Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Tác động của dự án duy trì và phát triển bền vững đến sinh kế của người dân vùng đệm vườn quốc gia tam đảo khu vực thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.83 KB, 71 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Môi trường họp tại
Reo de Janeirio, Braxin năm 1992, bảo vệ môi trường và phát triển
bền vững đã trở thành đặc trưng cơ bản của thời đại. “Phát triển bền
vững” được xem là một lựa chọn tối ưu, là mục tiêu hàng đầu trong
chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới trong điều kiện
hiện nay. Thoạt đầu, phát triển bền vững được nhấn mạnh như là sự
phát triển lâu dài dưới góc độ môi trường. Ngày nay, khái niệm này
được phân tích rộng hơn, bao gồm ba chiều hay nhằm đến 3 mục
tiêu chủ yếu là: Tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường và công
bằng xã hội. Như vậy, có thể hiểu “phát triển bền vững” là sự phát
triển mà trong đó, bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa mục tiêu kinh
tế, mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường.
Ngày nay, vấn đề môi trường ngày càng thu hút được sự quan
tâm của tất cả mọi thành phần trong xã hội vì nó ảnh hưởng trực
tiếp hàng ngày đến cuộc sống của vạn vật trên trái đất. Trái đất của
chúng ta đang nóng dần lên hàng ngày hàng giờ bởi chính các tác
động xấu của con người đến môi trường tự nhiên như việc chặt phá,
khai thác rừng trái phép, nước thải của các nhà máy chế biến không
qua xử lý theo đúng tiêu chuẩn, khí thải của nền sản xuất công
nghiệp trên toàn thế giới. Môi trường xấu đã tác động lại cuộc sống
của chính chúng ta như: Ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, lũ lụt, hạn
hán... Ở Việt Nam, Chính phủ và người dân cùng đã nhận thức
được tầm quan trọng phải bảo vệ môi trường sống cho chính bản
thân chúng ta và gìn giữ cho các thế hệ mai sau. Cùng với sự trợ
giúp của các tổ chức nước ngoài về kinh nghiệm, phương pháp kỹ
thuật và vốn, chính phủ Việt Nam và các ban ngành có liên quan đã
hợp sức cùng với người dân triển khai các dự án tại khu vực vùng




2

đệm nhằm duy trì và bảo tồn thiên nhiên, cải thiện môi trường sống,
nâng cao nhận thức và mức sống của người dân trong khu vực vùng
đệm, nhờ đó mà gián tiếp duy trì và bảo vệ các khu bảo tồn thiên
nhiên.
Rừng Quốc gia Tam Đảo được thành lập theo quyết định 136/
TTG ngày 06/03/1996 của Thủ tướng Chính phủ, nằm cách Hà Nội
khoảng 70 km về phía Bắc. Với tổng diện tích 34.995 ha và 15.515
ha vùng đệm. Đây là một trong những rừng Quốc gia lớn nhất ở
Việt Nam và và là vùng tự nhiên cuối cùng ở sát Hà Nội chưa bị
chuyển thành đất sử dụng cho nông nghiệp. Rừng Quốc gia Tam
Đảo cũng được biết đến với hệ sinh thái rất phong phú và đa dạng
cả về số lượng và chủng loại động thực vật trải khắp từ rừng nhiệt
đới rậm rạp của vùng Đông Nam Á, rừng có khí hậu ôn hoà của
miền Nam Trung Quốc và rừng vùng núi cao của miền đông dãy
Himalaya. Song việc khai thác tràn lan rừng quốc gia trong thời
gian qua và công tác quản lý chưa hiệu quả đã làm xói mòn đa dạng
sinh học và suy kiệt các nguồn lực rừng quốc gia, đặc biệt ở tầng
thực vật thấp. Có khoảng trên 200.000 người dân sinh sống trong
khu vực xung quanh Vườn Quốc gia Tam Đảo (vùng đệm). Phần
lớn người dân ở đây tạo thu nhập từ hoạt động nông nghiệp trong
khi đó vẫn sử dụng Vườn Quốc gia Tam Đảo như một nguồn cung
cấp thực phẩm, chất đốt, cây thuốc, nước uống, nước cho sản xuất
nông nghiệp và là nơi chăn thả gia súc. Trước tình hình đó, dự án
kéo dài trong 6 năm (bắt đầu từ năm 2003 đến 2009) về Quản lý
rừng Quốc gia và vùng đệm Tam Đảo (TamDao Management
Project) đã được thiết lập giữa Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức GTZ

(German

Agency

for

Technical

Cooperation

or Deutsche

Gesellschaft für Technische Zusammenarbeit), Bộ Nông nghiệp &
Phát triển Nông thôn, và ba tỉnh nằm trong vùng đệm bao gồm tỉnh
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Dự án Quản lý rừng


3

Quốc gia và vùng đệm Tam Đảo hướng tới phát triển phương pháp
quản lý hòa nhập và hợp tác cho rừng Quốc gia và các vùng đệm
cũng như giải quyết các vấn đề chính về bảo tồn môi trường thiên
nhiên như nhặt củi, săn bắn, và thu nhặt cây thuốc cũng như khai
thác quặng bất hợp pháp... Dự án nhằm mục tiêu hỗ trợ và phát
triển các sáng kiến, phương kế sinh nhai khác nhau cũng như các
hoạt động giáo dục và nâng cao ý thức trong cộng đồng, cùng với
các mục tiêu giảm nghèo. Dự án quản lý và bảo vệ vườn Quốc gia
Tam Đảo mang tính bền vững.
Việc xem xét và đánh giá tác động của dự án thuộc tổ chức
GTZ đang triển khai tại khu vực vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo

để thấy được và nhân rộng các hoạt động mang lại hiệu quả kinh tế,
xã hội và môi trường, rút kinh nghiệm các hoạt động kém hiệu quả
nhằm giúp người dân khu vực vùng đệm giảm bớt và dần dần loại
bỏ sự phụ thuộc vào việc khai thác các nguồn lợi tự nhiên để sinh
sống như: Khai thác gỗ, săn bắn, chăn thả gia súc, khai thác quặng,
đất đá... là hết sức cấp bách và cần thiết. Với mục đích duy trì và
phát triển bền vững Vườn Quốc gia Tam Đảo nên việc xem xét đến
hiệu quả của dự án GTZ triển khai tại khu vực vùng đệm là điều
kiện tiên quyết. Hơn thế nữa, hiện tại chưa có công trình nghiên cứu
khoa học nào thực hiện để đánh giá tác động cũng như hiệu quả của
dự án. Chính vì lý do đó, tác giả chọn nghiên cứu đề tài : “Tác
động của dự án duy trì và phát bền vững đến sinh kế của người
dân vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên”.

