Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích ý nghĩa bài thơ độc tiểu thanh kí của nguyễn du

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.27 KB, 10 trang )

Phân tích ý nghĩa bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du
Thương xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc là một nguồn
cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du. Ngoài Truyện Kiều – một tác phẩm
bất hủ, Nguyễn Du còn không ít những bài thơ chữ Hán đặc sắc viết về thể tài này.
Một trong số đó phải kể đến bài thơ Độc Tiểu Thanh kí. Đây là một trong những
bài thơ tiêu biểu cho tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du.
Vậy tài năng nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo đó được thể hiện như thê nào? Hôm
nay chúng ta cùng tìm hiểu bài thơ……

1. Tác giả Nguyễn Du
– Nguyễn Du (1765 – 1820) là đại thi hào của dân tộc Việt Nam, là danh nhân văn
hóa thế giới.
– Sự nghiệp sáng tác: gồm thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm.
– Nội dung trong thơ văn đặc biệt là chữ hán: sự cảm thông sâu sắc của tác giả đối
với cuộc sống và con người nhỏ bé, bất hạnh, đặc biệt là số phận bất hạnh của
những người phụ nữ có tài hoa, nhan sắc.
Đây là nội dung quan trọng hàng đầu trong thơ văn Nguyễn Du .

2. Chuyện nàng Phùng Tiểu Thanh (1594 – 1612)
Tiểu Thanh – Phùng Tiểu Thanh (1594- 1612), người Quảng Lăng, tỉnh Giang Tô,
Trung Quốc, thông minh, tài, sắc vẹn toàn. Năm 16 tuổi cô làm vợ lẻ một nhà
quyền quý họ Phùng (Phùng Sinh). Bị vợ cả ghen ghét, cô phải tránh ra ở Cô Sơn
(trên núi cao), cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn cô sinh bệnh rồi chết năm 18 tuổi. Những
uất ức và đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng rồi cũng bị vợ cả đốt, may mắn
thay, một số bài thơ còn sót lại, do nàng viết trên hai tờ giấy gói tặng mấy vật trang
sức cho một cô gái (phần dư). Đọc phần dư cảo, Nguyễn Du trào lên nỗi xót
thương, đồng cảm với thân phận của người phụ nữ nhan sắc vẹn toàn nên viết bài
thơ này.



3. Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí
a. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ:

Chưa rõ tác giả sáng tác trong hoàn cảnh cụ thể nào (đi sứ TQ hay ở VN). Chỉ biết
sau khi đọc xong phần dư (những bài thơ còn sót lại hay khi đọc tập truyện kí ghi
chép về cuộc đời nàng Tiểu Thanh) rồi sáng tác bài thơ này

b. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Đường luật.

c Bố cục:
– 2 câu đề: Nỗi lòng của nhà thơ trước lẽ biến thiên dâu bể của cuộc đời.
– 2 câu thực: Nỗi xót xa cho kiếp người tài hoa bạc mệnh
– 2 câu luận: Niềm cảm thông đối với những kiếp người hồng nhan, tài hoa mệnh
bạc
– 2 câu kết:Tiếng lòng khao khát tri âm.

Phân tích bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.


Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa


Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,
Chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ[1].
Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết[2],
Văn chương không có mệnh mà cũng bị đốt dở.
Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã[3].
Không biết hơn ba trăm năm sau nữa,
Thiên hạ có ai khóc Tố Như không[4]?

Dịch thơ (Vũ Tam Tập)

Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,


Người đời ai khóc Tố Như chăng?

1. Hai câu đề:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

(Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn).


Cảnh Tây hồ trong sự đối lập xưa và nay: Xưa huy hoàng rực rỡ. Nay hoang phế,
điêu tàn.
– “tẫn”: đứt đoạn, hết → một sự thay đổi triệt để của cảnh vật
→ Nghệ thuật đối lập, tượng trưng → mượn sự thay đổi của cảnh vật để nói về sự
thay đổi cuộc đời nàng Tiểu Thanh. Đây cũng chính là sự biến thiên dâu bể – một
sự thay đổi lớn trong cuộc đời nàng.
→ tâm trạng buồn ,tiếc nuối, cảm thương mà bất lực

Tâm trạng của nhà thơ:
– “Độc điếu” : viếng một mình
– “nhất chỉ thư”: một tập sách
→ Viếng một mình, bằng cách đọc tập sách còn sót lại. Đó là thái độ trân trọng,
thành kính đối với người đã khuất.


