55-195
mm tại trạm Sơn Hòa, 75-180 mm tại trạm Tuy Hòa. Các tháng V-VIII đều có
lượng bốc hơi lớn, trong đó tháng VIII có lượng bốc hơi trung bình tháng lớn
nhất. Các tháng X-XII có lượng bốc hơi trung bình tháng thấp nhất.
Lượng bốc thoát hơi tiềm năng trung bình năm được tính theo phương pháp
Penman - Monteith đạt tới trên 1500 mm ở vùng đồng bằng ven biển.
Lượng bốc hơi thực tế được tính theo phương pháp cân bằng nước trung bình
thời kì nhiều năm thời đoạn năm theo phương trình dưới đây:
Zo = Xo - Yo

(1.1)

Trong đó:
13


Zo: Lượng bốc hơi trung bình năm trung bình thời kì nhiều năm (mm);
X0, Yo: Tương ứng là lượng mưa năm và độ sâu dòng chảy năm trung
bình thời kì nhiều năm (mm).
Giá trị Zo còn được tính theo công thức kinh nghiệm của M.I. Bu-đưu-cô
(2.10).
Căn cứ vào kết quả đo mưa và dòng chảy tại một số trạm thuỷ văn và bản đồ
lượng mưa năm và lượng dòng chảy năm trung bình thời kì nhiều năm (các
hình 2.2 và hình 2.5) có thể xác định được giá trị X o và Yo trung bình lưu vực
của các lưu vực sông loại vừa, đồng thời kết hợp với giá trị Z o tính được theo
công thức kinh nghiệm nêu trên, đã xây dựng bản đồ đường đẳng trị lượng
bốc hơi năm trung bình thời kì 1977-2010 (hình 1.2).
Từ bản đồ đẳng trị lượng bốc hơi trung bình năm có thể nhận thấy:
- Giá trị bốc hơi trung bình (Eo) biến đổi trong phạm vi từ dưới 700 mm ở vùn
núi cao đến trên 1000 mm ở vùng đồng bằng ven biển, thể hiện rõ xu thế giảm

khi độ cao địa hình tăng lên.
- Giá trị Eo < 700 mm xuất hiện ở vùng đồi núi phía bắc và tây bắc huyện
Sông Cầu, huyện Đồng Xuân - thượng nguồn sông Bà Bồng, sông Cầu và
sông Kỳ Lộ.
- Giá trị Eo = (700-800) mm xuất hiện ở vùng đồi núi phía nam tỉnh thuộc
huyện Sông Hinh, Đông Hòa và Tây Hòa, nơi có X 0 > 2600 mm và X0 ≥ 1900
mm.
- Giá trị Eo = (1000 -1100) mm xuất hiện ở vùng đồng bằng ven biển các
huyện Sông Cầu, Tuy An, Phú Hòa, Đông Hòa và thành phố Tuy Hòa.
- Giá trị Eo trung bình trên địa phận tỉnh Phú Yên khoảng 925 mm.
h/Bão và áp thấp nhiệt đới.
Tỉnh Phú Yên là một trong những nơi thường chịu ảnh hưởng bão và áp thấp
nhiệt đới nhiều nhất ở nước ta. Theo thống kê, trong thời gian 1976-2010 đã
có 494 cơn bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến nước ta, trong đó khu vực
từ Phú Yên đến Bình Thuận chiếm 22,3%, chỉ sau khu vực từ Quảng Bình đến
Thừa Thiên Huế (26,2%).
Bão và áp thấp nhiệt đới thường đổ bộ hay ảnh hưởng đến ven biển Nam
Trung Bộ nói chung và tỉnh Phú Yên nói riêng vào các tháng VII-XII, tập
14


trung vào tháng IX-XII. Theo số liệu quan trắc trong thời kì 1977- 2010, bão
và áp thấp nhiệt đới độ đổ bộ vào tỉnh Phú Yên nhiều nhất không quá 2 cơn
(1980, 1983), có những năm không có cơn nào (1982, 1985, 1986), tính trung
bình có 0,7 cơn/năm ảnh hưởng đến Phú Yên.
Khi bão vào gây ra mưa to, gió mạnh, thường dẫn đến là lũ lụt, như trận lũ
lịch sử xuất hiện vào tháng X/1993 và gây thiệt hại rất lớn về người và của
cải.

