Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Thị trường các công cụ nợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (282.54 KB, 25 trang )

CHỦ ĐỀ 3: NGHIÊN CỨU VỀ THỊ TRƯỜNG CÔNG CỤ NỢ
I. Vai trò thị trường công cụ nợ:
1. Thị trường vốn:
- Thị trường vốn là một trong những cá nhân và tổ chức giao dịch chứng khoán tài
chính. Các tổ chức và tổ chức trong khu vực công và tư nhân cũng thường bán
chứng khoán trên thị trường vốn để gây quỹ. Do đó, loại thị trường này bao gồm
cả thị trường sơ cấp và thứ cấp.
- Bất kỳ chính phủ hoặc công ty nào đều yêu cầu vốn (quỹ) để tài trợ cho hoạt
động của mình và tham gia vào các khoản đầu tư dài hạn của riêng mình. Để
làm điều này, một công ty tăng tiền thông qua việc bán chứng khoán - cổ phiếu
và trái phiếu trong tên của công ty. Chúng được mua và bán tại các thị trường
vốn.
2. Thị trường chứng khoán:
- Thị trường chứng khoán cho phép nhà đầu tư mua và bán cổ phần trong các
công ty giao dịch công khai. Họ là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của
nền kinh tế thị trường khi họ cung cấp cho các công ty khả năng tiếp cận vốn và
nhà đầu tư với một phần sở hữu trong công ty và tiềm năng lợi nhuận dựa trên
hiệu suất của công ty trong tương lai.
- Thị trường này có thể được chia thành hai phần chính: thị trường sơ cấp và thị
trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là nơi mà các vấn đề mới được đưa ra lần
đầu tiên, với bất kỳ giao dịch tiếp theo nào đang diễn ra trên thị trường thứ
cấp.
3. Thị trường trái phiếu:
Một trái phiếu là một khoản đầu tư nợ mà một nhà đầu tư vay tiền cho một
thực thể (công ty hoặc chính phủ), vốn vay trong một khoảng thời gian nhất định với
lãi suất cố định. Trái phiếu được sử dụng bởi các công ty, thành phố, tiểu bang và chính
phủ Hoa Kỳ và nước ngoài để tài trợ cho nhiều dự án và hoạt động khác nhau. Trái
phiếu có thể được mua và bán bởi các nhà đầu tư trên các thị trường tín dụng trên toàn
thế giới. Thị trường này được gọi là thị trường nợ, tín dụng hoặc thu nhập cố định. Nó
là lớn hơn nhiều trong điều khoản danh nghĩa rằng thị trường chứng khoán thế
giới. Các loại trái phiếu chính là trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu thành phố, và trái


phiếu kho bạc Hoa Kỳ, ghi chú và hóa đơn, được gọi chung là "Kho bạc".
4. Thị trường tiền tệ:
-

Thị trường tiền tệ là một phân khúc của thị trường tài chính, trong đó các công
cụ tài chính có thanh khoản cao và các kỳ hạn rất ngắn được giao dịch. Thị
trường tiền tệ được sử dụng bởi những người tham gia như một phương tiện
để vay và cho vay trong ngắn hạn, từ vài ngày đến dưới một năm. Chứng khoán
thị trường tiền tệ bao gồm các chứng nhận thương lượng tiền gửi (CD), chấp
nhận của ngân hàng, hóa đơn tín phiếu Mỹ, giấy thương mại, ghi chú đô thị,
eurodollars, quỹ liên bang và các thỏa thuận mua lại. Các khoản đầu tư vào thị


trường tiền tệ cũng được gọi là các khoản đầu tư tiền mặt do các kỳ hạn ngắn
của họ.
- Thị trường tiền tệ được sử dụng bởi nhiều người tham gia, từ một công ty gây
quỹ bằng cách bán giấy thương mại ra thị trường cho một nhà đầu tư mua đĩa
CD như một nơi an toàn để giữ tiền trong ngắn hạn. Thị trường tiền tệ thường
được xem là một nơi an toàn để đặt tiền do tính chất lỏng của chứng khoán và
các kỳ hạn ngắn. Bởi vì chúng cực kỳ thận trọng, chứng khoán thị trường tiền tệ
mang lại lợi nhuận thấp hơn đáng kể so với hầu hết các chứng khoán khác. Tuy
nhiên, có những rủi ro trong thị trường tiền tệ mà bất kỳ nhà đầu tư nào cũng
cần phải biết, bao gồm cả rủi ro mặc định trên các chứng khoán như giấy
thương mại.
5. Thị trường tiền mặt hoặc giao ngay:
Đầu tư vào thị trường tiền mặt hoặc " giao ngay " rất tinh vi, với cơ hội cho cả
hai khoản lỗ lớn và lợi nhuận lớn. Trong thị trường tiền mặt, hàng hóa được bán
bằng tiền mặt và được giao ngay lập tức. Theo cùng một mã thông báo, hợp
đồng mua và bán trên thị trường giao ngay có hiệu lực ngay lập tức. Giá được
thanh toán bằng tiền mặt "ngay tại chỗ" theo giá thị trường hiện tại. Điều này

đặc biệt khác với các thị trường khác, trong đó các giao dịch được xác định theo
giá kỳ hạn.
- Thị trường tiền mặt phức tạp và tinh tế, và nói chung không phù hợp với các
nhà giao dịch thiếu kinh nghiệm. Các thị trường tiền mặt có xu hướng bị chi
phối bởi các nhà đầu tư thị trường thể chế như các quỹ phòng hộ, các công ty
hợp danh hạn chế và các nhà đầu tư của công ty. Bản chất của các sản phẩm
được giao dịch đòi hỏi phải tiếp cận với các thông tin chi ti ết, sâu rộng và phân
tích kinh tế vĩ mô và kỹ năng giao dịch cao.
-

6. Forex và thị trường liên ngân hàng:
- Thị trường liên ngân hàng là hệ thống tài chính và giao dịch tiền tệ giữa các
ngân hàng và tổ chức tài chính, ngoại trừ các nhà đầu tư bán lẻ và các bên giao
dịch nhỏ hơn. Trong khi một số giao dịch liên ngân hàng được thực hiện bởi các
ngân hàng thay mặt cho các khách hàng lớn, hầu hết giao dịch liên ngân hàng
diễn ra từ các tài khoản của chính ngân hàng.
- Thị trường ngoại hối là nơi giao dịch tiền tệ. Thị trường ngoại hối là thị trường
lớn nhất, lỏng nhất trên thế giới với giá trị giao dịch trung bình vượt quá 1,9
nghìn tỷ đô la mỗi ngày và bao gồm tất cả các loại tiền tệ trên thế giới. Ngoại
hối là thị trường lớn nhất trên thế giới về tổng giá trị tiền mặt được giao dịch,
và bất kỳ người nào, công ty hay quốc gia nào cũng có thể tham gia vào thị
trường này.
- Không có thị trường trung tâm để trao đổi tiền tệ; giao dịch được thực hiện trên
quầy. Thị trường ngoại hối mở cửa 24 giờ một ngày, năm ngày một tuần và các
loại tiền tệ được giao dịch trên toàn thế giới trong số các trung tâm tài chính lớn
của London, New York, Tokyo, Zürich, Frankfurt, Hồng Kông, Singapore, Paris và
Sydney.
- Cho đến gần đây, giao dịch ngoại hối trên thị trường tiền tệ phần lớn là lĩnh vực
của các tổ chức tài chính lớn, các tập đoàn, ngân hàng trung ương, các quỹ phòng



hộ và các cá nhân vô cùng giàu có. Sự xuất hiện của internet đã thay đổi tất cả
điều này, và bây giờ có thể cho các nhà đầu tư trung bình để mua và bán tiền
tệ dễ dàng với một cú click chuột thông qua tài khoản môi gi ới trực tuyến. (Để
đọc thêm, hãy xem Thị trường liên ngân hàng ngoại hối .)
7. Thị trường chính so với thị trường thứ cấp:
- Thị trường chính phát hành chứng khoán mới trên sàn giao dịch. Các công ty,
chính phủ và các nhóm khác có được tài chính thông qua chứng khoán nợ hoặc
vốn chủ sở hữu. Thị trường chính, còn được gọi là "thị trường phát hành mới",
được hỗ trợ bởi các nhóm bảo lãnh, bao gồm các ngân hàng đầu tư sẽ thiết l ập
mức giá bắt đầu cho một chứng khoán cụ thể và sau đó giám sát việc bán hàng
trực tiếp cho nhà đầu tư.
- Các thị trường chính là nơi các nhà đầu tư có cơ hội đầu tiên tham gia vào một
đợt phát hành bảo mật mới. Công ty phát hành hoặc nhóm nhận tiền thu được
từ việc bán hàng, sau đó được sử dụng để tài trợ cho hoạt động hoặc mở rộng
kinh doanh
Thị trường thứ cấp là nơi các nhà đầu tư mua chứng khoán hoặc tài sản từ các
nhà đầu tư khác, thay vì tự phát hành từ các công ty phát hành. Ủy ban Chứng
khoán và Giao dịch (SEC) đăng ký chứng khoán trước khi phát hành chính, sau đó
họ bắt đầu giao dịch trên thị trường thứ cấp trên Sở Giao dịch Chứng khoán
New York, Nasdaq hoặc địa điểm khác nơi chứng khoán được chấp nhận niêm
yết và giao dịch. Thị trường thứ cấp là nơi mà số lượng lớn giao dịch trao đổi
xảy ra mỗi ngày. Thị trường sơ cấp có thể thấy sự biến động gia tăng trên thị
trường thứ cấp vì rất khó để đánh giá chính xác nhu cầu của nhà đầu tư đối với
một chứng khoán mới cho đến vài ngày giao dịch đã xảy ra. Trong thị trường sơ
cấp, giá thường được đặt trước, trong khi trên thị trường thứ cấp chỉ có các lực
lượng cơ bản như cung và cầu xác định giá của chứng khoán.
- Thị trường thứ cấp tồn tại đối với các chứng khoán khác, chẳng hạn như khi các
quỹ, ngân hàng đầu tư hoặc các tổ chức như Fannie Mae mua các khoản thế
chấp từ việc cho vay. Trong bất kỳ giao dịch thị trường thứ cấp nào, số tiền thu

được sẽ chuyển đến một nhà đầu tư thay vì trực tiếp đến công ty / thực thể
tiềm ẩn.
II. Các công cụ trên thị trường tiền tệ:
1. Tín phiếu kho bạc (T-bills):
Tín phiếu kho bạc là loại giấy nợ do chính phủ phát hành có kỳ hạn dưới một
năm để bù đắp thiếu hụt tạm thời của Ngân sách Nhà nước và là một trong những công
cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương điều hành chính sách tiền tệ. (tại Việt Nam,
tín phiếu kho bạc do Bộ Tài chính phát hành).
2. Đặc điểm:
- Là công cụ vay nợ ngắn hạn có tính lỏng cao nhất, tính lỏng dựa trên thời gian
chuyển đổi nhanh; chi phí cho việc chuyển đổi phù hợp, được mua bán ráo ri ết
nhất, do kỳ hạn thanh toán ngắn nên tín phiếu kho bạc nhà nước chịu mức giao
động giá tối thiểu, và do đó ít rủi ro. Cùng với việc chính phủ đảm bảo chi trả :
Chính phủ tăng thuế hoặc vay tiếp hoặc phát hành tiền để trả nợ.