2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1 Mục tiêu chung


4

Thông qua phân tích đánh giá các hoạt động của dự án đã
được triển khai tại các xã vùng đệm, tác giả chỉ ra được các hoạt
động tích cực của dự án cần phát huy và nhân rộng, rút kinh nghiệm
các hoạt động triển khai không hiệu quả, đề xuất các giải pháp sử
dụng tối ưu để từng bước giúp người dân phát triển kinh tế, nâng
cao thu nhập, nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá, trính trị xã hội và
sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững cho
người dân khu vực vùng đệm.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Tìm hiểu các hoạt động thực tế của dự án đang được triển khai.

- Đánh giá sự ảnh hưởng của dự án đến sinh kế của người dân vùng
đệm vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên.
- Nghiên cứu, đưa ra những giải pháp để phát triển và sử dụng các
nguồn lực nói chung (nguồn lực tự nhiên, nguồn lực về con người,
nguồn lực về xã hội, nguồn lực tài chính) tại khu vực vùng đệm có
hiệu quả nhằm đảm bảo mục tiêu duy trì và phát triển bền vững
vườn quốc gia Tam Đảo.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
- Các hộ nông dân sinh sống trong khu vực vùng đệm của dự án.
- Môi trường tự nhiên và xã hội thuộc khu vực vùng đệm
- Các nguồn lực tại khu vực vùng đệm của dự án.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu trên phạm vi 03 xã là: Xã Cát Nê, xã
Văn Yên và xã Ký Phú thuộc huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ ngày 10/08/2008 đến ngày
20/06/2009
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá tính hiệu quả từ các hoạt
động của dự án, xem xét việc duy trì và phát triển các nguồn lực:


5

Nguồn lực tự nhiên, nguồn lực về con người, nguồn lực về xã hội,
nguồn lực về vật chất của các hộ gia đình, nguồn lực tài chính trên
địa bàn nghiên cứu. Từ việc nghiên cứu đó đề xuất các giải pháp để
sử dụng và phát triển bền vững các nguồn lực nói trên.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo luận văn

được chia thành 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tài liệu nghiên cứu và phương pháp nghiên
cứu
Chương 2: Thực trạng triển khai dự án GTZ tại khu vực nghiên cứu
Chương 3: Giải pháp chủ yếu nhằm duy trì và phát triển bền vững các
nguồn lực tại vùng đệm Vườn Quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên.

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.1 Cơ sở khoa học của đề tài nghiên cứu
1.1.1 Cơ sở lý luận của đề tài
1.1.1.1 Khái niệm phát triển bền vững


6

Phát triển bền vững là một khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc
khủng hoảng môi trường, do đó cho đến nay chưa có một định
nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Một số định nghĩa của Khoa học
Môi trường về phát triển bền vững:
- Năm 1992: Tại Rio de Janeiro, Brasil là nơi đăng cai tổ chức Hội
nghị thượng đỉnh về Trái Đất, tên chính thức là Hội nghị về Môi
trường và Phát triển của Liên hiệp quốc (UNCED). Tại đây, các đại
biểu tham gia đã thống nhất những nguyên tắc cơ bản và phát động
một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững có tên
Chương trình Nghị sự 21 (Agenda 21). Với sự tham gia của đại
diện hơn 200 nước trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức
phi chính phủ, hội nghị đã đưa ra bản Tuyên ngôn Rio về môi
trường và phát triển cũng như thông qua một số văn kiện như hiệp
định về sự đa dạng sinh học, bộ khung hiệp định về sự biến đổi khí

hậu,

quản

lý,

bảo

tồn

rừng.

Năm 2002: Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững
nhóm họp tại Johannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia
nhìn lại những việc đã làm 10 năm qua theo phương hướng mà
Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã vạch ra, tiếp tục
tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này
bao gồm xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc
thân thiện với môi trường nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm,
bảo vệ và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Hội nghị cũng
đề cập tới chủ đề toàn cầu hóa gắn với các vấn đề liên quan tới sức
khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia hội nghị
cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi
quốc gia trước năm 2005. Việt Nam cũng đã cam kết và bắt tay vào
hành động với Dự án VIE/01/021 "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện
Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam" bắt đầu vào tháng 11/2001
và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiền đề cho việc thực hiện


7


Vietnam Agenda 21.
-Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World
Commission and Environment and Development, WCED) thì “phát
triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà
không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng
các nhu cầu của họ”.
- Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu
các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại
cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (nguồn:
Gôdian và hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: Các nhu cầu
của con người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường
đáp ứng các nhu cầu hiện tại và tương lai của con người.
- Phát triển bền vững là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng
dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục
vụ cho nhu cầu của con người thế hệ hiện nay mà không làm hại
cho thế hệ mai sau (nguồn: Nguyễn Mạnh Huấn, Hoàng Đình PhuNhững vấn đề kinh tế –xã hội và văn hoá trong phát triển bền vững,
Hà Nội 3/1993, trang 17,18).
- Phát triển bền vững là mục tiêu của tăng trưởng kinh tế làm
giảm sự khai thác tài nguyên cho phát triển kinh tế, sự suy thoái
môi trường trong tương lai và làm giảm sự đói nghèo.
- Phát triển bền vững bao gồm sự thay đổi Công nghệ hiện đại,
Công nghệ sạch, Công nghệ có hiệu quả hơn nhằm tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên hoặc từ sản phẩm kinh tế – xã hội.
Muốn vậy, phải giải quyết các mâu thuẫn như sản xuất – nhu
cầu - tài nguyên thiên nhiên và phân phối, vốn đầu tư, cũng như
Công nghệ tiên tiến cho sản xuất.
- Các nước trên thế giới đều có điều kiện tự nhiên và tài
nguyên thiên nhiên; điều kiện kinh tế – xã hội khác nhau, đưa đến