15



Hình 1.2. Bản đồ đường đẳng trị lượng bốc hơi năm trung bình tỉnh Phú
Yên
16


f/ Gió tây
Hàng năm, gió tây khô nóng thường xuất hiện vào các tháng VII-IX với số
ngày trong năm khoảng 30-90 ngày, tương đối nhiều ở vùng đồi núi phía tây
(83 ngày tại Sơn Hòa) và tương đối ít ở vùng đồng bằng ven biển phía đông
(34-56 ngày). Gió tây khô nóng xuất hiện trong thời kì mưa ít hay không có
mưa, nhiệt độ không khí cao làm tăng lượng bốc thoát hơi và do đó làm cho
nước trong sông suối, ao hồ cạn kiệt, gây nên hạn hán, ảnh hưởng nghiêm
trọng đến kinh tế - xã hội, nhất là sức khoẻ con người.
1.1.6. Mạng lưới sông suối
Trên địa phận tỉnh Phú Yên có 5 sông chính: sông Bà Bồng, sông Cầu, sông
Kỳ Lộ, sông Ba và sông Bàn Thạch. Ngoài ra còn có một số sông suối nhỏ ở
vùng ven biển (bảng 1.3) (hình 1.2).
- Sông Bà Bồng bắt nguồn từ vùng núi phía nam đèo Cù Mông, chảy theo
hướng gần bắc nam qua địa phận xã Xuân Lộc huyện Sông Cầu, đến gần
Long Thành tiếp nhận thêm một nhánh sông bắt nguồn từ Núi Hòn Khổ (954
m) từ phía bờ phải chảy vào rồi đổ ra vịnh Cù Mông tại Long Thạnh 2. Sông
Bà Bồng dài khoảng 15 km, diện tích lưu vực khoảng 90 km2.
- Sông Cầu mà thượng nguồn được gọi là sông Bình Ninh, là sông lớn nhất ở
huyện Sông Cầu, bắt nguồn từ sườn phía đông nam dãy núi ở phía tây bắc
huyện Sông Cầu (Hòn Gio 786 m), chảy theo hướng tây bắc - đông nam qua
thị trấn Sông Cầu, rồi đổ ra vụng Chao tại Dân Phước.
Dòng chính sông Cầu dài 26 km, độ dài lưu vực 24 km, độ rộng trung bình
lưu vực 6,7 km, diện tích lưu vực 161 km 2, độ dốc trung bình lưu vực 18,1%,

mật độ lưới sông 0,3 km/km2.
- Sông Kỳ Lộ là sông lớn thứ 2 ở tỉnh Phú Yên. Sông Kỳ Lộ bắt đầu từ nhánh
sông La Hiêng chảy từ núi To Net (1030 m) ở xã Đăk Song huyện Krông
Chro tỉnh Gia Lai, chảy theo hướng gần bắc nam vào địa phận tỉnh Phú Yên ở
xã Phú Mỡ huyện Đồng Xuân rồi chuyển hướng tây bắc - đông nam chảy qua
trị trấn La Hai đến Phú Mỹ chia ra làm 2 nhánh đổ ra vụng Xuân Đài.
Sông Kỳ Lộ dài 105 km, độ dài lưu vực 62,6 km, độ rộng trung bình lưu vực
30,7 km, độ dốc trung bình lưu vực 18,6% và mật độ lưới sông 0,6 km/km2.
Với diện tích lưu vực 1920 km2, trong đó có khoảng 439 km 2 ở tỉnh lân cận
(331 km2 lưu vực sông La Hiêng thuộc tỉnh Gia Lai, 108 km2 lưu vực suối Cái
và Khe Cách thuộc tỉnh Bình Định), còn lại 1481 km2 thuộc tỉnh Phú Yên, bao
17


gồm địa phận huyện Đồng Xuân và một phần huyện Tuy An, một phần huyện
Sơn Hoà (các xã Sơn Hội, Sơn Định, Sơn Long).