- Bởi các đặc điểm trên mà tín phiếu kho bạc có lãi suất là thấp nhất trong hệ
thống các công cụ vay nợ ngắn hạn.
- Tín phiếu kho bạc được phát hành dưới hình thức chiết khấu: TP kho bạc không
trả lãi và được bán ở mức chiết khấu so với mênh giá và được kho bạc chuộc lại
với đầy đủ mệnh giá khi đến hạn. Được phát hành ra dưới nhiều hình thức khác
nhau để lựa chọn người mua cho phù hợp : loai tín phiếu kho bạc có lợi tức
được trả trước, loại tín phiếu kho bạc có lợi tức được trả sau, loại tín phiếu kho
bạc không ghi phần lãi mà là chênh lệch giữa giá mua và giá bán bằng l ợi t ức....
- Thời hạn của tín phiếu kho bạc thường ngắn cỏ thể 3 tháng, 6 tháng , 1 năm với
một hay nhiều mức mệnh giá.
- Tín phiếu kho bạc thường được phát hành theo từng lô bằng phương pháp đấu
giá. Người mua chủ yếu là các ngân hàng, ngoài ra còn có các công ty và các trung
gian tài chính khác.
- Tín phiếu kho bạc thường được coi là không có rủi ro tín dụng (rủi ro phá sản).

3. Giá mua và giá bán tín phiếu kho bạc:
Giá mua và giá bán tín phiếu kho bạc được niêm yết một cách đặc biệt. Không
như trái phiếu dài hạn trả lãi định kỳ (coupon), tín phiếu kho bạc được yết giá trên cơ
sở suất chiết khấu ngân hàng, chứ không phải trên cơ sở mức giá. Suất chiết khấu
ngân hàng được tính như sau:
YD = D/F x 360/t
Trong đó:
YD = Suất chiết khấu ngân hàng (biểu thị bằng số thập phân)
D = Khoản tiền chiết khấu tính bằng đô-la, là chênh lệch giữa mệnh giá và giá
F = Mệnh giá
T = Số ngày còn lại cho đến khi đáo hạn
a) Thương phiếu (CP):
Thương phiếu là giấy nhận nợ trong quan hệ mua bán trả chậm giữa các doanh
nghiệp. Trong quan hệ giao dịch buôn bán của doanh nghiệp thì các khoản mua bán trả
chậm được phát sinh thường xuyên do đó tạo điều kiện cho thương phiếu phát triển.
Thương phiếu thường có thời gian tối đa là 90 ngày bằng với một chu kỳ sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, thời hạn của thương phiếu có thể được thỏa thuận
giữa bên thụ hưởng và bên nhận nợ.
Thương phiếu gồm: hối phiếu và lệnh phiếu.
- Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát
thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một
thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.

Hình 1. Sơ đồ khái quát cơ chế hoạt động của hối phiếu


Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán
không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định
trong tương lai cho người thụ hưởng. Thương phiếu có 3 tính chất:
- Tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh

khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người
trả tiền.
- Tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng
đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.
- Tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang
người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang
đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố, tính chất này khiến thương phiếu
trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu
lực và mệnh giá thương phiếu.
* Đặc điểm của thương phiếu:
- Tính lỏng cao, rủi ro thấp. Cũng giống như Tín phiếu Kho bạc, CP được mua bán
dễ dàng trên thị trường trước khi đáo hạn. Các nhà kinh doanh duy trì thị trường


CP bằng cách sẵn sàng mua lại CP khi nhà đầu tư muốn bán CP trước hạn. Đến
kì thanh toán, CP bị thu hồi bơi ngân hàng thanh toán, tức ngân hàng được người
phát hành chỉ định làm cơ quan thanh toán.
- Để đảm bảo sự an toàn trong quá trình sử dụng và thanh toán thương phiếu, các
hoạt động về thương phiếu phải được điểu chỉnh bởi các văn bản pháp luật ở
từng quốc gia, ở VN là luật các công cụ chuyển nhượng.
* Lãi suất:
- Thương phiếu ko được ghi trên thương phiếu, nó chính là chênh lệch gi ữa giá
trả ngay và giá mua chịu. Lãi suất thương phiếu phụ thuộc vào thời hạn thanh
toán, vào số vốn cần vay, mức lãi suất chung của thị trường tiền tệ, sự xếp hạng
tín nhiệm của người phát hành. Lãi suất của thương phiếu cao hơn 3 loại trên vì
mức rủi ro cao hơn.
- Thương phiếu phát sinh đối với các DN sản xuất và tiêu thụ. Thông thường, để
giải quyết những lúc kẹt tiền mặt đột xuất trong thương mại vì hàng hóa của
doanh nghiệp chưa bán kịp, vì nhu cầu nhập hàng mới, các công ty có thể ký quĩ
và xin phép ngân hàng bảo trợ để phát hành CP vay tiền. Công ty được phép phát

hành một số lượng CP nhỏ hơn tái sản ròng của họ (thường nhỏ hơn hoặc bằng
75%) để khi đáo hạn mà công ty không trả được tiền cho người mua CP, NHTM
sẽ căn cứ theo luật trả tiền cho dân bằng cách mua lại CP đồng thời phát mại tài
sản để thu nợ.Đây được coi như 1 khoản tín dụng của ngân hàng đối với DN. Nó
có nhược điểm : bị giới hạn bởi số lượng vốn.
* Hình thức phát hành:
- Phát hành trực tiếp : CP được chủ thể phát hành bán thẳng cho người đầu tư
không qua môi giới và người kinh doanh
- Phát hành gián tiếp : CP phát hành thông qua người môi gi ới và người kinh
doanh chuyên nghiệp.
- Cũng giống như Tín phiếu Kho bạc, CP được mua bán dễ dàng trên thị trường
trước khi đáo hạn. Các nhà kinh doanh duy trì thị trường CP bằng cách sẵn sàng
mua lại CP khi nhà đầu tư muốn bán CP trước hạn. Đến kì thanh toán, CP bị thu
hồi bơi ngân hàng thanh toán, tức ngân hàng được người phát hành chỉ định làm
cơ quan thanh toán. Để đảm bảo sự an toàn trong quá trình sử dụng và thanh
toán thương phiếu, các hoạt động về thương phiếu phải được điều chỉnh bởi
hệ thống các văn bản pháp lý phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia và
thông lệ quốc tế.
b) Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (NCDs):
- Chứng chỉ tiền gửi một công cụ nợ do các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
khác phát hành, cam kết trả lãi định kỳ cho khoản tiền gửi và sẽ hoàn trả vốn
gốc (được gọi là mệnh giá của chứng chỉ) cho người gửi tiền khi đến ngày đáo
hạn.
- NCD thường có kì hạn từ 2 tuần đến 12 tháng. Lúc đầu, các chứng chỉ tiền gửi
không được phép bán lại và nếu người gửi tiền rút vốn trước hạn thì sẽ phải
chịu phạt. Để tăng tính hấp dẫn cho chứng chỉ tiền gửi này thì ngân hàng đã áp
dụng lãi suất cao hơn lãi suất của loại tiền gửi cùng kỳ hạn thông thường khác.
Tại một số nước khác trên thế giới thì ngân hàng còn phát hành cho phép người



sở hữu loại chứng chỉ này có thể bán chúng trước hạn (với một mức giá khấu
trừ).
- Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng (NCD) thường dùng để huy động các
nguồn vốn lớn. Chính vì thế ngân hàng sẽ đặt ra mức tối thiểu cho loại chứng
chỉ này. Hiện nay các ngân hàng tại Mỹ đã phát hành chứng chỉ tiền gửi này và
mang lại thành công vô cùng lớn. Tổng số dư gần đây vượt quá tổng số dư của
tín phiếu kho bạc Mỹ. Đây chính là nguồn vốn vô cùng quan trọng cho các ngân
hàng nhận từ các công ty hay các cơ quan.
c) Hợp đồng mua lại (REPOS):
- Hầu hết hợp đồng repos có thời gian rất ngắn thường từ 3 đến 14 ngày. Về thực
chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) trong
đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp. Nó không khác gì nhiều so với
quỹ liên bang trừ điều kiện các tổ chức phi ngân hàng cũng có thể tham gia.
- Hợp đồng mua lại hoàn toàn là một phát minh mới đây (1969) trong thị tr ường
tài chính, nhằm gia tăng thanh khoản cho hệ thống tài chính, đặc biệt là các
ngân hàng thương mại (NHTM) trong trường hợp thiếu hụt thanh khoản nhất
thời. Hợp đồng mua lại này là một nguồn vốn quan trọng đối với các NHTM
(năm 2000, ở Mỹ nguồn này tạo lượng thanh khoản trên 140 tỉ đô-la), và người
cho vay quan trọng nhất ở thị trường này là các công ty lớn, có nguồn vốn dồi
dào và nghiệp vụ quản lý rủi ro với các khoản vay ngắn hạn loại này. Trong rất
nhiều trường hợp, người cho vay là ngân hàng trung ương (NHTW) trong vai trò
“người cho vay cuối cùng” của nền kinh tế.
- Những nhà buôn chứng khoán chính phủ thường tham gia trong hợp đồng repos.
Họ có thể bán chứng khoán cho một ngân hàng với lời hứa mua lại chứng khoán
đó vào ngày tiếp theo. Nó làm cho repo trở thành một khoản cho vay có vật thế
chấp. Người buôn chứng khoán dùng repo để điều chỉnh tính thanh khoản của
họ và tận dụng sự tham gia này để thay đổi lãi suất. Fed cũng dùng repos để
thực hiện chính sách tiền tệ. Fed sẽ điều chỉnh dự trữ của ngân hàng thông qua
mua bán chứng khoán trên thị trường repo và thời hạn của repos cho Fed cũng
không bao giờ vượt quá 15 ngày. Vì hợp đồng repos có tài sản thế chấp là chứng

khoán kho bạc nên chúng thường có rủi ro đầu tư thấp và vì vậy có lãi suất
thấp.
d) Chấp phiếu ngân hàng (BAs)
- Chấp phiếu được xem như một loại hối phiếu có kì hạn do các công ty phát
hành và ra lệnh cho ngân hàng trả một số tiền nhất định vào một thời điểm nào
đó trong tương lai, thông thường thời gian thanh toán là trong vòng 6 tháng. Khi
hối phiếu đã được ngân hàng đóng dấu “chấp nhận” thanh toán thì nó sẽ trở
thành chấp phiếu (coi như đã được ngân hàng bảo đảm chi trả).Trên chấp
phiếu ghi rõ ngày và số tiền cần thanh toán.
- Chấp phiếu ngân hàng là một trong những công cụ của thị trường tài chính ngắn
hạn cổ điển và chiếm tỉ trong tương đối nhỏ tính theo khối lượng. Chấp phiếu
ngân hàng là những hối phiếu đã được ngân hàng chấp nhận, theo nghĩa là bảo
lãnh thanh toán.
- Các hối phiếu do các công ty phát hành và được lập ra trong quá trình mậu dịch
quốc tế. Nếu ngân hàng chấp nhận là hối phiếu ngân hàng thì ngân hàng sẽ phải
đóng dấu “chấp nhận” trên bề mặt của hối phiếu.Khi đó, ngân hàng đã đảm bảo


một cách vô điều kiện thanh toán giá trị mệnh giá của tờ chấp phiếu khi đáo
hạn. Tránh cho người xuất khẩu trên thị trường quốc tế khỏi rủi ro. Như vậy,
môt chấp phiếu là một công cụ tài chính được thiết kế để chuyển rủi ro thương
mại quốc tế vào một bên thứ ba sẵn sàng chấp nhận rủi ro đó. Các ngân hàng
thương mại thường sẵn sàng chấp nhận những rủi ro như vậy vì họ là chuyên
gia trong việc cấp tín dụng, đánh giá các rủi ro tín dụng và rải đều các rủi ro đó
lên hàng nghìn khoản nợ khác nhau. Các chấp phiếu có thời hạn từ 30-270 ngày
(trong vòng 90 ngày là phổ biến) và được xem là công cụ tài chính ngắn hạn có
chất lượng thượng đẳng: kì hạn ngắn, rủi ro thấp, tính lưu hoạt cao là phương
tiện tài trợ có chi phí thấp...Do đó chấp phiếu ngân hàng có một thị trường thứ
cấp ưu việt.
*Đặc điểm của chấp phiếu:

- Một là, ngân hàng đứng ra bảo lãnh thanh toán.Trong quan hệ buôn bán với
nhau, việc không chắc chắn về năng lực tài chính và khả năng thanh toán của
đối tác là một điều dễ hiểu. Do vậy nhu cầu cần có người bảo lãnh, đảm bảo
cho đối tác về mặt thanh toán là một xu hướng tất yếu. Người bán cần một
ngân hàng uy tín chấp nhận thay mặt doanh nghiệp đối tác trả nợ cho mình
trong trường hợp đối tác mất khả năng thanh toán nợ nần cho mình.Như vậy,
khi ngân hàng đóng dấu chấp nhận bảo lãnh thanh toán thì người trả tiền hối
phiếu bây giờ không còn là người mua hàng nữa mà là ngân hàng bảo lãnh.
- Ngân hàng sẽ yêu cầu người mua chịu phải kí quỹ vào gửi ngân hàng một phần
hoặc toàn bộ giá trị của tờ hối phiếu hoặc séc, hoặc ngân hàng sẽ đồng ý cho vay
để thanh toán hối phiếu, bên cạnh đó ngân hàng sẽ thu một khoản phiêu đảm
bảo thanh toán.
- Hai là, người sở hữu chấp phiếu có thể bán lại chấp phiếu trên thị trường ti ền
tệ với giá chiết khấu. Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên chấp phiếu
ngân hàng là một công cụ nợ có độ an toàn khá cao. Khi cần tiền mặt gấp thì
người chủ sở hữu chấp phiếu sẽ có thể đem bán chúng trên thị trường tiền tệ.
Các công ty muốn phát hành hối phiếu phải kí gửi một món tiền bắt buộc vào
tài khoản của họ tại ngân hàng hoặc được ngân hàng đồng ý cho vay để đảm
bảo khả năng chi trả tối thiểu. Điều này nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng với
tư cách chấp nhận thanh toán hối phiếu.
- Chấp phiếu ngân hàng thường được sử dụng trong ngoại thương, xuất nhập
khẩu hoặc trong thị trường mua bán chịu. Khi mà người bán không tin vào khả
năng thanh toán của người mua thì họ sẽ yêu cầu người mua đảm bảo thanh
toán từ ngân hàng có uy tín, khi đã được ngân hàng kí dấu “chấp nhận” chi trả,
thì lúc này người trả tiền không phải là người mua nữa mà là ngân hàng, do
vậyngười bán được đảm bảo khá chắc chắn về khả năng thanh toán của hối
phiếu.
- Do được ngân hàng chấp nhận thanh toán nên các chấp phiếu là một công cụ nợ
có độ an toàn khá cao, nhất là khi ngân hàng chấp nhận là những ngân hàng lớn,
có uy tín. Đồng thời, chấp phiếu có thể được đem bán lại trên thị trường thứ

cấp với giá chiết khấu, nhỏ hơn mệnh giá khi cần vốn.
*Hạn chế của chấp phiếu:
Do thời hạn ngắn nên những biến động về giá của các công cụ tài chính do ảnh hưởng
của sự biến động lãi suất thị trường là không đáng kể, các công cụ của thị trường tiền


tệ thường được phát hành theo dạng được chuẩn mực hóa cao và thị trường thứ cấp
của chúng rất phát triển. Hơn nữa thông thường các công cụ này được đảm bảo bằng
tài sản hoặc các dạng đảm bảo khác của người đi vay chúng là những công cụ đầu tư
có tính thanh khoản cao và ít rủi ro. Do đó dẫn đến lợi nhuận đem lại từ chấp phiếu
ngân hàng thấp hơn so với các công cụ thị trường vốn dài hạn.
e) Eurodollar:
- “Eurodollar” đó là đồng đô la Mỹ sử dụng trong hoạt động tín dụng tại các nước
bên ngoài nước Mỹ được gọi chung là "Eurodollar". Lúc đầu Eurodollar chỉ được
áp dụng cho thị trường châu Âu, nhưng dần dần cho tới ngày nay khái niệm
Eurodollar đã được đồng hoá toàn cầu. Vì đây là các khoản tiền gửi bằng đôla
Mỹ tại các ngân hàng nước ngoài hoặc các chi nhánh của ngân hàng Mỹ tại nước
ngoài nên bằng cách này thì những đồng eurodollar có thể tránh được các quy
định của cục dự trữ liên bang). Thị trường eurodollar rất rộng lớn, ước tính
tổng số lượng của thị trường vượt trên 1000 tỷ USD, trong đó hoạt động của
Eurodollar chiếm tới 65 - 70% tổng doanh số họat động toàn thị trường euro
currency nên theo nghĩa hẹp thì khi nói đến eurocurrency thì người ta còn hi ểu
đó là thị trường eurodollar. Còn theo nghĩa rộng thì thị trường eurodollar là nơi
diễn ra việc trao đổi mua bán đồng tiền USD nằm ngoài nước Mỹ.
- Vì ở Mỹ có xu hướng áp đặt trần lai suất tiền gửi nên các công ty với lượng dự
trữ đồng đô-la lớn thường được gửi tại các ngân hàng ngoài biên gi ới My để
nhận lãi suất cao hơn.
- Chứng chỉ tiền gửi Eurodollar (Eurodollar CDs): là một công cụ vay nợ có khả
năng chuyển đổi, bằng đồng đô-la do các ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
khác của Mỹ ở Châu Âu phát hành xác nhận các khoản tiền gửi bằng đồng đô-la

của người gửi tiền.
- Trái phiếu Eurodollar (Eurodollar bonds): Trái phiếu bằng đồng đô-la được phát
hành bởi các công ty Mỹ ở Châu Âu. Như vậy Eurodollar bond là hình thức thu
hút đô-la Mỹ quay ngược về Mỹ. Đây là một công cụ kinh doanh ti ền tệ (đô-la
Mỹ) dành cho các cá nhân hay tỏ chức bên ngoài nước Mỹ dựa vào sự lên giá hay
mất giá của đồng tiền này trên thị trường hối đoái.
- Kỳ phiếu Châu Âu (Euronotes) : Giấy hẹn thanh toán không đảm bảo ngắn hạn
được phát hành bởi công ty tài chính hay công ty lớn uy tín. Thường được phát
hành dưới hình thức trái phiếu vô danh và được bán có chiết khấu. Kỳ phiếu
Châu Âu có mệnh giá bằng đồng đô-la hoặc đơn vị tiền tệ Châu Âu.
III. Thị trường trái phiếu chính phủ:
1. Khái niệm:
- Thị trường trái phiếu Chính phủ là một bộ phận của thị trường tài chính, đây
chính là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các tài sản tài chính. Trái
phiếu Chính phủ là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ phát hành, TPCP là
một trong những công cụ nợ của Chính phủ chính vì vậy mà thị trường TPCP
được coi là thị trường nợ.
- Trên thực tế, với sự đa dạng của TPCP về kỳ hạn, lãi suất; do vậy, TPCP không
những tham gia vào thị trường tiền tệ mà còn tham gia vào thị tr ường v ốn. Tín
phiếu kho bạc sau khi phát hành được phép mua, bán trên thị tru ờng ti ền t ệ


hoặc chiết khấu, tái chiết khấu cầm cố tại ngân hàng theo quy đ ịnh c ủa Nhà
nước, tín phiếu kho bạc là một công cụ quan trọng để Ngân hàng Trung ương
thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Thông qua việc mua, bán tín phiếu kho bạc
Ngân hàng Trung ương thực hiện điều hoà lượng tiền cung ứng và thực thi các
chính sách tiền tệ của mình. Vì vậy, ngay cả trong tr ường hợp NSNN không b ị
thâm hụt, thì Bộ Tàichính vẫn có thể phát hành tín phiếu kho b ạc v ới m ục đích
góp phần thực hiện các chính sách tiền tệ của Nhà nước.
- TPCP có kỳ hạn (trung hạn và dài hạn) nếu đáp ứng đ ủ các đi ều ki ện kỹ thu ật

theo quy định của TTGDCK thì được niêm yết trên thị trường chứng khoán. V ới
sự có mặt của TPCP và trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, trái phi ếu chính
quyền địa phương đã góp phần làm đa dạng hàng hoá trên thị tr ường tài chính.
Bên cạnh đó là việc mở rộng và tự do hoá thị tr ường vốn trong n ước là c ơ h ội
tốt để cho các nhà đầu tư thực hiện các giao dịch trái phiếu trên thị trường.
- Thông qua các hoạt động giao dịch này góp phần khai thông các luồng v ốn trong
nền kinh tế, nâng cao vị trí của thị trường TPCP trong thị trường tài chính.
2. Các thành viên tham gia vào TTTPCP:
a) Chủ thể phát hành:
Chủ thể phát hành trái phiếu là một tổ chức đứng ra huy động vốn bằng cách
phát hành trái phiếu cho các nhà đầu tư thông qua vi ệc mua trái phi ếu. Đ ối v ới TPCP,
Chính phủ và các chính quyền địa phương là chủ thể phát hành trái phi ếu v ới kh ối
lượng lớn nhất ra thị trường. Điều này là dễ hiểu, vì không phải lúc nào Chính ph ủ
cũng có đủ nguồn NSNN dự trữ để bù đắp thiếu hụt NSNN và nh ững kho ản chi l ớn cho
đầu tư phát triển. Hầu hết, Chính phủ các quốc gia trên thế gi ới đều sử dụng hình th ức
huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua vi ệc phát hành TPCP huy
động vốn từ trong nước và huy động vốn trên thị trường quốc tế thông qua vi ệc phát
hành trái phiếu quốc tế. Chính phủ tham gia vào thị trường trái phi ếu v ới t ư cách là
chủ thể phát hành, là người cung cấp hàng hóa cho thị trường tài chính. Thông qua th ị
trường này, Chính phủ sẽ thu hút được các luồng vốn nhàn rỗi trong dân c ư; thu hút các
nhà đầu tư tham gia vào thị trường này và cuối cùng Chính phủ sẽ t ập trung đ ược m ột
lượng tiền cần thiết để đầu tư cho các mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội.
b) Các tổ chức trung gian:
Khác với các thị trường phổ thông; thị trường TPCP muốn hoạt động được ngoài
việc tham gia của chủ thể phát hành và nhà đầu tư ra thì luôn t ồn t ại chủ thể th ứ ba đó
là các tổ chức trung gian. Tổ chức trung gian là người đ ứng ra k ết n ối các ho ạt đ ộng
mua, bán, trao đổi giữa chủ thể phát hành và nhà đầu t ư; gi ữa các nhà đ ầu t ư v ới nhau.
Các tổ chức trung gian trên thị trường TPCP bao gồm:
- Thứ nhất, tổ chức bảo lãnh, đại lý phát hành
Tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý đối với trường hợp phát hành trái phi ếu theo ph ương

thức bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành là các công ty Ch ứng khoán; Quỹ đ ầu t ư;
Công ty tài chính; các tổ chức Ngân hàng. Để thực hi ện đ ược vi ệc b ảo lãnh phát hành
tức là tổ chức này giúp cho tổ chức phát hành thực hi ện các th ủ t ục tr ước khi phát
hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán; phân ph ối trái phi ếu cho các nhà đ ầu t ư,
nhận mua trái phiếu đểbán lại hoặc mua số trái phiếu còn chưa phân ph ối h ết. Trong
khi đó, Tổ chức đại lý phát hành được chính tổ chức phát hành trái phi ếu ủy thác cho
thực hiện việc bán trái phiếu cho các nhà đầu tư.