8

hiện tượng có nước giàu và nước nghèo, nước công nghiệp phát
triển và nước nông nghiệp. Do đó, cần xem xét bốn vấn đề: con
người, kinh tế, môi trường và công nghệ, qua đó phân tích phát
triển bền vững và có đạt được mục tiêu phát triển bền vững.
-Về kinh tế, phát triển bền vững bao hàm việc cải thiện giáo
dục, chăm lo sức khoẻ cho phụ nữ và trẻ em, chăm lo sức khoẻ cho
cộng đồng, tạo ra sự công bằng về quyền sử dụng ruộng đất, đồng
thời xóa dần sự cách biệt về thu nhập cho mọi thành viên trong
cộng đồng xã hội.
-Về con người, để đảm bảo phát triển bền vững cần thiết nâng
cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người dân, nhờ vậy
người dân sẽ tích cực tham gia bảo vệ môi trường cho sự phát triển
bền vững. Muốn vậy phải đào tạo một đội ngũ các nhà giáo đủ về
số lượng, cũng như các thầy thuốc, các kỹ thuật viên, các chuyên
gia, các nhà khoa học trong mọi lĩnh vực của đời sống.
-Về môi trường, phát triển bền vững đòi hỏi phải sử dụng tài
nguyên như đất trồng, nguồn nước, khoáng sản… đồng thời, phải
chọn lựa kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng,
cũng như mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu của dân số tăng nhanh.
Phát triển bền vững đòi hỏi không làm thoái hoá các ao hồ,
sông ngòi, uy hiếp đời sống sinh vật hoang dã, không lạm dụng hoá
chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, không gây nhiễm độc
nguồn nước, không khí và lương thực.
-Về Công nghệ, phát triển bền vững là giảm thiểu tiêu thụ năng
lượng và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất,
áp dụng có hiệu quả các loại hình công nghệ sạch trong sản xuất.

Trong sản xuất công nghiệp cần đạt mục tiêu ít chất thải hoặc chất
gây ô nhiễm môi trường, tái sử dụng các chất thải, ngăn ngừa các
chất khí thải công nghiệp làm suy giảm tầng ozon bảo vệ trái đất.


9

- Phát triển bền vững và các mục tiêu phát triển kinh tế – xã
hội – văn hoá – môi trường. Mỗi mục tiêu phát triển có vị trí riêng
của nó, song nó được gắn với mục tiêu khác. Sự hoà nhập hài hoà
hữu cơ này tạo nên sự phát triển tối ưu cho cả nhu cầu hiện tại và
tương lai vì xã hội loài người.
Phát triển bền vững theo Brundtland
(Năm 1984: Đại hội đồng Liên hiệp quốc đã ủy nhiệm cho bà Gro
Harlem Brundtland, khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và
làm chủ tịch Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (World
Commission on Environment and Development-WCED), nay còn
được biết đến với tên Ủy ban Brundtland. Tới nay, ủy ban này đã
được ghi nhận có những công hiến rất giá trị cho việc đẩy mạnh sự
phát triển bền vững.)
Theo Ủy ban Brundtland: "Phát triển bền vững là sự phát
triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới
khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình
phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng
những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ
thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật
và thực vật. Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp
tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố
sinh thái mà còn đi vào các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa
sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ.

Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là
điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để
áp dụng khái niệm phát triển bền vững.
1.1.1.2 Xu hướng phát triển bền vững
“Phát triển bền vững” qua một số nghiên cứu ở Việt Nam


10

Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam
vào khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở
Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp
độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta
tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà
đầu tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường
tiến hành như "Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung
tâm tài nguyên và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công
trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm phát triển bền vững
theo báo cáo Brundtland như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên
bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn,
bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên
cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam
- giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường và phát triển bền vững,
Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên
cơ sở tham khảo bộ tiêu chí phát triển bền vững của Brundtland và
kinh nghiệm các nước: Trung Quốc, Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra
các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với một quốc gia là
bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng
thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát triển

bền vững cho Việt Nam. "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền
vững (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ
thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho
phát triển bền vững. Công trình này đã xác định phát triển bền vững
qua các tiêu chí: Bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững
văn hoá, đã tổng quan nhiều mô hình phát triển bền vững như mô
hình 3 vòng tròn kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs
và Sadler (1990), mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị,
hành chính, công nghệ, quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED (1987),


11

mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990),
mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường của ngân hàng
thế giới (World Bank).
Chủ đề này cũng được bàn luận sôi nổi trong giới khoa học
xã hội với các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ
và giải pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này,
tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm phát triển bền vững:
Phát triển xã hội, phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường, phát triển
chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là dự báo quốc tế về phát
triển.
1.1.1.2 Khái niệm sinh kế
- Sinh kế: Một sinh kế bao gồm năng lực tiềm tàng, tài sản (cửa
hàng, nguồn tài nguyên, đất đai, đường xá..) và các hoạt động cần
có để kiếm sống.
Kết quả của sinh kế là những thay đổi có lợi cho sinh
kế của cộng đồng. Nhờ các chiến lược sinh kế mang lại cụ thể là thu
nhập cao hơn, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, cuộc sống ổn

định hơn, giảm rủi ro, đảm bảo tốt hơn an toàn lương thực và sử
dụng bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Sinh kế bền vững: Một sinh kế được xem là bền vững khi nó phải
phát huy được tiềm năng của con người để từ đó sản xuất và duy trì
phượng tiện kiếm sống của họ. Nó phải có khả năng đương đầu và
vượt qua áp lực cũng như các thay đổi bất ngờ.
- Sinh kế bền vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi
trường hoặc cho các sinh kế khác ở hiện tại và tương lai – trên thực
tế thì nó nên thúc đẩy sự hoà hợp giữa chúng và mang lại những
điều tốt đẹp cho các thế hệ tương lai.
- Sinh kế bền vững , nếu theo nghĩa này phải hội tụ đủ những
nguyến tắc sau: Lấy con người làm trung tâm, dễ tiếp cận, có sự