18


Bảng 1.3. Đặc trưng hình thái lưu vực của các sông chính trong tỉnh Phú Yên

Sông

Vị trí cửa sông
Đổ
Độ cao
vào
nguồn
sông/ Kinh độ Vĩ độ

sông
biển
Đông
Bắc
(m)

Biển 109013’
10’’
Kỳ Lộ
Biển 109015’
15’’
Phụ lưu số 1 Kỳ Lộ 108048’
10’’
Ea Trioum Kỳ Lộ
Kỳ Lộ
Khe Cách
Kỳ Lộ
Gâm
Kỳ Lộ 108055’
Ca Tôn
59’’
Kỳ Lộ
Cuổi
Trà Bương Kỳ Lộ
Kỳ Lộ
Đập
Kỳ Lộ

Kỳ Lộ
Hải Tím

Kỳ Lộ
Cạy
Đổ Đá
Biển
Ba
Biển 109019’
50’’
Bà Bồng

Chiều
dài
sông
(km)

Đặc trưng trung bình lưu vực
Chiều Diện
dài
tích
Hệ số phát Hệ số
Hệ số
Hệ số Hệ số
lưu
lưu Độ Độ Chiều Mật độ
triển
không không
cao
dốc
rộng
lưới
sông

hình uốn
vực
vực
đường
đối
cân dối
2
(km) (km2) (m) (%) (km) (km/km ) phân nước xứng lưới sông dạng khúc

13027’
425 26
24 161 240 18,1 0,7
00’’
13021’
750 105 62,6 1920 342 18,8 30,7
30’’
13033’
675 25
26 174 696 18,6 6,7
11’’
700 18
18
89
4,9
700 24 18,5 98,2
5,3
550 13
10 28,3
2,8
0

13 25’
400 14
14 108 570 25 7,7
54’’
300 12
10 415
4,2
475 37
26 271 295 10,6 10,4
300 14
11 28,5
2,6
225 35
37 348 264 24,2 9,4
250 14
10 43,5
4,3
400 26
20 159 213 138 8
800 12
11
42
3,8
0
13 04’
1390
1200 388 286
400 10,9 48,6
50’’
0


0,3

1,28

-0,11

0,05

0,28

1,7

0,6

1,54

0,08

1,38

0,45

1,7

0,49

1,58

-0,05


1,35

0,2

1,05
1,23
1,3
1,17

0,42

1,38

0,51

4,33

0,48

1,64

-0,47

0,24

0,77

1,62


-0,03

0,33

1,33

1,21

0,12

1,44

0,94

1,55

-0,37

2,53

0,55 1,12
1,35
2,2
1,28
0,25 1,36
2,33
0,4 1,38
1,14
0,17 1,98
17



Cà Lúi

Ba

Lam (Thu)

Ba

Hinh

Ba

Con

Ba

Bạc

Ba

Cát

Ba

108045’
30’’
108056’
10’’

108058’
00’’
109002’
40’’
109003’
00’’

13007’
00’’
13003’
30’’
13002’
00’’
13001’
15’’
13001’
40’’

0

0

425

48

38

190 386 14,5 5,1


0,41

1,78

0,04

6,33

0,13 1,23

200

21

27

148 234 8,1

5,5

0,19

1,62

-0,33

2,5

0,20 1,50


550

88

59

1040 526 15,7 17,7

0,53

1,59

-0,34

1,03

0,30 1,07

500

20

19

124 159 8,6

6,5

0,46


1,30

-0,35

4,36

0,34 1,05

438

30

27

238 240 13,1 8,8

0,58

1,35

-0,22

0,85

0,33 1,32

300

109 09’ 12 59’
700

15’’
00’’
Cái
Ba
250
0
0
109 23’ 12 38’
Bàn Thạch Biển
700
35’’
45’’
Bàn 109016’ 12050’
Sông Trong
400
Thạch 15’’
20’’
Bàn
Suối Đá Đen
Thạch
Bàn
Sông Mơi
Thạch
Đồng Bò

Ba

17,0 17,0 66,5

3,9


27,0 22,0 144 215 8,7

6,5

14,0 15,0 33,8

2,2

1,19
0,55

1,50

0,11

0,67

0,30 1,13
1,06

68,0 30,0 592 228 15,4 19,7

0,50

1,30

0,37

0,38


0,66 2,13

40,1 16,0 166 292 20,3 10,4

0,41

1,22

0,09

1,41

0,65 2,15

20,1

126,5

20,8 15,0 95,0

6,3

1,82

18


Sông Kỳ Lộ có 11 nhánh sông cấp I (chảy trực tiếp vào dòng chính) như các
sông: Khe Cách, Gâm, Cà Tôn, suối Đập, Trà Bương, Cổ, Cạy, Tà Hồ…