Bảo lãnh phát hành gồm hai khâu cơ bản: Tư vấn tài chính và phân ph ối ch ứng
khoán. Các tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng một khoản phí nh ất đ ịnh căn c ứ
trên số tiền thu được từ đợt phát hành. Phí bảo lãnh phát hành được quy định theo m ột
tỷlệ nhất định (Ở Việt Nam hiện nay phí bảo lãnh phát hành trái phi ếu t ối đa là
0,15%/số tiền trái phiếu nhận bảo lãnh). Việc bảo lãnh phát hành th ường đ ược th ực
hiện theo một trong các phương thức sau:
 Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo
lãnh cam kết ngoài việc thực hiện các thủ tục tr ước khi phát hành trái phi ếu ra
thị trường chứng khoán, phân phối lại trái phi ếu cho các nhà đ ầu t ư và nh ận mua
lại trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu còn lại chưa phân phối hết.
 Bảo lãnh theo phương thức cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo lãnh mà theo
đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho t ổ ch ức phát hành. T ổ ch ức b ảo
lãnh phát hành không cam kết bán toàn bộ số ch ứng khoán mà ch ỉ cam k ết sẽ c ố
gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng ph ần không phân ph ối
hết sẽ được trả lại cho tổ chức phát hành.
 Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: Là phương th ức bảo lãnh mà
theo đó tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh phát hành n ếu không bán
hết số chứng khoán thì hủy bỏ toàn bộ đợt phát hành.
 Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa :Là phương thức bảo lãnh trung gian
giữa phương thức bảo lãnh cố gắng cao nhất và phương th ức b ảo lãnh bán t ất c ả
hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành chỉ thị cho tổ chức bảo lãnh

phải bán tối thiểu một tỷ lệ nhất định chứng khoán phát hành. N ếu l ượng ch ứng
khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn tỷ lệ yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ b ị
hủy bỏ.
- Thứ hai, tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Là tổ chức chuyên về đánh giá mức độ “Tín nhiệm” của các tổ chức phát hành và x ếp
hạng chúng theo năng lực thanh toán tiền lãi và vốn vay theo kỳ h ạn đã cam k ết c ủa
nhà phát hành trái phiếu. Tại nhiều nước đã hình thành những t ổ ch ức chuyên môn
phân tích và đánh giá hệ số tín nhiệm đối với nhà phát hành. Hai công ty lâu đ ời và n ổi
tiếng trong lĩnh vực này là hai công ty của Mỹ: Công ty Moody và công ty Standard và
Poors ( S & P), các công ty này đưa ra ký hi ệu trong vi ệc x ếp h ạng trái phi ếu theo m ức
độ rủi ro và cách xếp hạng này được sử dụng phổ bi ến ở các nước. M ức độ “ tín
nhiệm” của các công ty thường được xếp theo các chữ cái A, B, a, b…… d ưới đây là cách
xếp hạng của hai công ty nói trên: AAA thể hi ện chất l ượng cao nhất đó là vi ệc ch ắc
chắn hoàn trả được tiền lãi và tiền gốc cho các nhà đầu t ư ch ứng khoán; v ới m ức AA
thì năng lực thanh toán tiền gốc và lãi có phần kém h ơn so v ới AAA; ti ếp theo là các
hạng A, BBB, BB,B, CCC, CC,C… và thấp nhất là D (th ể hi ện có nguy c ơ v ỡ n ợ). Ngoài ra
người ta còn sử dụng thêm các dấu ( +) và (-) để thể hiện m ức độ đánh giá chính xác
hơn.
- Thứ ba, tổ chức môi giới chứng khoán
Là tổ chức có chức năng tư vấn, giúp đỡ các nhà đầu t ư trong vi ệc ra quy ết đ ịnh đ ầu
tư và thực hiện các quyết định đầu tư đó. Tổ chức môi gi ới chứng khoán cũng có th ể
đưa ra các lời khuyên về hoạt động nghiệp vụ đối với các công ty ch ứng khoán và các
tổ chức tài chính.
- Thứ tư, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán là t ổ ch ức c ủa các công ty ch ứng khoán và
một số thành viên khác hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, mục đích là b ảo v ệ l ợi
ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành ch ứng khoán nói chung. Hi ệp
hội các nhà kinh doanh chứng khoán thường là một tổ chức tự điều hành.



c) Sở giao dịch chứng khoán:
Sở giao dịch chứng khoán là trung tâm giao dịch có t ổ ch ức đ ể giao d ịch các ch ứng
khoán được niêm yết. Sở giao dịch thực hi ện vận hành th ị tr ường thông qua b ộ máy t ổ
chức bao gồm nhiều bộ phận khác nhau phục vụ các hoạt đ ộng trên th ị tr ường s ở giao
dịch. Ngoài ra, Sở giao dịch cũng ban hành những quy định đi ều ch ỉnh các ho ạt đ ộng
giao dịch chứng khoán ở Sở, phù hợp với các quy định luật pháp v ề ch ứng khoán và
giao dịch chứng khoán.
d) Chủ thể đầu tư:
Chủ thể đầu tư chính là những người tham gia mua các loại ch ứng khoán n ợ do
Chính phủ phát hành. Nếu phân loại theo quy mô, t ổ ch ức của các ch ủ th ể đ ầu t ư thì
phân chia thành các nhà đầu tư cá nhân và các nhà đầu t ư có t ổ ch ức. Thông th ường,
các nhà đầu tư cá nhân là các hộ gia đình, những người dân có kho ản ti ền nhàn r ỗi,
thay vì gửi tiết kiệm vào ngân hàng họ quy ết định đầu t ư d ưới hình th ức mua TPCP.
Còn các nhà đầu tư có tổ chức là các công ty kinh doanh ch ứng khoán, t ổ ch ức tài
chính,..... họ là những tổ chức có quy mô, chuyên hoạt đ ộng kinh doanh trong lĩnh v ực
mua, bán chứng khoán và sử dụng các nguồn vốn kinh doanh c ủa mình đ ể đ ầu t ư vào
TPCP, vì đây là lĩnh vực đầu tư khá an toàn, lãi su ất TPCP th ường ổn đ ịnh, ít có nh ững
biến động lớn và người phát hành đảm bảo được khả năng thanh toán cao và h ệ s ố tín
nhiệm của chủ thểphát hành rất cao.
3. Phân loại:
Thị trường TPCP là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các hoạt
động mua bán tài sản tài chính. Thị trường TPCP là một bộ ph ận không thể tách r ời th ị
trường chứng khoán; thông qua thị trường TPCP, Chính phủ và các doanh nghi ệp sẽ thu
hút và khơi thông được các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân c ư để tập trung đ ầu t ư cho
các mục tiêu dài hạn đã được hoạch định. Theo cơ chế hoạt động, thị tr ường TPCP
cũng bao gồm có thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
a) Thị trường sơ cấp:
-Là thị trường để thực hiện việc phát hành mới các loại TPCP, khác v ới th ị tr ường
thứ cấp là nơi mua, bán các loại TP đã phát hành tr ước đó. Nh ư v ậy, th ị tr ường s ơ c ấp
là nơi cung cấp vốn, thông qua hoạt động của thị trường này nh ững lu ồng ti ền nhàn

rỗi trong dân chúng và các tổ chức kinh tế - xã hội có th ể đ ược chuy ển thành v ốn đ ầu
tư dài hạn cho người phát hành chứng khoán; thị trường này có đ ặc đi ểm là ho ạt đ ộng
không liên tục và chỉ hoạt động khi có đợt phát
hành TPCP mới. TPCP thường được phát hành theo các phương thức sau:
*Phương thức bão lãnh phát hành trái phiếu
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp t ổ ch ức phát hành th ực hi ện các
thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị tr ường chứng khoán, phân ph ối trái phi ếu
cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua s ố trái phi ếu còn l ại
chưa phân phối hết. thường do các công ty chứng khoán, các quỹ đầu t ư, công ty tài
chính, các ngân hàng và các định chế tài chính khác được B ộ tài chính cho phép đ ứng ra
đảm nhiệm. Căn cứ vào kết quả đăng ký mua trái phi ếu c ủa các nhà đ ầu t ư các thành
viên tham gia bảo lãnh phát hành gửi bản đăng ký bảo lãnh phát hành trái phi ếu đ ến t ổ
chức phát hành để làm căn cứ xem xét, l ựa chọn cấu trúc b ảo lãnh và các t ổ ch ức b ảo
lãnh phát hành.