12

tham gia của người dân, xây dựng dựa trên sức mạnh con người và
đối phó với các khả năng dễ bị tổn thương, tổng thể, thực hiện ở
nhiều cấp, trong mối quan hệ với đối tác, bền vững và năng động.
Nguồn tham khảo: CẨM NANG PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ
NÔNG THÔN VÀ PHÂN TÍCH SINH KẾ BỀN VỮNG Mạng Lưới
Các Trung Tâm Nuôi Trồng Thủy Sản Châu Á Thái Bình Dương
(NACA) Hà nội, 6/2006
1.1.1.3 Khái niệm về vùng đệm
Tại Điều 8- Quyết định số 08/2001/QĐ-TTg ngày
11/01/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế
quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự
nhiên quy định ghi rõ: "Vùng đệm là vùng rừng, đất hoặc vùng đất
có mặt nước nằm sát ranh giới với các vườn quốc gia và khu bảo
tồn thiên nhiên; có tác dụng ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm

khu rừng đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục
đích hỗ trợ cho công tác bảo tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc
dụng; hạn chế di dân từ bên ngoài vào vùng đệm; cấm săn bắn, bẫy
bắt các loài động vật và chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối
tượng bảo vệ. Diện tích của vùng đệm không tính vào diện tích của
khu rừng đặc dụng; dự án đầu tư xây dựng và phát triển vùng đệm
được phê duyệt cùng với dự án đầu tư của khu rừng đặc dụng. Chủ
đầu tư dự án vùng đệm có trách nhiệm phối hợp với UBND các cấp
và các cơ quan, đơn vị, các tổ chức kinh tế - xã hội ở trên địa bàn
của vùng đệm, đặc biệt là với ban quản lý khu rừng đặc dụng để
xây dựng các phương án sản xuất lâm – nông - ngư nghiệp, định
canh định cư trên cơ sở có sự tham gia của cộng đồng dân cư địa
phương, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt và tổ chức thực hiện để
ổn định và nâng cao đời sống của người dân".(Nguồn...)
Như vậy, vùng đệm phải được xác định trên cơ sở theo ranh
giới của các xã nằm ngay bên ngoài khu bảo tồn, những lâm trường


13

quốc doanh tiếp giáp với khu bảo tồn nên đưa vào trong vùng đệm
vì những hoạt động của các lâm trường này có ảnh hưởng đến công
tác bảo tồn của cả vùng đệm và khu bảo tồn. Trong những trường
hợp như thế, ranh giới vùng đệm không nhất thiết cách đều một
khoảng và chạy song song với ranh giới các khu bảo tồn.
Vùng đệm của vườn quốc gia Tam Đảo được xác định nằm
trên địa bàn của 27 xã và thị trấn thuộc 6 huyện và 3 tỉnh, cụ thể là:
- Tỉnh Vĩnh Phúc: Bao gồm các xã Hồ Sơn, Hợp Châu, Minh
Quang, Đại Đình, Tam Quan thuộc huyện Tam Đảo và thị trấn Tam
Đảo; xã Trung Mỹ thuộc huyện Bình Xuyên; và xã Ngọc Thanh

thuộc huyện Mê Linh
- Tỉnh Thái Nguyên: Bao gồm các xã Quân Chu, Cát Nê, Ký
Phú, Văn Yên, Hoàng Nông, Phú Xuyên, La Bằng, Mỹ Yên, Khôi
Kỳ, Yên Lãng và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ; xã Phúc
Thuận và Thành Công thuộc huyện Phổ Yên
- Tỉnh Tuyên Quang: Bao gồm các xã Ninh Lai, Thiện Kế,
Hợp Hoà, Kháng Nhật, và Hợp Thành thuộc huyện Sơn Dương
1.1.2 Cơ sở thực tiễn của đề tài
1.1.2.1 Đôi nét về tổ chức GTZ.
- Tổ chức GTZ là một tổ chức thuộc chính phủ Đức hoạt động
trong lĩnh vực hợp tác quốc tế. Nhiệm vụ của GTZ là góp phần tác
động tích cực vào sự phát triển về mặt chính sách, kinh tế, sinh thái
và xã hội của 130 nước đối tác, cải thiện điều kiện sống kinh tế,
văn hoá và triển vọng lâu dài của người dân ở các nước đó.
Các hoạt động của GTZ được tài trợ bởi chính Bộ hợp tác
Kinh tế phát triển Đức (BMZ). Ngoài ra, GTZ thực hiện sứ mệnh
của mình dưới sự uỷ nhiệm của các Bộ khác của Đức. Chính phủ
của các nước đối tác và các tổ chức quốc tế như Uỷ ban châu Âu


14

(European Commission), Liên Hợp Quốc (United Nations), Ngân
hàng thế giới (World Bank) cũng như các tổ chức cá nhân khác.
GTZ đã có mặt ở Việt Nam vào năm 1993 và hiện đang hỗ trợ
Chính phủ Việt Nam trong việc triển khai hơn 20 chương trình dự
án trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện tại, hoạt động hợp tác kỹ
thuật của GTZ tại Việt Nam tập chung vào ba lĩnh vực chính: Phát
triển kinh tế bền vững, Quản lý tài nguyên thiên nhiên, Chăm sóc
sức khoẻ và lĩnh vực đan xen giảm nghèo.