Trong lưu vực sông Kỳ Lộ có một số hồ chứa: hồ Phú Xuân, Đồng Tròn - An
Hoà, Bầu Đô…, có 23 đập dâng và 18 trạm bơm. Ở hạ lưu sông Kỳ Lộ (còn
gọi là sông Cái) có hệ thống thuỷ lợi Tam Giang gồm 3 đập dâng là Tam
Giang, Hà Yến và Đồng Kho, diện tích tưới thiết kế 2200 ha.
- Sông Ba là một trong 9 hệ thống sông lớn ở nước ta và là sông lớn nhất ở
Duyên hải Nam Trung Bộ. Thượng nguồn sông Ba bắt nguồn từ sườn núi phía
đông nam dãy núi Ngọc Rô (1579 m) thuộc xã Đăk Rông huyện KBang tỉnh
Gia Lai, chảy theo hướng gần bắc - nam đến Cheo Reo tiếp nhận sông Ayun
từ phía bờ phải chảy vào, từ đó chuyển hướng tây bắc - đông nam chảy vào
địa phận tỉnh Phú Yên tại Buôn Học xã Krông Pa huyện Sơn Hòa, từ Củng
Sơn sông chảy theo hướng gần tây - đông đổ ra biển tại cửa Đà Diễn ở phía
nam thành phố Tuy Hòa.
Trong địa phận tỉnh Phú Yên sông Ba có một số sông nhánh chính như các
sông: sông Con, Bạc, Cái, Đồng Bò… Ngoài ra, nhánh sông Cà Lúi bắt nguồn
từ phía tây bắc huyện Sơn Hòa chảy theo hướng tây bắc - đông nam trong địa
phận xã Cà Lúi (huyện Sơn Hòa, từ đó sông Cà Lúi chảy theo hướng gần bắc
- nam và tây bắc - đông nam đổ vào sông Ba tại Buôn Lê, xã Krông Pa ở phía
bờ trái. Sông Cà Lúi được lấy làm địa giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Gia Lai.
Phần lớn lưu vực sông Cà Lúi (145 km2 trong số 190 km2) nằm trong địa phận
huyện Sơn Hòa. Nhánh sông Krông Hnăng chảy vào sông Ba từ phía bờ trái
tại thượng lưu Buôn Học. Một số sông nhánh của sông Krông Hnăng chảy
trong địa phận huyện Sông Hinh với diện tích lưu vực khoảng 75 km2.
Hạ lưu sông Ba được gọi là sông Đà Rằng, có mạng lưới kênh mương khá
phát triển, đặc biệt là mạng lưới kênh Bắc và kênh Nam của hệ thống thuỷ lợi
Đồng Cam.
Dòng chính sông Ba dài 388 km, độ dốc bình quân lưu vực 10,9%, mật độ
lưới sông 0,94 km/km2. Diện tích lưu vực hệ thống sông Ba khoảng 13900
km2, trong đó 11420 km2 nằm trong địa phận các tỉnh Gia Lai và Đăk Lăk, chỉ
có khoảng 2480 km2 nằm trong địa phận tỉnh Phú Yên (bao gồm khoảng 145
km2 lưu vực sông Cà Lúi và 75 km 2 lưu vực sông Krông Hnăng). Địa phận

huyện Sông Hinh, Phú Hòa, thành phố Tuy Hòa và phần lớn huyện Sơn Hòa,
một phần huyện Tây Hòa năm trong lưu vực sông Ba.

1


Trong lưu vực sông Ba đã và đang xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi, thuỷ
điện, trong đó có một số công trình lớn đáng chú ý sau đây:

Hình 1.1. Bản đồ lưới sông và lưới trạm khí tượng thuỷ văn tỉnh Phú Yên

2


+ Cụm Nhà máy Thuỷ điện Kanak - An Khê đang được xây dựng trên
dòng chính ở thượng nguồn sông Ba;
+ Nhà máy Thuỷ điện Ia Yun Hạ trên nhánh sông Ia Yun đã đi vào hoạt
động;
+ Nhà máy Thuỷ điện Sông Hinh trên nhánh sông Hinh đã được khai thác
từ năm 2000;
+ Nhà máy Thuỷ điện Sông Ba Hạ đã được khởi công tháng 4/2004 và
chặn dòng sông Ba vào tháng 01/2006.
+ Hệ thống thuỷ lợi Đồng Cam được xây dựng từ năm 1932 ở hạ lưu sông
Ba.
- Sông Bàn Thạch còn được gọi là sông Bánh Lái ở thượng lưu và sông Đà
Nông ở phía gần biển. Suối Đen là suối ở thượng nguồn sông Bánh Lái, bắt
nguồn từ sườn phía bắc dãy núi cao trên 1000 m, chảy qua vùng núi hòn Kỳ
Đà (964 m) ở phía phải, hòn Ông (796 m) ở phía trái theo hướng tây nam đông bắc và gần nam - bắc; từ Hoà Mỹ đến Đông Mỹ chảy theo hướng gần
tây - đông rồi từ Đông Mỹ lại chuyển hướng tây bắc - đông nam, đổ ra biển
tại cửa Đà Nông trong mùa lũ, nhưng trong mùa cạn thì chuyển dòng theo