*Phương thức đấu thầu trái phiếu
Đấu thầu TPCP là việc bán TPCP cho các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu, đáp
ứng đủ các yêu cầu của Chính phủ và có mức lãi suất đặt thầu thấp nh ất. Đ ấu thầu
TPCP thường do Bộ Tài chính trực tiếp tổ chức đấu thầu hoặc u ỷ quy ền cho NHNN t ổ
chức đấu thầu. TPCP đấu thầu được giao dịch trên thị trường chứng khoán, có hai hình
thức đấu thầu:
Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và kết hợp giữa đấu thầu c ạnh tranh lãi su ất v ới đ ấu
thầu không cạnh tranh lãi suất, nghĩa là người đặt thầu không đ ưa ra m ức lãi su ất mà
lãi suất trái phiếu hình thành thông qua đấu thầu cạnh tranh đồng thời là lãi suất trúng
thầu chung cho cả đấu thầu không cạnh tranh, ở đây người đặt thầu không c ạnh tranh
sẽđược ưu tiên trúng thầu.
*Phương thức đại lý phát hành trái phiếu
Đại lý phát hành trái phiếu là việc Chính phủ (t ổ chức phát hành) ủy thác cho m ột
hoặc một số tổ chức bán trái phiếu. Trường hợp, nếu không bán hết số lượng trái

phiếu mà Chính phủ dự định phát hành thì tổ chức làm đại lý tr ả l ại cho t ổ ch ức phát
hành, không có trách nhiệm phải mua hết số trái phi ếu còn l ại. Các nhà đ ại lý phát
hành là các công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư,
Kho bạc Nhà nước được coi như một đại lý đặc bi ệt của Chính ph ủ trong vi ệc phát
hành trái phiếu. Trái phiếu có thể bán với hình thức ngang mệnh giá ho ặc không
ngang mệnh giá; nếu thời điểm phát hành và thanh toán c ủa m ỗi đ ợt là đ ồng nhất thì
được phép niêm yết, giao dịch tại thị trường chứng khoán.
Tổ chức đại lý được nhà phát hành trả cho một khoản phí trên số trái phi ếu đã bán.
Điểm khác biệt chủ yếu giữa phương thức đại lý phát hành và bảo lãnh phát hành
chính là ở khả năng phân phối trái phiếu ra công chúng.
Trên thị trường sơ cấp cần có những nhà kinh doanh trái phi ếu (ngân hàng th ương
mại, công ty chứng khoán có uy tín) họ đảm nhiệm vi ệc bao tiêu khối l ượng trái phi ếu
phát hành và bán trái phiếu lại cho các nhà đầu t ư, đồng th ời họ cũng đóng vai trò là
những nhà tạo lập thị trường.
b) Thị trường thứ cấp:
- Đây là nơi giao dịch các loại TPCP đã được phát hành trên thị tr ường sơ cấp.
- Hoạt động của thị trường thứ cấp tạo ra khả năng dễ dàng, thuận tiện
chuyển đổi TP thành tiền. Trên thị trường này diễn ra việc mua bán TPCP gi ữa
các nhà đầu tư, tiền thu được từ việc bán TP không thuộc về nhà phát hành
mà thuộc về nhà đầu tư bán TP nhường lại quyền sở hữu TP cho các nhà đầu
tư khác.
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối quan hệ t ương tác g ắn bó
chặt chẽ với nhau; nếu không có thị trường sơ c ấp thì không có hàng hóa đ ể
lưu thông trên thị trường thứ cấp. Nhưng nếu không có th ị trường th ứ c ấp thì
thị trường sơ cấp cũng khó có thể phát tri ển và hoạt động có hi ệu qu ả. Vì
vậy, mặc dù sự hoạt động của thị trường thứ cấp không làm tăng thêm vốn
đầu tư cho nền kinh tế song sự tồn tại và hoạt động nhịp nhàng c ủa th ị
trường thứ cấp làm cho thị trường sơ cấp hoạt động có hiệu quả và phát
triển. Thị trường thứ cấp bao gồm thị trường tập trung và thị tr ường phi t ập
trung.

* Thị trường chứng khoán tập trung
Thị trường chứng khoán tập trung hay thị trường chứng khoán có t ổ ch ức là m ột
trung tâm mua bán chứng khoán được tổ chức một cách chặt chẽ và đ ược gọi là S ở giao
dịch chứng khoán. Phương thức giao dịch tại Sở giao d ịch là ph ương th ức đ ấu giá, trong


đó có các lệnh mua, lệnh bán được khớp với nhau trên c ơ sở đó hình thành giá c ả c ủa
từng chứng khoán; để có đủ điều kiện được giao dịch tại thị trường ch ứng khoán t ập
trung thì trái phiếu phải niêm yết trên Sở giao d ịch chứng khoán. Trái phi ếu niêm y ết
và giao dịch tại Sở GDCK phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật là các trái phi ếu c ủa m ột
đợt phát hành phải có cùng ngày đáo hạn, việc mua bán trái phi ếu đ ược th ực hi ện t ập
trung tại Sở GDCK theo hình thức đấu giá. Trái phi ếu Chính ph ủ có th ể đ ược giao d ịch
trên thị truờng tập trung, thị trường phi tập trung (OTC); việc niêm y ết và giao d ịch
qua Sở GDCK chỉ có ý nghĩa cung cấp thông tin về giá c ả cho công chúng đ ầu t ư và làm
cơ sở cho mọi giao dịch kỳ hạn.
* Thị trường chứng khoán phi tập trung hay thị trường trao tay (Over
The Counter market -OTC)
Là thị trường không có trung tâm giao dịch, việc giao dịch ch ứng khoán đ ược các
công ty chứng khoán thực hiện qua mạng lưới đi ện thoại, đi ện tín. Vi ệc mua, bán trên
thị trường OTC được thực hiện thông qua thương lượng, mặc cả gi ữa bên mua và bên
bán; đặc điểm của thị trường này là không có sàn giao d ịch, do v ậy các nhà mua, bán
chứng khoán bị ngăn cách nhau về không gian và trong nhi ều trường h ợp h ọ không
liên lạc kịp thời với nhau. Ở đây có hai cách th ức đ ịnh giá ch ứng khoán: Đ ối v ới nh ững
thị trường OTC mà kỹ thuật tự động còn chưa được
ứng dụng thì các chứng khoán được bán buôn v ới các m ức giá khác nhau, ở nhi ều đ ịa
điểm khác nhau, mức giá này trên thực tế là m ức giá thỏa thuận, th ương l ượng ch ứ
không phải được hình thành trên cơ sở đấu giá. Trong khi đó, ở thị trường OTC, nơi mà
hệ thống yết giá tự động được sử dụng thịnh hành (Anh; Mỹ) thì các nhà mua, bán
chứng khoán được liên kết với nhau trong toàn quốc bằng màn hình đi ện t ử, thông tin
giá cả được thực hiện liên tục tại trụ sở; chính vì vậy, khách hàng luôn có đ ược thông

tin về giá thị trường một cách đầy đủ nhất. Trên thị trường OTC có những công ty
chuyên kinh doanh những loại chứng khoán nhất định gọi là nhà t ạo l ập th ị tr ường
( Market Maker ), họ sẵn sàng mua, bán một loại ch ứng khoán nào đó theo giá mà công
ty niêm yết; thị trường OTC có một điểm linh hoạt hơn thị tr ường tập trung là nó cho
phép giao dịch các trái phiếu niêm yết và không niêm yết.
Việc giao dịch được thực hiện bởi các công ty chứng khoán
4. Chức năng của TTTPCP:
Thị trường tài chính có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế của một quốc
gia, nhất là đối với các quốc gia có nền kinh t ế v ận hành theo c ơ ch ế th ị tr ường. Thông
qua thị trường tài chính, Chính phủ và các doanh nghi ệp có th ể thu hút đ ược các ngu ồn
vốn nhàn rỗi trong xã hội để thực hiện đầu tư vào các mục đích c ụ th ể c ủa mình. Th ị
trường TPCP là một bộ phận cơ bản của thị trường tài chính; có thể nh ận thấy ch ức
năng của thị trường TPCP trong nền kinh tế thể hiện ở các mặt sau đây:
-Thứ nhất, thị trường TPCP có chức năng huy động và phân bổ các nguồn vốn.
Bởi vì, TPCP vừa tham gia vào thị trường tiền tệ (tín phiếu kho b ạc), v ừa tham gia
vào thị trường vốn (trái phiếu kho bạc). Như vậy, thị tr ường TPCP là m ột b ộ ph ận c ủa
thị trường tài chính, là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán, trao đ ổi các lo ại TPCP
nhằm thoảmãn các nhu cầu về vốn đầu tư của các chủ thể trong xã hội.
-Thứ hai, các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hay các n ước đang phát tri ển
đều có thị trường TPCP để huy động vốn cho đầu t ư phát tri ển, thị tr ường TPCP đ ược
coi là một công cụ quan trọng của Chính phủ để thực hi ện chính sách tài khoá và chính
sách tiền tệ quốc gia. TPCP phát hành có nhiều loại kỳ hạn khác nhau, m ỗi lo ại TPCP
lại có một tác động nhất định đến nền kinh tế.


Bên cạnh đó, cùng với việc phát hành TPCP của các c ơ quan thuộc Chính ph ủ và các
chính quyền địa phương đã góp phần làm phong phú khả năng huy đ ộng v ốn cho đ ầu
tư phát triển và tạo hàng hoá cho thị trường vốn. Phát tri ển th ị tr ường TPCP chính là
một trong những giải pháp quan trọng để thu hút các nguồn l ực tài chính cho các m ục
tiêu phát triển của quốc gia. Điều này đã khẳng định vị trí c ủa TPCP và th ị tr ường TPCP

trong việc phát triển kinh tế; nó không chỉ đơn thuần là công c ụ huy đ ộng v ốn mà còn
là công cụ để điều chỉnh nền kinh tế. Bởi vì thế mà hầu hết các n ước đ ều quan tâm
đến việc phát triển thị trường TPCP.
5. Vai Trò của TTTPCP:
Thị trường TPCP là một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính, là một công c ụ
hữu hiệu của Chính phủ trong quá trình điều hành vĩ mô nền kinh tế; có th ể nhận thấy
vai trò quan trọng của thị trường TPCP, thểhiện qua các mặt sau:
-Thứ nhất, thị trường TPCP có vai trò khuyến khích tiết ki ệm và thu hút các ngu ồn
vốn đầu tư trong xã hội. Nhà nước sử dụng thị trường TPCP để huy động vốn cho
NSNN và cho đầu tư phát triển. Thông qua phát hành TPCP ra th ị trường sẽ t ạo đi ều
kiện cho các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư có nhi ều c ơ hội đ ầu t ư; pháttri ển th ị
trường TPCP thông qua việc cung cấp các hàng hoá cho thị trường sẽ góp ph ần, t ạo
thói quen đầu tư, kinh doanh chứng khoán, thúc đẩy sự hình thành và phát tri ển các
định chế tài chính trung gian (các công ty chứng khoán, các quỹđầu tư,...
Thị trường TPCP là nơi khơi thông các nguồn vốn trong xã hội, tạo đi ều kiện tích t ụ các
nguồn vốn nhỏ thành nguồn vốn lớn, biến nguồn vốn ngắn hạn thành nguồn vốn dài
hạn.
-Thứ hai, thị trường TPCP là nơi định giá các TPCP phát hành l ần đầu và định giá l ại
các trái phiếu trên thị trường thứ cấp. Lãi suất TPCP chịu ảnh hưởng l ớn t ừ quan h ệ
cung và cầu TPCP trên thị trường.
Khi cung, cầu trái phiếu thay đổi làm cho lãi suất cân b ằng thay đ ổi. Lãi su ất TPCP
mới phát hành tương đương với lãi suất chiết khấu dùng để tính giá tr ịhi ện hành c ủa
loại TPCP đang lưu thông có cùng đặc điểm về kỳ trả lãi và thời h ạn đáo h ạn; v ới đ ặc
điểm này, thị trường TPCP có
vai trò định giá trái phiếu trên thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
-Thứ ba, thị trường TPCP góp phần điều chỉnh quan hệ cung cầu tiền tệ.
Trên thị trường TPCP, việc điều chỉnh quan hệ cung cầu còn có vai trò c ủa Chính ph ủ
với tư cách là chủ thểphát hành. Thị trường TPCP là m ột công c ụ h ữu hi ệu c ủa Nhà
nước trong việc điều chỉnh quan hệ cung cầu thị trường để thực thi chính sách tài
chính tiền tệ; thiết lập và điều hành hoạt động thị trường mở để điều ch ỉnh kh ối