1.1.2.2 Một số hoạt động của GTZ triển khai tại Việt Nam.
a. Dự án Phát triển nông thôn Đắk Lắk
Từ năm 2003, Dự án đẩy mạnh sự tham gia của đồng bào dân
tộc thiểu số nông thôn vào tiến trình phát triển kinh tế của tỉnh. Mục
tiêu giai đoạn II là giới thiệu phương pháp lập kế hoạch phát triển
chung dựa theo nhu cầu để phân phối nguồn lực. Sự quan tâm đến
nhu cầu và bối cảnh văn hóa - xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số
là điểm mấu chốt trong việc điều chỉnh khung pháp lý để phát triển
nông thôn và quản lý tài nguyên thiên nhiên.
Dự án hỗ trợ giới thiệu mô hình quản lý rừng cộng đồng có
sự tham gia trong giao đất, điều tra rừng và lập kế hoạch quản lý
rừng. Đồng thời, hỗ trợ các cơ quan liên quan xây dựng và thí điểm
các thủ tục hành chính và tài chính cần thiết để thể chế hóa thủ tục
và nhân rộng toàn tỉnh. Cùng với các cơ quan khuyến nông thuộc
Sở NN-PTNT và với sự tham gia của nông dân là dân tộc thiểu số,
Dự án đã triển khai thí điểm và phổ biến các mô hình canh tác đất
dốc và chăn nuôi gia súc phù hợp. Đồng thời giới thiệu các phương
pháp khuyến nông có sự tham gia và hỗ trợ người dân tiếp cận các
nguồn tín dụng quy mô nhỏ. Để tạo cơ hội tăng thu nhập thêm cho
người dân, Dự án xúc tiến thúc đẩy mối liên kết giữa sản xuất, chế
biến và thương mại thông qua xây dựng các chuỗi giá trị và Hợp
tác Công - Tư. Dự án cũng tập trung vào nâng cao năng lực và tập


15

huấn cho các cán bộ ở các cơ quan và tổ chức xã hội các cấp trong
tỉnh. Các quy trình, hướng dẫn mới hoặc được thông qua và các mô
hình đã được thí điểm ở 4 xã mục tiêu của dự án ở huyện Lak và Ea
H’Leo. Phân bổ tài chính công cho các buôn người dân tộc thiểu số

ở 2 huyện mục tiêu vùng dự án (Lak và Ea H'Leo) tăng từ 23 tỉ
đồng (tương đương khoảng 1,15 triệu Euro vào năm 2005) lên 35 tỉ
đồng (tương đương 1,75 triệu Euro)
b. Tại Đắc Nông (8):
Ngày 16/4/08 tại Hà Nội, ông Đỗ Thế Nhữ, Phó Chủ tịch
UBND tỉnh Đắk Nông đã ký văn bản thoả thuận thực hiện Dự án
Bảo vệ Môi trường và Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên tỉnh Đắk Nông với Bộ Hợp tác Kinh tế và Phát triển Liên
bang Đức, do Tiến sĩ Guenter Riethmacher, Giám đốc Tổ chức Hợp
tác kỹ thuật Đức tại Việt Nam (GTZ) đại diện.
* Mục tiêu của Dự án:
- Cải thiện sự tham gia của người dân nghèo ở nông thôn, đặc
biệt là người dân tộc thiểu số vào công cuộc phát triển kinh tế của
tỉnh Đắc Nông. Hướng đi của dự án sẽ tập trung vào việc cải thiện
nông nghiệp vùng cao, đưa vào áp dụng các mô hình nông lâm kết
hợp, chú trọng phương pháp quản lý rừng dựa vào cộng đồng… để
các hộ dân và người dân tộc thiểu số cùng thực hiện. Phương pháp
này cũng sẽ được nhân rộng trên toàn tỉnh. Không chỉ góp phần
thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam cũng
như Chiến lược Bảo vệ Môi trường Quốc gia, dự án còn giúp xây
dựng các phương pháp và cách tiếp cận mới để thực hiện ở cấp
trung ương và tỉnh. Chính phủ Đức viện trợ không hoàn lại 2 triệu
euro cho giai đoạn này. Kết quả của dự án không chỉ dừng lại ở sự
hỗ trợ phát triển mà còn tác động đến được với đời sống người dân.
Về phía UBND tỉnh Đắk Nông, Phó Chủ tịch Đỗ Thế Nhữ
nêu rõ, với gần 90% dân số sống bằng nghề nông nghiệp, lâm


16


nghiệp, 35% dân số của tỉnh là người dân tộc thiểu số nghèo, Đắk
Nông nhận thức rất rõ tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi
trường, bảo vệ tài nguyên gắn với sản xuất kinh doanh. Dự án Bảo
vệ môi trường và Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên
có tầm quan trọng rất lớn đối với tỉnh Đắk Nông, tạo nền tảng cho
sự phát triển bền vững của tỉnh. UBND tỉnh Đắk Nông cam kết tổ
chức thực hiện đúng các cam kết trong dự án đồng thời thành lập
một Ban Chỉ đạo của tỉnh để giám sát và thực hiện. Tổng số tiền
viện trợ 2 triệu Euro, chủ yếu là viện trợ không hoàn lại
c. Tại Hoà Bình: (9)
* Nội dung dự án:
• Nâng cao năng lực trong quản lý và lập kế hoạch phát triển
rừng cho cán bộ lâm nghiệp cấp huyện, xã để có đủ trình độ tư vấn
hướng dẫn cho các chủ rừng tư nhân và cộng đồng thực hiện được
các hoạt động theo yêu cầu của dự án.
• Xây dựng mô hình điểm về sử dụng bền vững nguồn tài
nguyên thiên nhiên và thiết lập các hoạt động về quản lý bền vững
diện tích rừng hiện có tại thôn bản của 04 huyện của mỗi tỉnh (ít
nhất mỗi Huyện 01 mô hình được thực hiện có hiệu quả).
• Nâng cao năng lực phát triển thể chế và tổ chức trong quản
lý lâm nghiệp cấp tỉnh, huyện và xã.
* Mục tiêu chính cần đạt là:
• Nâng cao năng lực cho hệ thống các đối tác của dự án.
• Cải thiện năng lực tổ chức và phát triển thể chế về quản lý
rừng tại cấp tỉnh, huyện và xã trong vùng dự án.
• Phát triển mô hình thí điểm về sử dụng bền vững tài nguyên
thiên nhiên và thiết lập các hoạt động bền vững diện tích rừng hiện
có tại hai tỉnh Hoà Bình – Sơn La.
Tổng số tiền viện trợ không hoàn lại là 2 triệu Euro.