hướng đông nam - tây bắc rồi đổ ra cửa Phú Hiệp. Sông Bàn Thạch có một số
sông nhánh chính như các sông: suối Đá Đen (diện tích lưu vực 166 km 2),
sông Trong (126,5 km2), sông Mới (95 km2)… sông Bàn Thạch dài 68 km, độ
dài lưu vực 30 km, độ rộng lưu vực 19,7 km, độ dốc trung bình lưu vực
15,4%, mật độ lưới sông 0,50 km/km2. Với diện tích 592 km2, lưu vực sông
Bàn Thạch bao trùm hầu hết địa phận hai huyện Tây Hòa và Đông Hòa.
Đường phân nước giữa sông Đà Rằng và sông Bàn Thạch không rõ ràng vì
địa hình thấp và tương đối bằng phẳng và có kênh mương nối liền kênh nam
của hệ thống thuỷ lợi Đồng Cam với sông Bánh Lái.
Ngoài các sông nêu trên, ở vùng ven biển còn có một số sông suối nhỏ chảy
trực tiếp ra biển, với tổng diện tích lưu vực khoảng 191 km2.
Tóm lại, trong địa phận tỉnh Phú Yên có 5 sông tương đối lớn và lớn
với 21 sông nhánh cấp I, 18 sông nhánh cấp II, 1 sông nhánh cấp III và một số
sông suối nhỏ khác. Tổng diện tích lưu vực của toàn bộ sông suối chảy qua
địa phận tỉnh Phú Yên khoảng 16904 km 2, trong đó 11859 km2 nằm ở các tỉnh
lân cận và 5045,3 km2 nằm trong tỉnh Phú Yên.
3


1.2. Hiện trạng kinh tế - xã hội
1.2.1. Hiện trạng nền kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên giai đoạn 2001-2005
Trong thời gian qua, cùng với nhân dân cả nước, nhân dân tỉnh Phú
Yên đã phát huy những thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn thử thách về thiên
tai, dịch bệnh, giá cả thị trường biến động, thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu
kinh tế - xã hội và nhiệm vụ chủ yếu trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) theo
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XIII. Theo báo cáo kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2006-2010) và phương hướng nhiệm
vụ của chiếm lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2006-2015) của Ban
chấp hành Đảng bộ Tỉnh Phú Yên Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần
thứ XIV (III/2006) và Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội

tỉnh Phú Yên đến năm 2020, thì hiện trạng nền kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên
được thể hiện trên những mặt chủ yếu dưới đây:
a) Hiện trạng nền kinh tế
Nền kinh tế đạt tới tốc độ tăng trưởng khá và ổn định. Tốc độ tăng GDP
bình quân hàng năm trong giai đoạn 2001-2005 đạt 10,7%, cao hơn so với
giai đoạn 1996-2005 (8,3%), và cao hơn so với bình quân cả nước 7,51%.
Năm 2005, GDP theo giá trị hiện hành đạt 5.201.104 triệu đồng, bình
quân đầu người đạt 6,04 triệu đồng/người. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng
năm giá trị sản xuất của các ngành kinh tế trong giai đoạn 2001-2005 như sau:
Nông - lâm - ngư nghiệp: 5,6%, công nghiệp - xây dựng: 19,6%, dịch vụ:
12,1%, so với giai đoạn 1996-2000 đã có sự thay đổi đáng kể: công nghiệp xây dựng: 13%, dịch vụ: 8,1% và nông lâm - ngư nghiệp: 4,5%.
Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỉ trọng
của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông - lâm ngư nghiệp. Tỉ trọng của các ngành kinh tế năm 2000 như sau: Công nghiệp xây dựng: 45,4%, nông - lâm - ngư nghiệp: 22% và dịch vụ: 32,6%; đến năm
2005, tỉ trọng của các ngành kinh tế nêu trên tương ứng như sau: 30%, 35,7%
và 34,3%.
Dưới đây là hiện trạng của các ngành kinh tế.
(1) Nông - lâm - ngư nghiệp và phát triển nông thôn
- Sản xuất nông nghiệp: giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hàng năm
khoảng 4,7%. Sản lượng lương thực có hạt năm 2005 đạt 334.10 3 tấn, trong
4