Nhà thơ thổn thức, không yên ổn trước vẻ đẹp lý tưởng của một con người tài hoa.
Thương cảm, xót xa cho cuộc đời và số phận của nàng Tiểu Thanh. Hai câu thơ
như một tiếng thở dài trước lẽ “biến thiên dâu bể” của cuộc đời và niềm thổn thức
của một tấm lòng nhân đạo lớn.

2. Hai câu thực:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.

(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

– Son phấn: hình ảnh ẩn dụ về sắc đẹp→ chôn vùi
– Phần dư: những bài thơ còn sót lại- hình ảnh ẩn dụ về tài năng →bị đốt

– Nghệ thuật đối: 3 >< 4 -> Tài sắc vẹn toàn nhưng chịu nhiều bất hạnh, ngang trái
-> Tác giả xót thương cho số phận của nàng Tiểu Thanh, phẫn nộ trước quy luật
của
nghiệt ngã, oan trái , bạc bẽo của kiếp người “tài hoa bạc mệnh”
=> Tấm lòng tri âm, thương cảm sâu sắc của Nguyễn Du trước cuộc đời, số phận
oan trái của người sắc tài kì nữ khiến trời đất ghen. Qua đó nhà thơ tố cáo xã hội
phong kiến đã vùi dập con người có tài sắc.


Nguyễn Du ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của Tiểu Thanh như ca ngợi vẻ đẹp hoàn thiện,
hoàn mĩ. Đặt trong hoàn cảnh xã hội cũ, người phụ nữ bị khinh miệt mà ông vẫn ca
ngợi đó chính là bản lĩnh và cái nhìn tiến bộ của Nguyễn Du. Số phận của nàng
Tiểu Thanh cùng với tập thơ của nàng còn ẩn chứa nỗi đau tận cùng của Nguyễn
Du về số phận của “hồng nhan” về cái tài, cái đẹp bị giày xéo, bị chôn vùi trong bể
khổ của cuộc đời.

c. Hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang)

– “Cổ kim hận sự”: mối hận của người xưa và người nay.
+ Người xưa: nàng Tiểu Thanh và những người phụ nữ cùng cảnh ngộ.
+ Người nay: những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố cùng
thời với Nguyễn Du và thế hệ những nhà thơ tài năng nhưng gặp nhiều khổ đau,
bất hạnh trong cuộc đời như Nguyễn Du.
– “thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được, khó mà tìm được một lời giải đáp.

=> Từ số phận của Tiểu Thanh, nhà thơ khái quát hiện thực: Sự bất công với người
tài sắc trở thành một định lệ.
-“Phong vận kì oan”: nỗi oan trái của người phong lưu, tài tình.
– “ngã tự cư”: ta tự mang.


=> Nhà thơ tự coi mình cùng hội cùng thuyền với những người phong lưu tài tử.
– Đồng cảm sâu sắc với những kiếp tài hoa, khóc cho người và cũng là khóc cho
mình.
=> tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du ( Viết về người cũng là viết về mình. Câu
thơ thật da diết và cảm động)

Tiểu Thanh hận chồng, hận người vợ cả phủ phàng khiến nàng phải chết trong
buồn khổ,hận xã hội phong kiến không biết trân trọng người tài sắc.

– Liên hệ:
“Một câu hỏi lớn không lời đáp
Cho đến bây giờ mật vẫn chau”
(Các vị la hán chùa Tây Phương của Huy Cận)

Đây không phải là nỗi băn khoăn và bất lực của riêng Nguyễn Du mà của chung
của cả thời đại ông. Đến đây, câu chuyện có phải dừng lại ở số phận của những
người phụ nữ tài, sắc nữa mà là của cả thế hệ, của cả nhân gian. Những người phụ
nữ hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố cùng thời với Nguyễn Du và thế hệ
những nhà thơ tài năng nhưng gặp nhiều khổ đau, bất hạnh trong cuộc đời như
Nguyễn Du.Nguyễn Du tự coi mình cũng giống như nàng Tiểu Thanh kia, cũng tài
hoa mà bạc mệnh.đặt trong hoàn cảnh xã hội thời bấy giờ, cách nói của ông mang
tính nhân văn sâu sắc: Ông coi Tiểu Thanh ngang tầm với mình cùng bạc mệnh,
cùng số phận đau thương.