17

Thời gian thực hiện dự án: Từ 5/2007 – 5/2010.
d. Quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển tại tỉnh
Sóc Trăng
Dự án hỗ trợ Ủy ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng và Chi cục
kiểm lâm thông qua việc phát triển các mô hình đồng quản lý các
vùng ven biển bền vững, quản lý rừng ngập mặn thích ứng với sự
biến đổi khí hậu, cũng như xây dựng một khuôn khổ chính sách
điều tiết. Chương trình sẽ được hỗ trợ thông qua xây dựng các đề án
tài trợ bền vững cho các dịch vụ môi trường, cung cấp bởi các vùng
đất ngập nước ven biển.
Để bảo vệ và quản lý vành đai rừng ngập mặn hiệu quả, dự
án sẽ áp dụng Phương pháp Hệ Sinh Thái, một chiến lược để quản
lý tổng hợp đất, nước và nguồn tài nguyên sinh vật nhằm hỗ trợ bảo
tồn và sử dụng bền vững một cách hợp lý.
* Mục tiêu dự án
Mục tiêu tổng thể của dự án là đảm bảo cho những người
nghèo được hưởng lợi cả về kinh tế và sinh thái từ việc quản lý và
sử dụng các vùng ven biển bền vững. Mục tiêu của giai đoạn đầu
(2007-2010) là hỗ trợ việc cùng quản lý vùng ven biển giữa những
người sử dụng nguồn tài nguyên (người dân địa phương, những
người nuôi tôm) và chính quyền địa phương các cấp.
Các nhóm đối tượng của dự án là những người dân địa
phương sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng ven biển.
Nhóm này bao gồm những người không có đất canh tác, phụ thuộc
vào việc thu gom các nguồn tài nguyên chẳng hạn như cua, các loài
động vật thân mềm, cá và mật ong để sinh sống cũng như những
người nuôi tôm, phụ thuộc vào nguồn nước ven biển không bị ô

nhiễm.
đ. Bảo tồn và Quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên
khu vực VQG Phong Nha-Kẻ Bàng


18

Bằng các biện pháp hỗ trợ kỹ thuật, tổ chức hội thảo, và hỗ
trợ tài chính, dự án hoạt động nhằm tăng cường cơ chế lập kế hoạch
cấp huyện và xã theo đường hướng sử dụng các phương pháp thân
thiện với môi trường và quản lý bền vững nguồn tài nguyên thiên
nhiên.
Nhằm thúc đẩy sinh kế cho vùng đệm của vườn quốc gia, dự
án hỗ trợ việc lập kế hoạch của địa phương và các cơ quan thực
hiện việc lập “kế hoạch phát triển bền vững kinh tế vùng đệm”.
Mục tiêu tổng thể của kế hoạch là phác thảo các cơ hội sinh kế thay
thế mang tính bền vững và thân thiện với môi trường, giảm sự phụ
thuộc của người dân trong vùng vào nguồn tài nguyên thiên nhiên
của vườn quốc gia.
Thêm vào đó, dự án còn xây dựng “Quy hoạch phát triển du
lịch” cho vùng dự án. Nâng cao năng lực quản lý và nhận thức môi
trường trong khu vực Phong Nha Kẻ Bàng, từ đó xây dựng và phát
triển một ngành du lịch mang tính môi trường bền vững, đem lại lợi
ích trực tiếp cải thiện sinh kế của nhân dân địa phương.
Ngoài ra, dự án GTZ hỗ trợ ban quản lý vườn quốc gia tăng
cường các biện pháp bảo vệ, hỗ trợ không chỉ việc bảo vệ vườn mà
còn tái sinh và bảo tồn các loài động thực vật đang bị đe dọa.
Thời gian hoạt động của dự án là 8 năm, chia làm 3 giai
đoạn, 2 giai đoạn đầu thực hiện trong 3 năm và giai đoạn cuối trong
2 năm. Giai đoạn 1 của dự án tính từ 10/2007 đến 10/2010.

e. Kết hợp Bảo tồn và Phát triển Khu Dự trữ Sinh quyển tỉnh
Kiên Giang
Dự án sẽ tập trung triển khai hoạt động tại ba trọng điểm của
Khu Dự trữ Sinh quyển tỉnh Kiên Giang mà đã được UNESCO
công nhận năm 2006, gồm Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Vườn


19

Quốc gia Phú Quốc và khu vực rừng phòng hộ ven biển thuộc Kiên
Lương và Hòn Chông.
Mục tiêu của Dự án là quản lý bền vững nguồn tài nguyên
thiên nhiên của tỉnh Kiên Giang và cải thiện việc quản lý các khu
rừng phòng hộ.
Giai đoạn đầu của Dự án sẽ đặt trong tâm vào quản lý hiệu
quả các khu rừng phòng hộ và rừng ven biển.
Một số khảo sát ban đầu sẽ được thực hiện để điều tra động
thực vật trong vùng lõi các vườn quốc gia và các khu rừng phòng
hộ ven biển. Đây sẽ là cơ sở để giám sát tác động của Dự án cũng
như việc triển khai các chiến dịch nâng cao nhận thức.
Các nhóm đối tượng của Dự án gồm người dân nghèo sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc rừng phòng hộ ven biển,
đất ngập nước và các khu bảo vệ cũng như cán bộ trực thuộc các
vườn quốc gia, các sở, ban, ngành liên quan của tỉnh và huyện.
Tham gia Dự án còn có người dân, cán bộ khuyến nông, cán
bộ địa phương và các cơ quan đoàn thể. Dự án sẽ giải quyết vấn đề
xóa đói giảm nghèo thông qua các cơ hội cải thiện và đa dạng sinh
kế, đặc biệt cho người dân các dân tộc thiểu số như người Khmer và
phụ nữ.
Lợi ích trực tiếp của Dự án là sự phối kết hợp giữa các bên

tham gia được cải thiện. Sẽ tổ chức những hội thảo với các bên
tham gia để tiến hành lập kế hoạch cho các chiến lược quản lý, và
cùng phối hợp với Dự án Quản lý Nguồn tài nguyên thiên nhiên
vùng ven biển tỉnh Sóc Trăng để chia sẻ thông tin và áp dụng rộng
rãi cho các hệ sinh thái khác nhau của vùng Đồng bằng Sông Cửu
Long.
Đầu ra của Dự án gồm:


Đa dạng sinh học động, thực vật được đánh giá tại các điểm nóng


20


Các chiến lược quản lý sử dụng đất cho Khu Dự trữ sinh quyển
được hoàn thiện



Năng lực và kiến thức kỹ thuật cho các cơ hội tạo thu nhập, gồm cả
kiến thức thị trường được cải thiện



Nâng cao nhận thức về môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên




Xây dựng được các kế hoạch bảo tồn đa dạng sinh học trong Khu
Dự trữ Sinh quyển



Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật quản lý nước tại Vườn Quốc gia
U Minh Thượng



Xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật phòng cháy, chữa cháy rừng cho
Vườn Quốc gia U Minh Thượng và Phú Quốc



Năng lực lập kế hoạch, thiết kế và quản lý dự án được cải thiện.