đó sản phẩm hàng hóa chiếm 30%. Đồng thời, đã hình thành một số vùng
chuyên canh, vùng nguyên liệu tập trung phục vụ cho các nhà máy, như vùng
nguyên liệu mía 18045 ha, sắn 10565 ha, điều 6000 ha…
Diện tích gieo trồng một số cây trồng hàng năm như sau: Lúa: 58300 ha,
trong đó lúa đông xuân: 25300 ha, lúa hè thu: 22700 ha, lúa mùa: 10300 ha;
ngô: 5800 ha; khoai lang: 6300 ha; sắn: 9900 ha; mía: 18200 ha; lạc: 900 ha,
sản lượng lúa đạt 321100 tấn.
- Chăn nuôi phát triển ổn định. Theo thống kê vào thời điểm 1/8/2005, toàn

tỉnh có 2716 con trâu, tăng bình quân 2,5%; 201.642 con bò, tăng bình quân
8,7%; đàn heo 196961 con, tăng bình quân 4,2%; đàn gia cầm 1898791 con,
tăng bình quân 1,8%. Đã hình thành các mô hình trang trại, phát triển chăn
nuôi theo hướng công nghiệp thay thế dần phương thức truyền thống nhỏ lẻ.
- Giá trị sản xuất lâm nghiệp tăng bình quân hàng năm khoảng 5,6%; đẩy
mạnh công tác trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng, trồng mới trên 16000 ha
rừng tập trung và hơn 10 triệu cây phân tán. Diện tích đất có rừng đến năm
2006 khoảng 160994,7 ha, trong đó rừng tự nhiên 125888,5 ha, rừng trồng
35106,2 ha. độ che phủ bình quân 31,9%. Diện tích đất trống đồi núi trọc
khoảng 120063,2 ha. Tuy nhiên, do khai thác, chặt phá rừng bừa bãi, nên độ
che phủ của rừng từ 41% năm 1978, giảm còn 34,4% năm 1995, 34,7% năm
2000 và 31,9% năm 2006.
- Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của ngành thuỷ sản khoảng 7,9%.
Sản lượng thuỷ sản khai thác năm 2005 khoảng 38584 tấn, tăng bình quân
hàng năm 5,1%, với giá trị 380 tỉ đồng (theo giá so sánh năm 1994). Nuôi
trồng thuỷ sản đã trở thành một nghề sản xuất chủ yếu.
- Kinh tế khu vực nông thôn phát triển theo hướng đa dạng hoá ngành nghề,
giảm dần sản xuất thuần nông. Cơ sở hạ tầng được phát triển, góp phần cải
thiện và đổi mới bộ mặt nông thôn: 100% số xã có điện lưới quốc gia và 55%
dân cư nông thôn được sử dụng nước sạch. Tính đến năm 2006, hệ thống
công trình thủy lợi trên toàn tỉnh là 182 công trình, trong đó: 69 đập dâng, 72
trạm bơm, 41 hồ chứa và nhiều công trình đê kè chống lũ lụt, xói lở bờ sông
và ngăn mặn. Năng lực tưới thiết kế của các công trình thủy lợi khoảng
30327,4 ha diện tích canh tác, trong đó riêng hệ thống thuỷ lợi Đồng Cam
19800 ha; tuy nhiên, diện tích tưới thực tế chỉ đạt khoảng 25180 ha, riêng hệ
thống thuỷ lợi Đồng Cam 17750 ha, hiệu quả tưới đạt 83%. Công tác thuỷ lợi
tiếp tục được phát triển trong giai đoạn 2001-2005, đã hoàn thành và đưa vào
sử dụng nhiều công trình thuỷ lợi như hồ chứa nước Xuân Bình, nâng cấp hệ
5