lượng tiền cung ứng trong lưu thông, góp phần kiểm soát và hạn chếlạm phát.
-Thứ tư, Chính phủ các nước trên thế giới đều sử dụng thị trường TPCP để huy
động vốn cho đầu tư phát triển và coi đây là một công c ụ quan tr ọng trong vi ệc đi ều
hành chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ quốc gia.
TPCP gồm có nhiều loại, nhiều kỳ hạn khác nhau, mỗi loại l ại có m ột tác đ ộng nh ất
định đến quá trình phát triển của nền kinh tế trong từng giai đo ạn. Thông qua th ị
trường TPCP, Chính phủ các nước sẽ thu hút được các nguồn l ực tài chính cho các m ục
tiêu phát triển của quốc gia.
Trái phiếu Chính phủ là một trong những công cụ huy động vốn c ủa Chính ph ủ;
trong trường hợp NSNN không bị thâm hụt, Bộ Tài chính vẫn phát hành tín phi ếu kho
bạc với mục đích là để thực hiện chính sách tiền tệ. TPCP trung và dài h ạn đáp ứng đ ủ
các yêu cầu kỹ thuật được niêm yết tại TTGDCK; bên c ạnh đó TPKB, trái phi ếu chính


quyền địa phương, trái phiếu do các cơ quan Chính phủ phát hành đã góp ph ần làm
phong phú các công cụ nợ trên thị trường tài chính.
 Tóm lại, qua việc phát hành TPCP để huy động vốn cho NSNN và cho đ ầu t ư phát
triển kinh tế, đã khẳng định vai trò của TPCP và thị tr ường TPCP trong quá trình
phát triển kinh tế. TPCP và thị trường TPCP không những là các công c ụ huy đ ộng
vốn, mà còn là công cụ đểđiều chỉnh vĩ mô nền kinh tế. Trong xu th ế h ội nh ập và
mở cửa nền kinh tế, huy động các nguồn vốn thông qua phát hành TPCP và phát
triển thị trường TPCP ngày càng được nhiều Chính phủ quan tâm bởi nh ững tác
động tích cực của thị trường TPCP đến quá trình phát triển kinh t ế; cùng v ới quá
trình tự do hoá thị trường vốn trong nước, thì vi ệc phát hành TPCP và phát tri ển
thị trường TPCP sẽ thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư n ước ngoài tham
gia vào thị trường này. Ngoài ra, sự luân chuyển các luồng vốn trên thị trường TPCP
có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường tài chính.

IV. Thị trường trái phiếu công ty:
1. Trái phiếu công ty:

Được phân loại căn cứ vào chủ thể phát hành trái phiếu.
a) Khái niệm:
Là chứng khoán nợ do các công ty phát hành v ới mục đích huy đ ộng v ốn cho đ ầu t ư
phát triển. Các công ty phát hành trái phiếu khi muốn huy động m ột s ố vốn lớn và có
tính chất dài hạn, khi đó công ty là người đi vay và cam k ết tr ả cho ng ười mua trái
phiếu công ty cả gốc và lãi theo những quy định trong hợp đồng phát hành trái phi ếu.
Để quyết định việc phát hành trái phiếu công ty cần căn cứ vào các nhân t ố: tình
hình của công ty, tình hình thị trường, tình hình lãi su ất ngân hàng, tính ch ất c ủa d ự án
đầu tư.
b) Các loại trái phiếu công ty:
Trái phiếu công ty có rất nhiều loại, tùy thuộc vào đi ều ki ện, s ự tính toán c ủa công
ty có thể lựa chọn một trong những loại trái phiếu đặc trưng sau để phát hành:


Trái phiếu thế chấp (mortagage bonds) còn gọi là trái phi ếu b ảo đ ảm: là lo ại
trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một l ượng tài sản t ương ứng ký thác t ại
cơ quan ủy thác để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. Tài
sản thế chấp có thể là nhà máy, thiết bị, chứng khoán (cổ phi ếu c ủa công ty mua
của công ty khác, TPCP, TPCQĐP) do công ty nắm giữ. Trái phi ếu thế chấp là lo ại
được xếp hạng bảo vệ cao, có hai loại:


Trái phiếu đóng: loại này không cho phép công ty phát hàng b ất kỳ m ột
loại chứng khoán bổ sung nào đối với những tài sản đã thế chấp.




Trái phiếu mở: loại này cho phép công ty phát hành ch ứng khoán b ổ sung
đối với tài sản đã thế chấp theo tỷ lệ qui định. Loại này th ường có lãi

suất cao hơn so với trái phiếu thế chấp đóng.



Trái phiếu tín chấp hay còn gọi là trái phiếu không bảo đảm (unsecured bonds):
là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tín của công ty để phát hành, công ty không đ ưa
một tài sản gì ra làm vật đảm bảo. Loại này chỉ có các công ty l ớn, có danh ti ếng,
uy tín mới phát hành.



Trái phiếu chuyển đổi (convertible bonds): là loại trái phiếu mà khi phát hành
có kiềm điều khoản cho phép người sở hữu trái phi ếu đặc quy ền, đ ược đ ổi
sang một số lượng nhất định cổ phiếu thường với chỉ số và thời gian chuyển đổi
đã được xác định. Đây là loại trái phiếu rất hấp dẫn và d ễ bán h ơn, th ường
được nhiều công ty cổ phần áp dụng.



Trái phiếu thu nhập (income bonds): là loại trái phi ếu mà l ợi t ức đ ược tr ả tùy
thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao h ơn lãi suất ghi trên trái phi ếu.
Đây là loại chứng khoán lai tạp gi ữa trái phi ếu và c ổ phi ếu th ường, nó có ph ần
ưu tiên về lợi nhuận hơn cổ phiếu có nghĩa là trái chủ nhận được lãi tr ước khi
cổ đông nhận cổ tức.



Trái phiếu lãi suất chiết khấu (coupon bonds): là loại trái phi ếu đ ược tr ả lãi
ngay khi phát hành, được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu.




Trái phiếu lãi suất thả nổi (floating rate bonds): là loại trái phi ếu có lãi su ất
được điều chỉnh theo từng thời không kỳ cho phù hợp v ới lãi su ất trên th ị
trường (lãi suất tín dụng) hoặc bị chi phối bởi giá, ch ẳng h ạn nh ư ch ỉ s ố bán l ẻ.
Đây là loại trái phiếu được bảo hiểm, chống lại đ ược phần nào l ạm phát và s ự
gia tăng của lãi suất tín dụng ngân hàng. Như vậy, công ty phát hành và nh ưng
người đầu tư có thể được bảo vệ phần nào trước rủi ro lãi suất.



Trái phiếu có thể thu hồi (callable bonds): là trái phiếu có quy đ ịnh đi ều kho ản
cho phép công ty mua lại trái phiếu trước khi đến hạn, th ường theo giá “gia tăng
để giảm bớt nợ”.
c) Đặc điểm của trái phiếu công ty:

Người phát hành là các doanh nghiệp.
Người mua trái phiếu là người cho các doanh nghiệp tiến hành vay ti ền và là
chủ nợ của doanh nghiệp phát hành trái phiếu. Người mua trái phi ếu khác hoàn
toàn với người sở hữu cổ phiếu của một doanh nghiệp.
 Thu nhập từ trái phiếu là tiền lãi, khoản thu cố định không phụ thuộc vào kết
quả kinh doanh sản xuất của doanh nghiệp.
 Trái phiếu là khoản nợ bắt buộc phải thanh toán, do đó các doanh nghi ệp
muốn giải thể hoặc tuyên bố phá sản phải hoàn tất các khoản nợ này theo quy
định của pháp luật.
 Trái phiếu mang tính ổn định và độ rủi ro không quá lớn nhưng lại không có
quyền điều hành và kiểm soát công ty như cổ phiếu.
1. Tại sao trái phiếu công ty được phát hành:
 So với việc đi vay ngân hàng dù có lãi suất cao hơn nhưng bù lại trái phi ếu đem
lại khả năng huy động vốn nhanh hơn và phù hợp với nhu c ầu sử dụng trong

thời gian ngắn. Đem lại hiệu quả xoay vòng vốn tốt hơn cho doanh nghiệp.




Khi phát hành trái phiếu các doanh nghiệp có thể gi ải ngân ngay l ập t ức đ ể tr ả
lợi cho người sở hữu thay vì phải trả từng đợt như đối với vay ngân hàng.
 Doanh nghiệp có thể tự chủ trong thời gian trả lãi suất với vi ệc phát hành trái
phiếu thời gian ngắn hay thời gian dài tùy thuộc vào khả năng kinh t ế của mình.
2. Thị trường trái phiếu công ty (TTTPCT):
a) Khái niệm:
TTTPCT là nơi diễn ra các giao dịch mua bán trao đổi TPDN, nhằm thỏa mãn nhu
cầu của các đối tượng tham gia trên thị trường, đồng thời nó là một bộ phận
của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang
nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn
vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế.


b) Đặc điểm, phân loại TTTPDN:
*Thị trường sơ cấp:
Là nơi diễn ra quá trình mua bán lần đầu các chứng khoán mới phát hành. Thị
trường sơ cấp còn được gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Thực hiện
chức năng quan trọng nhất của TTCK, đó là huy động vốn cho đầu tư. Thị trường sơ
cấp có khả năng thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước; các nguồn vốn tạm thời nhàn
rỗi từ các DN, các tổ chức tài chính, chính phủ tạo thành một nguồn vốn to lớn tài trợ
cho DN, mà các phương thức khác khó có thể đáp ứng.
*Thị trường thứ cấp:
Là nơi mua đi bán lại các loại TP, giúp tạo tính thanh khoản cho các loại TP. Tính
thanh khoản của thị trường thứ cấp càng cao thì sự quan tâm của người đầu tư đối với
TTTP sẽ tăng lên. Đây là điều kiện tốt để phát triển thị truờng phát hành TP.

Thị trường thứ cấp bao gồm:
Thị trường tập trung: Là thị trường mà các loại TP được giao dịch theo
phương thức khớp lệnh hoặc thỏa thuận tại một địa điểm tập trung là
Sở giao dịch chứng khoán.
 Thị trường phi tập trung (OTC): Là thị trường mà không có địa điểm cụ
thể, TP chỉ được giao dịch trực tiếp thông qua các nhà môi giới TP.
Tuy nhiên trên thực tế các nước, giá trị TP được giao dịch trên thị trường OTC đóng
vai trò quan trọng (gấp 2 lần khối lượng được giao dịch tại Sở giao dịch).