Thực trạng triển khai dự án tại vùng đệm Vườn Quốc gia
Tam Đảo khu vực Thái Nguyên
Hoạt động hợp tác trên nằm trong khuôn khổ giai đoạn 2 của
dự án Phát triển rừng Quốc gia Tam Đảo và vùng đệm (gồm ba tỉnh
Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, Thái Nguyên) do GTZ phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực hiện từ năm 2006 đến
2009, với khoảng 1,5 triệu euro viện trợ không hoàn lại của phía
Đức.
Giai đoạn 1 của dự án được thực hiện trong giai đoạn
2003-2006, phía Đức đã tài trợ 1,79 triệu euro, được thực hiện tại
26 làng thuộc 8 huyện của 3 tỉnh Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và
Tuyên Quang, với mục tiêu phát triển bền vững, xóa đói giảm
nghèo và bảo vệ thiên nhiên môi trường.

Giai đoạn 2: Ngày 4/7/07 tại Hà Nội, trước sự chứng kiến của
đại diện các cơ quan ban ngành, ông Guenter Riemacher – Giám


21

đốc văn phòng đại diện Tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ) tại Hà
Nội và TS. Lê Văn Minh - Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký kết Bản thỏa thuận thực hiện
dự án Quản lý vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm - giai đoạn 2
từ tháng 10/2006 – 9/2009.
Theo đó, giai đoan này của Dự án sẽ tập trung vào 3 nội dung
chính như: Tiếp tục hoàn thiện, phổ biến các khái niệm và phương
pháp luận về lập kế hoạch sử dụng tài nguyên bền vững vào kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương và kế hoạch ngành;
Nâng cao đời sống người dân thông qua việc giới thiệu các kỹ thuật
bảo tồn tài nguyên thiên nhiên gắn với lợi ích kinh tế trong sản xuất
nông lâm nghiệp và chăn nuôi; Xây dựng hệ thống giám sát và đánh
giá đối với tác động của các biện pháp bảo tồn tự nhiên ở Vườn
quốc gia Tam Đảo. CHLB Đức Viện trợ không hoàn lại 2 triệu euro
cho dự án Quản lý vườn quốc gia Tam Đảo và vùng đệm - giai đoạn
2
(Nguồn Bộ NN & PTNT ngày 7/17/2007)
Các hoạt động hỗ trợ của dự án GTZ tại huyện Đại Từ tỉnh
Thái Nguyên
Xã được
triển khai

Yên Lãng


Văn Yên

Bắt đầu
thực hiện

2004

2004

Thôn
Đèo Khê
Đàm Làng
Yên Từ
Cầu Trà
Khuôn Nanh
Bầu 2
Bầu 2
Xóm Núi
Kỳ Linh
Bầu 1

Năm 2007- 2008
Tên hoạt động
Trồng chè cành giống mới
Bếp sao chè cải tiến
CLB phụ nữ chăn nuôi
Trồng trám trắng
Khôi phục nương chè già
Xây dựng vườn ươm chè
Xây dựng vườn ươm cây LN

Trồng chè cành giống mới
Bếp sao chè cải tiến
CLB phụ nữ chăn nuôi
Nuôi thỏ
Nuôi ong
Nấm rơm

Số hộ
50
15
336
60
18
2
2
90
21
125
18
15
10


22

Cát Nê

2005

Quân Chu


2004

Hoàng
Nông

2005

Đồng Gốc
Tân Phú
Gò Trẩu
La Vĩnh
Đồng Mương

Trồng chè cành giống mới
Bếp sao chè cải tiến
CLB phụ nữ chăn nuôi
Trồng trám trắng
Trồng măng tre bát độ
Cải tạo vườn chè già cỗi
Nuôi thỏ
Lò Mật
Nuôi ong
Xóm Vang
Trồng chè cành giống mới
Hòa Bình
Bếp sao chè cải tiến
Tân Tiến 1
CLB phụ nữ chăn nuôi
Vạn Thành

Xây dựng vườn ươm chè
Tân Yên 2
Xây dựng vườn ươm cây LN
Chiểm 1
Nuôi ong
Làng Hưu
Trồng chè cành giống mới
Đoàn Thắng
Bếp sao chè cải tiến
Đồng Khuôn
CLB phụ nữ chăn nuôi
Cổ Rồng
Trồng trám trắng
Suối Chùn
Nuôi thỏ
Đình Cường
Nuôi ong
Tham quan mô hình trang trại
Làm nấm rơm
Xây dựng vườn ươm chè

Nguồn :Công ty TNHH Mê Công 24 Trấn Vũ Quận Ba Đình Hà Nội,Việt Nam (10)

1.2 Phương pháp nghiên cứu và đánh giá
1.2.1 Các vấn đề mà đề tài cần giải quyết
Mục tiêu của dự án bảo vệ vườn Quốc gia Tam Đảo là nhằm
cải thiện mức sống cho các hộ gia đình thông qua cải thiện thu
nhập. Việc xem xét mức thu nhập, chi phí cho sản xuất của hộ và
các nguồn thu nhập khác sẽ làm cơ sở cho việc đánh giá tác động
dự án.

Để có những căn cứ đánh giá tác động của dự án đến sinh kế
người dân vùng đệm vườn quốc gia Tam Đảo khu vực Thái Nguyên
thì các vấn đề mà tác giả cần tập chung giả quyết là:
1. Dự án tác động đến sinh kế của người dân trong khu vực vùng

đệm như thế nào?