thống thuỷ lợi Đồng Cam, hồ Đồng Khôn, Tân Giang Thượng…, kiên cố 184
km kênh mương… . Nhờ đó, đã ổn định nước tưới cho trên 25000 ha và tăng
diện tích tưới gần 300 ha, nâng tổng diện tích gieo trồng được tưới lên 55000
ha, đạt 56%. Đặc biệt, đã đưa vào khai thác Nhà máy Thuỷ điện Sông Hinh,
đang xây dựng Nhà máy Thuỷ điện Sông Ba Hạ (công suất 220 MW), Krông
Năng (64 MW), Đá Đen (9 MW)…
Công tác cấp thoát nước cũng được phát triển. Đã và đang tập trung đầu tư để
đưa vào sử dụng nhà máy nước Củng Sơn, Đồng Xuân, Tuy An. Nhà máy
nước thành phố Tuy Hòa có công suất 28000 m 3/ng cấp cho thành phố Tuy
Hòa và các khu công nghiệp Hòa Hiệp, An Phú; đầu tư xây dựng nhà máy
nước Phú Hòa với công suất 3000 m 3/ng; hầu hết các thị trấn đều có nhà máy
nước với công suất của mỗi nhà máy khoảng 2000-3000 m3/ng.
(2) Công nghiệp
Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm của sản xuất công nghiệp khoảng
19,6%. Năm 2005, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1765,7 tỉ đồng (theo giá
thực tế), 1470,1 tỉ đồng theo giá so sánh năm 1994. Đã và đang hình thành
các khu công nghiệp tập trung với diện tích quy hoạch 985,3 ha (khu công
nghiệp Hòa Hiệp 101,5 ha, khu công nghiệp An Phú 97 ha, khu công nghiệp
Đông Bắc Sông Cầu). Công nghiệp chế biến tăng bình quân hàng năm khoảng
19,9% và đã hình thành một số ngành công nghiệp chế biến quan trọng như:
chế biến đường, tinh bột sắn, thuỷ sản; sản xuất bia và nước giải khát; sản
xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Công nghiệp khai khoáng chủ yếu là chế biến thô với tốc độ tăng trưởng bình
quân hàng năm khoảng 15,6%. Công nghiệp sản xuất và phân phối điện
chiếm tỉ trọng 89,2% trong cơ cấu ngành với mức tăng bình quân hàng năm
khoảng 15,5%. Đặc biệt, nhà máy Thuỷ điện Sông Hinh đã đi vào hoạt động
và phát huy hiệu quả và hàng năm sản xuất 390 triệu kWh, đồng thời góp
phần phòng chống lũ và cấp nước cho vùng hạ lưu sông Ba.
(3) Dịch vụ

Các ngành dịch vụ tăng trưởng khá với mức tăng bình quân hàng năm
khoảng 12,1%; cơ cấu ngành dịch vụ có chuyển biến tích cực, đáp ứng tốt hơn
cho các nhu cầu sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống nhân dân. Tổng
mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ xã hội có mức tăng bình quân hàng
năm khoảng 12,9%; tổng kim ngạch hàng địa phương xuất khẩu trong giai
đoạn 2001-2005 khoảng 170,3 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 28,8%.
Du lịch phát triển khá, lượng khách du lịch đến tỉnh Phú Yên hàng năm tăng
6


16,8% và doanh thu tăng bình quân 21,1%/năm. Dịch vụ vận tải cũng phát
triển mạnh với mức tăng bình quân 12,2%/năm. Các ngành dịch vụ khác như
Bưu chính - Viễn thông, Tín dụng cũng phát triển.
b) Văn hoá - xã hội
Đến năm 2007, dân số toàn tỉnh là 885807 người mật độ dân số bình
quân 175 người/km2, trong đó dân số thành thị: 179170 người, dân số nông
thôn 706637 người. Dân cư phân bố không đều, ở miền núi 50-60 người/km 2,
các huyện đồng bằng ven biển 200-400 người/km 2, khu vực đô thị 1300
người/km2.
Trong giai đoạn 2001-2005 đã giải quyết việc làm cho 115 nghìn lao
động. Cơ cấu lao động đã chuyển dịch tích cực theo hướng giảm dần lao động
khu vực nông nghiệp và nông thôn (từ 77,1% năm 2000 còn 69,2% vào năm
2005), tăng lao động khu vực công nghiệp (từ 6,7% năm 2000 tăng lên 11,2%
vào năm 2005) và dịch vụ (từ 16,2% năm 2000 tăng lên 19,6% năm 2005). Tỉ
lệ hộ nghèo toàn tỉnh từ 26377 hộ năm 2000 (chiếm 15,3% tổng số hộ) giảm
xuống 9588 hộ (5,1%) năm 2005.
Công tác y tế, dân số, gia đình và trẻ em cũng được đẩy mạnh. Đến
cuối năm 2005, toàn tỉnh có 20% số xã đạt chuẩn quốc gia về Y tế. Hệ thống
khám chữa bệnh được sắp xếp lại và nâng cấp.
Toàn tỉnh có 424 trường học và cơ sở đào tạo với 225000 học sinh từ mầm