Nguyễn Du đã thấy tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến đều có
chung số phận gian truân, nghiệt ngã “Tài mệnh tương đố”, “Tài hoa bạc mệnh”.
Từ cảm thông cho Tiểu Thanh, tác giả khái quát lên thành niềm thương cảm cho số
phận của nhiều kiếp người “Sắc tài sao lắm truân chuyên”


Hai câu thơ là sự cảm thông cao độ của tác giả dành cho Tiểu Thanh, coi chuyện
oan khuất của Tiểu Thanh là của mình: trót sinh ra, trót mang lấy nghiệp vào thân,
trót có tài, trót có sắc thì đành phải chịu để đời đánh ghen, đùa cợt, khốn khổ. Hai
câu thơ đều là 2 câu hỏi không lời đáp, là bi kịch không thể giải thoát, là nỗi day
dứt triền miên trước quy luật tai quái của xã hội cũ: tài hoa- bạc mệnh.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du từng trăn trở về chữ tài, chữ mệnh khéo là ghét
nhau, chữ tài liền với chữ tai một vần, thì ở đây Nguyễn Du đã đẩy lên mức độ cao
hơn, làm cho hai câu thơ giống như một tiếng thét. Xã hội phong kiến thối nát thù
hận, đối nghịch với tài năng phẩm giá của con người. Xã hội ấy nhất định phải bị
tiêu diệt.

d. Hai câu kết :

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

– Con số “ba trăm năm lẻ”: thời gian lâu dài về sau (không cụ thể)
– “Người đời …………chăng?”: câu hỏi tu từ đầy day dứt, trăn trở:



->buồn thống thiết như cứa vào lòng→cô đơn, cô độc trong hiện tại
-> niềm khao khát tri âm.
->Từ thương người đến thương mình
Khóc Tiểu Thanh, Nguyễn Du “trông người lại nghĩ đến ta” và hướng về hậu thế tỏ
bày nỗi khao khát tri âm của mọi kiếp người tài hoa mà phải chịu đau khổ trên đời.
(Nói cách khác: niềm tự thương, tự đau đến cực độ: thương mình cô độc không ai
tri ân, tri kỉ trong cuộc đời này→ nỗi đau đời của Nguyễn Du).

Từ quy luật nghiệt ngã của cuộc đời , nhà thơ nghĩ đến cuộc đời mình: khóc cho
chính mình. Con số 300 năm lẻ ở đây có ý nghĩa sâu sắc. Nguyễn Du khóc cho
Tiểu Thanh cách hơn 300 năm sau, có lẽ có sự lieân tưởng đến mình. Tiểu Thanh
mất, sau 300 năm có ND khóc thương, an ủi→niềm hạnh phúc cho Tiểu Thanh.
Còn khi ND mất không biết có ai đồng cảm, khóc cho ông không? Câu thơ là nỗi
dằn vặt, cô đơn mòn mỏi, không tin là mình sớm tìm được sự thông cảm, chia sẻ.

Chuyện 300 năm trước đã thành chuyện của Nguyễn Du, chuyện trước mắt. Điều
đặc biệt, cảm hứng nhân văn của bài thơ còn ở chỗ : không chỉ đề cao vẻ đẹp của
con người, của người phụ nữ nói riêng; Nguyễn Du còn thể hiện sự trân trọng giá
trị tinh thần to lớn của con người và hơn thế : trong quan niệm vô ngã phi ngã của
văn chưong trung đại, bài thơ là một hiện tượng hiếm hoi khi đã kết hợp giữa
thương người và thương mình vào một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật ngắn
ngủi vượt ra ngoài quy luật chung của xã hội phong kiến.

Với ngôn ngữ giàu triết lí, hàm súc, tinh tế, sử dụng tài tình phép đối và khả năng
thống nhất những mặt đối lập trong hình ảnh, ngôn từ, sự phá cách khuôn mẫu của
thơ Đường luật, bài thơ biểu lộ sâu sắc niềm cảm thương mà Nguyễn Du dành cho
Tiểu Thanh và tâm sự khao khát tri âm về hậu thế ; vẻ dẹp chủ nghĩa nhân đạo
nguyễn Du.



Kết luận:

Độc Tiểu Thanh kí là một bài thơ tuân thủ chặt chẽ luật Đường thi nhưng vẫn lộ ra
tài năng độc đáo của Nguyễn Du bởi bút pháp trữ tình hàm súc, thâm thuý; mỗi câu
thơ như chứa đựng cả một thế giới cảm xúc của một nghệ sĩ lớn. Bài thơ từ tiếng
khóc cho số phận Tiểu Thanh, cũng là tiếng khóc cho số phận con người tài hoa
bạc mệnh, cho cái Đẹp bị vùi dập và đặc biệt nó còn là tiếng khóc, là nỗi khát thèm
tri âm tri kỉ của chính Nguyễn Du.



×