Lý do dẫn đến vấn đề trên là do có nhiều loại TP được phát hành nên điều kiện kỹ
thuật không cho phép có thể niêm yết toàn bộ trên Sở giao dịch.Bên cạnh đó, việc giao
dịch tại Sở giao dịch cũng hết sức cần thiết vì nó đóng vai trò tạo lãi suất chuẩn và
đường cong lãi suất cho thị trường. Thêm vào đó, tại Sở giao dịch có hệ thống báo giá
qua lãi suất, tạo điều kiện cho người đầu tư dễ dàng so sánh các công cụ tài chính có
cùng thời hạn. Khác với thị trường OTC, tại đây các nhà đầu tư không phải tìm đối tác,
giảm chi phí giao dịch và giá cả sẽ không bị bóp méo.
*Mối liên hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp:
Thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của thị trường
thứ cấp vì đó là nơi cung cấp hàng hóa TP trên thị trường thứ cấp.
Ngược lại, thị trường thứ cấp đến lượt nó là động lực, là điều kiện cho sự phát triển
của thị trường sơ cấp, vì một khi TP đã được phát hành ra trên thị trường, nếu không
có một thị trường thứ cấp để lưu hành, mua bán, trao đổi tạo ra tính thanh khoản cho
TP thì thật khó có thể thuyết phục nhà đầu tư bỏ tiền ra mua TP. Chính việc mua bán


giao dịch TP trên thị trường thứ cấp làm tăng tốc dòng vốn đầu tư, các nhà đầu tư có
thể chuyển từ TP thành tiền mặt.
c) Vai trò của TTTPCT:
Đối với sự phát triển của nền kinh tế:

Trước hết, đứng trên góc độ quản lý vĩ mô, TTTPCT có tác dụng phân tán sự tập
trung vào hệ thống NH bằng cách đa dạng hóa các rủi ro tín dụng trong nền kinh tế và
góp phần tạo một nguồn cung cấp tín dụng khác cho các DN. Gánh nặng của các NH
được giảm bớt và rủi ro của hoạt động cho vay đã được san sẻ phần nào sang một lực
lượng người cho vay đông đảo – những nhà đầu tư TP trên thị trường. Từ đó, TTTPDN
có thể thu hút được những khoản vốn manh nha, nhàn rỗi trên thị trường để đáp ứng
được những dự án có nhu cầu vốn lớn với mức rủi ro được phân tán.


Thứ hai, TTTPCT phát triển sẽ trở thành một trong những công cụ điều tiết
nguồn vốn trung dài hạn ở tầm vĩ mô, góp phần nâng cao hiệu quả của việc phân phối
và tái phân phối các nguồn lực tài chính trong nền kinh tế. Để làm được điều này thì
cần phải có một thị trường thứ cấp về TPCT phát triển. Khi đó, nguồn cung và cầu vốn
sẽ dễ dàng gặp nhau, hạn chế được những rắc rối về phía các NH do không kiểm soát
được nguồn vốn cho vay trong điều kiện dư thừa vốn; và khi thị trường đang khan
hiếm vốn thì các NH lại không đủ sức giải ngân hết tất cả các khoản vay từ đó có thể
bỏ lở những cơ hội đầu tư tốt.
Thứ ba, phát triển TTTPCT là việc làm cần thiết giúp thỏa mãn nhu cầu giao dịch,
trao đổi, mua bán của những đối tượng tham gia, sở hữu nhằm nâng cao tính thanh
khoản của TP góp phần làm tăng tốc dòng tiền cho nền kinh tế. Từ đó, giúp TP trở nên
hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư. Mặt khác, thông qua kênh huy động vốn này các nhà
đầu tư cũng như người cần vốn có thể lựa chọn phương thức vay hay cho vay phù hợp
với mình nhất.
Bên cạnh đó, việc phát triển TTTPCT góp phần làm giảm nguy cơ khủng hoảng cán
cân nợ giúp nền kinh tế phát triển bền vững hơn. Việc phát hành TPCT giúp làm tăng
giá trị các khoản nợ huy động được trên các thị trường nội địa, hạn chế bớt việc đi vay
nước ngoài từ đó hạn chế được sự ảnh hưởng của những biến động tỷ giá hối đoái.
 Đối với các DN phát hành:
DN có thể thông qua TTTP để huy động vốn từ đông đảo công chúng đầu tư với
thời hạn vay đa dạng, đặc biệt là thích hợp với những dự án đầu tư trung dài hạn, với

chi phí đi vay thấp hơn so với các khoản vay NH. Đối với các dự án đầu tư dài hạn, DN
phải chi ra một lượng vốn lớn trong thời gian dài. Tuy nhiên, các NHTM do một số điều
kiện hạn chế nên khó có thể đáp ứng được nhu cầu vốn dài hạn lớn như vậy. Khắc
phục hạn chế trên, TTTP có thể đáp ứng nhu cầu này của DN. Việc tài trợ vốn bằng
cách phát hành TP không bị hạn chế về quy mô, tức DN có thể huy động một số vốn
lớn bất kỳ nào đó nếu có nhu cầu, với điều kiện DN phát hành phải thuyết phục bằng
một phương án sử dụng số vốn huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả
năng hoàn trả lãi, vốn gốc khi đáo hạn. Điều này có thể giúp DN thực hiện kịp thời và
đầy đủ những dự án, kế hoạch của mình. Chính việc này còn đòi hỏi DN phải
không ngừng củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng cao tính cạnh tranh và hiệu quả
kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với những người đầu tư. Đây tuy là tác
động gián tiếp của TTTPCT nhưng có ý nghĩa rất tích cực đối với hoạt động và sự phát
triển của các DN nói riêng và của nền kinh tế nói chung.


 Đối với nhà đầu tư:
TTTPCT còn là nơi cung cấp các sản phẩm đầu tư dài hạn. Theo cấu trúc thời hạn
của lãi suất, những khoản đầu tư có thời hạn càng dài thì lãi suất yêu cầu đối với nó
càng cao và ngược lại. Đặc biệt, trong điều kiện TTCK và thị trường tín dụng gặp nhiều
“sóng gió” thì TTTP CT được xem như là nơi trú ngụ an toàn nhằm giảm sự tác động từ
những “cơn bão” đó.
Các nhà đầu tư có thể đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình khi chọn đầu tư vào
TTTPCT. Từ đó, mang lại cho nhà đầu tư thu nhập ổn định, ít rủi ro. Khi đầu tư vào
thị trường trái DN, người đầu tư trở thành chủ nợ của công ty phát hành TP. Cho nên
các nhà đầu tư sẽ được DN trả lãi TP cho dù tình trạng kinh doanh ra sao.
 Đối với TTCK và thị trường tiền tệ:
TTTPCT đã làm đa dạng hóa hình thức huy động vốn trên TTCK, tránh tình trạng
quá tập trung vào TTCP gây mất thế cân bằng giữa thị trường vốn và thị trường nợ trên
TTCK. Hơn thế nữa, nó còn là một công cụ tài chính hữu hiệu nhất trong việc
“nối” TTCK với thị trường tiền tệ - tín dụng trong vai trò “chạy tiếp sức” và làm tăng

tính thanh khoản cho TTCK. Thúc đẩy cả TTCK và thị trường tiền tệ phát triển mạnh
tránh tình trạng mất cân giữa hai thị trường. Ngoài việc giúp tạo thế cân bằng giữa các
thị trường, nó còn làm giảm bớt áp lực lên TTCP và tín dụng, đặc biệt khi những thị
trường này gặp nhiều biến động như trong thời gian gần đây.
V. Nghiên cứu về thị trường công cụ nợ tại Việt Nam:
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, nhu cầu về vốn luôn là vấn đề
quan trọng được ưu tiên hang đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Và với
một nền kinh tế đang chuyển đổi như Việt Nam, nhu cầu vốn phát triển tăng dần qua
các năm thì thị trường các công cụ nợ đã thể hiện được tầm quan trọng của mình trong
việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng làm cho các dòng vốn dược lưu
thông một cách hiệu quả nhất. Các công cụ nợ chính chủ yếu lưu thông trên thị trường
Việt Nam bao gồm:
1. Tín phiếu kho bạc (T-bill):
a) Khái niệm:
- Tín phiếu kho ssbạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do Bộ Tài chính (Kho bạc) phát
hành để tài trợ cho những khoản chi tiêu tức thời, các thâm hụt ngắn hạn thường
xuyên của chính phủ hoặc tài trợ các khoản nợ đến hạn.
b) Kỳ hạn thanh toán:
- Tín phiếu kho bạc có kỳ hạn thanh toán khoảng 1 năm hoặc ngắn hơn (thông
thường có các kỳ hạn 3,6, 12 tháng).Tín phiếu kho bạc được bán theo định kỳ hàng
tuần (Regular weekly T-bills) thường được phát hàn với thời hạn là 28 ngày
( tương
đương 4 tuần hoặc 1 tháng), 91 ngày (tương đương 13 tuần hoặc 3 tháng), 182
ngày
(26 tuần hoặc 6 tháng), 364 ngày (52 tuần hoặc 1 năm) thông qua các cuộc đấu giá
đơn giá được tổ chức hàng tuần.


c) Đặc điểm:
- Tín phiếu kho bạc phát hành theo từng lô qua Ngân hàng Nhà nước được thực

hiện dưới hình thức đấu thầu (Ngân hàng nhà nước đứng ra làm cơ quan tổ chức
bán số tín phiếu ấy ra ngoài thông qua thị trường mở dưới hình thức đấu thầu).
- Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đại lý cho Bộ Tài chính trong việc phát hành,
thanh toán tín phiếu khi đến hạn, tổ chức và quản lý đấu thầu tín phiếu Kho bạc.
- Việc tổ chức và giám sát thị trường thứ cấp (mua bán lại tín phiếu sau khi đấu
thầu) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện.
- Tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu có
hình thức và đặc điểm như sau:
 Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Giống như trái phiếu
chiết khấu, đây là loại chứng khoán không được nhà phát hành trả lãi trước khi
đáo hạn (interest prior to maturity) song lại được bán với giá chi ết khấu tức là giá
thấp hơn mệnh giá (par value hay face value). Khi đáo hạn, nhà đầu t ư được nhận
lại đủ mệnh giá vì vậy phần chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua
chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tư (lợi tức tính đến ngày đáo hạn (Yield To
Maturity). Lợi tức chiết khấu được tính theo công thức: Lợi tức chiết khấu (%) =
(Mệnh giá – Giá bán)/Giá bán * (360/Số ngày đến khi đáo hạn)* 100%
 Thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000
đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ thể cao hơn do Liên Bộ Ngân hàng Nhà
nước - Tài chính quy định và công bố trong thông báo phát hành
 Tín phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu.
Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và
quản lý sổ sách.
 Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo
mẫu do Bộ Tài chính quy định.
 Việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu lãi suất.
- Tín phiếu Kho bạc đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo
những nguyên tắc sau:
 Bí mật mọi thông tin đấu thầu trước khi công bố kết quả đấu thầu.
 Tổ chức đấu thầu công khai , bình đẳng về mọi quyền lợi và nghĩa vụ giữa
các đơn vị đấu thầu.

 Đơn vị trúng đấu thầu có quyền hạn và trách nhiệm mua tín phiếu theo
khối lượng và lãi suất trúng thầu được thông báo.
 Các Đối tượng tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc bao gồm:
 Các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam: Các Ngân hàng thương
mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng đầu tư
và phát triển;
 Ngân hàng liên doanh;
 Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và các Công ty tài chính;
 Các Công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư
- Ngoài khối lượng tín phiếu Kho bạc được phát hành qua Ngân hàng Nhà nước,
Bộ
Tài chính còn được tiếp tục phát hành một khối lượng nhất định tín phiếu Kho
bạc để bán lẻ trực tiếp cho dân chúng. Các loại tín phiếu Kho bạc do hệ thống
Kho bạc trực tiếp phát hành phải có mẫu chứng chỉ khác với mẫu chứng chỉ tín
phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu.