non đến Trung học phổ thông và 10000 sinh viên học ở các trường Trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng và Đại học trong cả nước.
1.2.2. Vị trí, thách thức và cơ hội của kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên trong khu
vực miềm Trung
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Phú
Yên luôn chịu tác động mạnh từ môi trường quốc tế và trong nước trên cả hai
phương diện tích cực và tiêu cực.
a) Cơ hội phát triển
Bộ Chính trị có Nghị quyết số 39-NQ/TW về phát triển kinh tế - xã hội miền
Trung; Chính phủ đã có Quyết định số 113/2005/QĐ-TTg về Chương trình
hành động thực hiện Nghị quyết 39. Những chủ trương đó thể hiện sự quan
tâm của Đảng và Nhà nước trong việc tạo điều kiện cho các tỉnh ở khu vực
miền Trung khai thác tiềm năng thế mạnh để phát triển, giảm nguy cơ tụt hậu
so với cả nước.
7


Phát triển vùng kinh tế trọng điểm miền Trung có sức lan tỏa tạo cú huých
cho kinh tế trong vùng phát triển, Phú Yên là tỉnh liền kề có nhiều cơ hội để
tận dụng sự lan tỏa này.
Phú Yên cũng là tỉnh tiếp giáp với các tỉnh Tây Nguyên, giao thông thuận tiện
tạo điều kiện xây dựng cửa ngõ ra biển Đông của các tỉnh này. Đồng thời các
tỉnh Tây Nguyên thuộc vùng tam giác phát triển của khu vực Đông Nam Á,
bước đầu đã hình thành các cửa khẩu quốc tế Bờ Y (Kon Tum), Đức Cơ (Gia
Lai) tạo cơ hội cho Phú Yên dễ dàng tiếp cận với thị trường Lào và Cămp Pu
Chia.
b) Những thách thức
Với sự hình thành vùng kinh tế trọng điểm miền Trung (phía bắc), Khánh Hòa
(phía nam) đang trên đà phát triển mạnh, đặt ra nhiều yếu tố bất lợi về lợi thế
cạnh tranh. Phú Yên nằm gần các trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch

vụ lớn của miền Trung như: Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang…, nên các
ngành thương mại, dịch vụ của Phú Yên sẽ bị ảnh hưởng và phải đối mặt với
sự cạnh tranh của các trung tâm này.
Tóm lại, trong giai đoạn vừa qua, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Phú
Yên đã phát triển mạnh với mức tăng trưởng khá và ổn định. Cơ cấu các
ngành kinh tế có sự chuyển biến tốt theo hướng tăng dần tỉ trọng của ngành
công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỉ trọng của ngành nông - lâm - ngư nghiệp.
Trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp cũng có sự chuyển dịch sang cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Ngành công nghiệp
có mức tăng trưởng cao. Các ngành dịch vụ phát triển khá. Cơ sở vật chất kĩ
thuật hạ tầng kinh tế - xã hội được phát triển, làm thay đổi bộ mặt đô thị và
nông thôn. Các hoạt động văn hoá - xã hội cũng có chuyển biến tích cực, đời
sống nhân dân được cải thiện. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, quốc phòng được củng cố vững chắc.
Bảng 1.4a. Kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu trong quy hoạch 10 năm
(2001-2010) tỉnh Phú Yên
TT

Đơn vị
tính

Tên chỉ tiêu

1

Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân năm

2

GDP bình quân đầu người


3

Nhịp độ tăng bình quân hàng năm GTSX
8

%
Triệu
đồng
%

Kế
hoạc
h
1010,5

Thực
Thực
hiện cả
hiện
nước
10,7

7,5

5,16

6,04

10,02


3,5-

5,6

5,4


×