63
18
150
60
20
42
18
12
133
18
100
4
3
20
264
24
120
120
18
15
30
2
1



23
2. Thu nhập của các hộ nông dân tham gia dự án có gì khác biệt

với các hộ dân không tham gia dự án?
3. Xu hướng đầu tư cho tương lai tại địa phương trong nông

nghiệp.
4. Nhận thức của các hộ dân tham gia dự án và không tham gia dự

án về vấn đề trồng và bảo vệ rừng có được cải thiện hay không?
5. Đánh giá của người dân tham gia dự án và không tham gia dự án

về ô nhiễm môi trường tại khu vực vùng đệm.
6. Người dân có ủng hộ, tham gia nhiệt tình vào dự án hay không?
7. Các hoạt động hỗ trợ về cơ sở hạ tầng nông thôn có tác động

như thế nào đến sinh kế của người dân vùng đệm.
8. Khả năng tạo thu nhập mới của người dân sau khi tham gia dự

án tại địa phương.
9. Đánh giá rủi ro trong phương thức sinh sống mới sau khi khai

dự án rút khỏi địa phương.
10. Rừng tự nhiên đã được bảo vệ bởi cộng đồng địa phương hay
chưa?

1.2.2 Phương pháp nghiên cứu
1.2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu

- Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Phương pháp này
được sử dụng để hệ thống hoá và tóm tắt về cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn có liên quan đến đề tài này. Ngoài ra, thu thập số liệu thứ
cấp tại phòng Nông nghiệp & PTNT, phòng Tài nguyên và môi
trường, phòng thống kê và các phòng ban khác ở huyện Đại Từ,
Ban quản lý vườn Quốc gia Tam Đảo... Nguồn gốc của các tài liệu
này đều được chú thích rõ ràng sau mỗi biểu số liệu.
- Phương pháp điều tra số liệu sơ cấp: Chọn mẫu điều tra trong
khu vực nghiên cứu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên. Phỏng


24

vấn trực tiếp chủ hộ bằng các câu hỏi đã được chuẩn bị trước và in
sẵn. Thu thập các thông tin sơ cấp tại các hộ nông dân trên địa bàn
vùng đệm thuộc vườn quốc gia Tam Đảo theo 02 nhóm: Nhóm hộ
dân tham gia dự án (150 mẫu) và nhóm hộ không tham gia dự án
(48 mẫu điều tra).
* Mục tiêu chọn mẫu điều tra
Mục tiêu của hoạt động điều tra thực địa nhằm thu thập đầy
đủ, toàn diện và chính xác các thông tin về đời sống sinh hoạt, các
hoạt động sản xuất – kinh doanh, trồng và bảo vệ rừng, tư tưởng ý
thức của các hộ trong địa bàn nghiên cứu để từ đó có thể chỉ ra
những tác động, thay đổi do các hoạt động dự án mang lại.
* Cơ sở chọn mẫu điều tra
Sau khi khảo sát kỹ lưỡng, tác giả và các thành viên trong
nhóm điều tra quyết định lựa chọn 03 xã là Cát Nê, Văn Yên và Ký
Phú thuộc huyện Đại Từ để điều tra. Đây là 03 xã tiêu biểu, có thể
đại diện được cho tất cả các xã còn lại trong huyện. Xã Cát Nê đại
diện cho các xã vùng sâu vùng xa, xã Văn Yên đại diện cho các xã

vùng giữa còn xã Ký Phú đại diện cho các xã gần với khu vực thị
trấn Đại Từ.
Số liệu điều tra sơ cấp được tác giả thu thập thông qua các
phương pháp sau:
* Phương pháp phỏng vấn cấu trúc:
Để thu thập số liệu cần thiết phục vụ cho đề tài nghiên cứu,
chúng tôi đã điều tra các hộ sản xuất nông nghiệp bằng phương
pháp phỏng vấn trực tiếp một thành viên hiểu biết về nông nghiệp
của gia đình. Điều này đảm bảo lượng thông tin có tính đại diện và
chính xác. Chúng tôi phỏng vấn thử một số hộ theo một mẫu câu
hỏi đã được soạn thảo trước. Sau đó xem xét bổ sung phần còn
thiếu và loại bỏ phần không phù hợp trong bảng câu hỏi. Câu hỏi


25

được soạn thảo bao gồm các câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Nội dung
các câu hỏi phục vụ cho đề tài nghiên cứu theo các nhóm thông tin
sau:
1. Nhóm thông tin về xác định hộ gia đình.
2. Nhóm thông tin về các đặc điểm nhân khẩu của hộ.
3. Nhóm thông tin về các nguồn lực tự nhiên của hộ.
4. Nhóm thông tin về các nguồn thu nhập của hộ.
5. Nhóm thông tin về hiện trạng sử dụng các nguồn lực tự nhiên từ
rừng quốc gia, rừng trồng của hộ.
6. Nhóm thông tin đánh giá tác động của các hoạt động hiện nay đến
sinh kế của người dân
7. Nhóm thông tin về các hoạt động hỗ trợ của dự án.
* Phương pháp phỏng vấn bán cấu trúc:
Để lấy thông tin theo chiều rộng, tránh cho người bị phỏng vấn

cảm thấy bị nhàm chán, bị ép buộc phải trả lời câu hỏi có sẵn,
chúng tôi đã dùng các câu hỏi không có trong phiếu điều tra để hỏi
thêm các hộ dân trong quá trình phỏng vấn.
Phương pháp này nhằm mục đích lấy thêm những thông tin
cần thiết cho việc nghiên cứu, gợi mở hơn nhiều vấn đề mới quan
trọng và thú vị...
* Phương pháp quan sát trực tiếp:
Đây là phương pháp rất sinh động và thực tế. Tác giả có thêm
các thông tin tại địa bàn nghiên cứu trong quá trình đi điều tra
phỏng vấn hộ thông qua ghi chép, chụp ảnh lại một cách cụ thể,
thực tế, phong phú và khách quan.
1.2.2.2 Phương pháp xử lý thông tin
- Thông tin và các số liệu sau khi thu thập được sẽ được cập nhật và
tính toán thuỳ theo mục đích của đề tài trên chương trình Excel của
Microsoft.


×