2. Kỳ phiếu thương mại (Thương phiếu)
- Trước đây, thương phiếu chủ yếu dùng trong thanh toán quốc tế, ít được
dùng trong thương mại nội địa.
a) Thực trạng cơ sở pháp lý:
 Hiện nay nguồn luật điều chỉnh hoạt động trên thị trường thương phiếu
là Luật các công cụ chuyển nhượng, được Quốc hội ban hành ngày
29/11/2005, Luật các Tổ chức tín dụng, ban hành ngày 29/6/2010; Luật
Ngân hàng Nhà nước, ban hành ngày 29/6/2010…
b) Chủ thể tham gia phát triển thị trường thương phiếu trong hoạt động
thương mại:
 Do thương phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong thương mại nội địa


mà mới chỉ sử dụng chủ yếu trong quan hệ thương mại quốc tế, cho nên
các chủ
thể tham gia thị trường thương phiếu trong hoạt động thương mại ở
Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các
ngân hàng
thương mại.
 Trong hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
quan hệ hối phiếu với tư cách là người ký phát, người thụ hưởng khi là
người
xuất khẩu, là người bị ký phát khi là người nhập khẩu. Trong quan hệ kỳ
phiếu,
các doanh nghiệp Việt Nam tham gia với tư cách là người thụ hưởng khi

người xuất khẩu, là người phát hành khi là người nhập khẩu.
 Các ngân hàng thương mại Việt Nam là chủ thể của thị trường thương
phiếu, là người trả tiền khi giữ vai trò là ngân hàng phát hành L/C, là
người thụ
hưởng khi chiết khấu thương phiếu, là người cho vay khi nhận cầm cố
thương
phiếu, là người bảo lãnh, chấp nhận khi tiến hành bảo lãnh và chấp
nhận thanh
toán thương phiếu, là người nhận ủy thác khi thực hiện phương thức
thanh toán
nhờ thu.
3. Hợp đồng mua lại:
- Trên thế giới các hợp đồng Repo gần như thay thế các khoản cho vay của
ngân hàng trung ương. Và ở Việt Nam, các thành viên trên thị trường tiền tệ
đã sử dụng các hợp đồng mua lại trong quan hệ vay mượn nhau. Nhưng chỉ
từ tháng 7 năm 2000, các hợp đồng mua lại và mua lại đảo ngược bắt đầu
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng là một trong các công cụ điều

hành CSTT (nghiệp vụ thị trường mở). Đến nay, công cụ này đã ngày càng
phát huy vai trò là một công cụ chủ yếu nhằm điều tiết tiền tệ của các
TCTD.
-

Tại Việt Nam, các loại hợp đồng mua lại có 3 loại thời gian đáo hạn: qua
đêm, theo định kỳ và đáo hạn mở.
 Đáo hạn qua đêm có thời gian đáo hạn của việc chuyển giao là 1 ngày.


Đáo hạn theo định kỳ ứng với hợp đồng mua lại có ngày đáo hạn nhất
định được định sẵn.
 Đáo hạn mở không có ngày kết thúc hợp đồng.
- Mặc dù hợp đồng đáo hạn thông thường là trong ngắn hạn (thường không
quá 2 tuần), nhưng cũng có những hợp đồng đáo hạn với thời hạn khoảng 2
năm. Việc giao dịch hợp đồng đáo hạn thường xảy ra dưới các dạng sau:
cung ứng trên danh nghĩa, hợp đồng đáo hạn qua đêm và hợp đồng đáo hạn
được uỷ thác trong đó loại thứ 3 khá ít thấy trong những thị trường đang
phát triển vì rủi ro cao.
- Các loại hợp đồng mua lại
 Hợp đồng mua lại được giám hộ (Due bills, held in custody bills)
Trong hợp đồng mua lại được uỷ thác, vật thế chấp được cầm cố bởi
người mua không trực tiếp được chuyển giao tới người cho vay mà
được chuyển vào một tài khoản nội bộ (held in custody) bởi người đi
vay dành cho người cho vay trong suốt quá trình của hợp đồng. Tuy
nhiên khi thị trường càng phát triển thì hình thức này ngày càng ít trở
nên phổ biến.
 Hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 ( Tri-party Repo):
 Đặc trưng của hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3
đó chính là có sự tham gia của 1 ngân hàng hoặc tổ chức quốc

tế đóng vai trò là người giám hộ, như một trung gian giữa 2
bên của hợp đồng (bên bán và bên mua). Trách nhiệm của bên
thứ 3 là quản lý việc chuyển giao bao gồm việc phân phối tài
sản thế chấp, đưa ra thị trường và thay thế vật thế chấp.
 Hợp đồng mua lại toàn bộ khoản vay Hợp đồng mua lại toàn bộ
khoản vay là loại hợp đồng mua lại mà sự chuyển giao được thế chấp
bằng 1 khoản vay hoặc 1 nghĩa vụ khác (như văn tự cầm cố) hơn là
dùng chứng khoán để thế chấp
 Hợp đồng mua lại vốn khoán được ưu tiên sử dụng trong việc thực
hiện hợp đồng mua lại hầu hết là ở dạng trái phiếu chính phủ hoặc
trái phiếu công ty (hoặc tín phiếu Kho bạc).
4. Trái phiếu:
a) Các phương thức phát hành trái phiếu VN hiện nay
- Phát hành thông qua hình thức bảo lãnh phát hành: bao gồm các hình thức bảo
lãnh từng phần, đồng bảo lãnh, tổ hợp bảo lãnh và bảo lãnh toàn bộ.
- Phát hành thông qua Đại lý phát hành.
- Phát hành thông qua phương thức đấu thầu: Đấu thầu cạnh tranh lãi suất và
không cạnh tranh lãi suất.
b) Bảo lãnh phát hành: là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực
hiện các
thủ tục trước khi phát hành trái phiếu ra thị trường chứng khoán, phân phối trái
phiếu cho các nhà đầu tư, nhận mua trái phiếu để bán lại hoặc mua số trái phiếu
còn lại chưa phân phối hết.


- Đại lý phát hành: là việc tổ chức phát hành uỷ thác cho các tổ chức khác thực
hiện bán trái phiếu cho các nhà đầu tư. Trường hợp không bán hết, tổ chức đại lý
phát hành được trả lại số trái phiếu còn lại cho tổ chức phát hành.



c) Trái phiếu chính phủ: an toàn nhưng tính thanh khoản và lợi nhuận
thấp.
- Trong tất cả các loại trái phiếu (TP) đã được phát hành và mua bán tại Việt
Nam: trái phiếu Chính phủ và Tín phiếu Kho bạc, TP chính quyền địa phương và TP
doanh nghiệp thì khối lương TP Chính phủ chiếm ưu thế trên thị trường, khoảng
81% thị phần.
- Tuy nhiên, thị trườngTPCP thiếu một cơ chế giao dịch có khả năng cung cấp
thanh khoản cho các TP Chính phỉ như các nhà tạo lập thị trường, hợp đồng mua
lại TPCP phát hành với khối lượng và giá niêm yết lớn, trong khi những người nắm
giữ TPCP trên thị trường sơ cấp1 là các nhà đầu tư có tổ chức (trừ các đợt phát
hành riêng rẻ qua hệ thống Kho bạc)
- Nhu cầu giao dịch phát sinh là các giao dịch lớn và ít mang tính tương thích thời
điểm, hạn chế tính thanh khoản của TP. Giao dịch trái phiếu chỉ tập trung vào các
TPCP phát hành qua bảo lãnh, trong khi đó có rất nhiều loại TP phát hành qua đấu
thầu tại Trung tâm giai dịch chứng khoán TPHCM vẫn chưa có giá tham chiếu,
nghĩa là chưa một lần được giao dịch trên thị trường kể từ khi phát hành.
- TPCP Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá khá cao. Một ví dụ
minh họa, tháng 10 năm 2005, lần đầu tiên TPCP Việt Nam được phát hành ra thị
trường vốn quốc tế. 750 triệu USD TP được các nhà đầu tư mua hết ngay trong
vòng 30 giây sau khi phát hành.
- Ở thị trường trong nước, Chính phủ Việt Nam cũng đã phát hành thành công
nhiều đợt TP theo phương thức đấu giá lãi suất. Tháng 3/2007, 300 tỷ đồng TP
Chính phủ lần đầu tiên được phát hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100,200,300 t ỷ
đồng) đã được các nhà đầu tư nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấ nhất trong
vòng 3 năm trở lại, đó là 6,8%/năm. Trong những đợt phát hành tiếp theo lãi su ất
TP cố định nhưng mệnh giá thay đổi.
- TPCP thực sự chưa cạnh tranh được với sự thuận tiện của hình thức tiết kiệm
đầu tư kỳ phiếu ở các Ngân hàng Thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn
nên chưa thu hút được tiền nhàn rôi của các tổ chức kinh tế và cá nhân.
 Nguyên nhân chính là mức phí giao dịch trên thị trường hiện còn khá

cao (khoảng 0,15% giá trị giao dịch) khiến cho các nhà đầu tư cá thể
không mặn mà với việc đầu tư qua phương thức giao dịch khớp lệnh2
vì lợi nhuận ròng sau khi trừ đi chi phí giao dịch không đủ hấp dẫn
các nhà đầu tư.
d) Trái phiếu Doanh nghiệp Việt Nam:
- Nghị định số 52/2006/NĐ-CP có hiệu lực ào ngày 1/7/2006 là một bước ngoạt
khá lớn đối với thị trường khi hành lang pháp lý được hoàn chỉnh, khơi thông hoạt
động phát hành TP riêng lẻ.
- Từ trước năm 2006, các Doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn dựa vào hai
nguồn chính là tín dụng ngân hàng và phát hành cổ phiếu, họ chỉ mới quan tâm đén
thị trường TP trong những năm gần đây.
- Trái phiếu là kênh huy động vốn tiềm năng của Doanh nghiệp VN. Trong năm
2011, cơ cấu nguồn vốn trung và dài ở khu vực ngân hàng chỉ chưa tới 15% tổng
nguồn. Các công cụ chuyển vốn ngắn thành dài hạn ở các NHTM Việt Nam cũng
hết sức hạn chế, và thực tế từ năm 2008, hệ thống NHTM luôn luôn trong tình
trạng khó khăn về thanh khoản. Những năm gần đây, thị trường TP Việt Nam đã có
những bước phát triển mạnh hơn. Tuy nhiên, thị trường trái phiếu nội địa thì TP
1
2


Chính phủ vẫn chiếm đa số, với quy mô chung đạt khoảng 16% GDP, trong đó TP
Chính phủ chiếm khoảng 13% GDP, TP công ty chỉ chiếm 3%GDP.
- Thị trường TP sơ cấp có dấu hiệu tăng mạnh cả về giá trị lẫn quy mô, từ năm
2010 tăng 49% so với 2009 và đạt quy mô trên 50.000 tỷ đồng. Nếu trước đây, các
công ty phát hành chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước lớn: Vinashin, Vinaconex,
Evn, Petro Việt Nam, ... thì sau này nhà phát hành đã có thêm các công ty c ổ ph ần
như: STB, SHB, Liên Việt Bank,...
- Theo Nghị định 52, chủ thể phát hành không gi ới hạn là các DNNN như trước mà
còn có cả các công ty TNHH, công ty Cổ phần và Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài với nguyên tắc phát hành là tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm và công khai
minh bạch thông tin.


×