Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

phân tích bài thơ tràng giang của huy cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.57 KB, 11 trang )

phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận
TRÀNG GIANG (Huy Cận)
I. Tác giả, tác phẩm:

1. Tác giả: Huy Cận (Xem phần tiểu dẫn SGK, trang 28)

Cuôc đời:

Huy Cận (1919 – 2005) tên thật là Cù Huy Cận. Huy Cận sinh ra trong một gia
đình nhà nho nghèo ờ làng An Phú, huyện Hương Sơn (nay xã Đức Ân, huyện Vũ
Quang), tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1939 đỗ tú tài toàn phần. Năm 1943 đỗ kĩ sư Canh
nông tại Hà Nội. Từ 1942, ông tham gia mặt trận Việt Minh trong tổ chức Văn hoá
cứu quốc, rồi tham dự Quốc dân đại hội Tân Trào. Tại đây ông được bầu vào Uỷ
ban Dân tộc giải phóng toàn quốc.

Sau CMT8, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách
khác nhau: Thứ trường Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hóa —
Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưỏmg kiêm Chủ tịch ủy ban Trung ương
Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ông được nhà nước tặng giải thường văn
học và nghệ thuật năm 1996.

Sư nghiệp:

Huv Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của nền
văn học Pháp. Ông là một trong những tác già xuất sắc của phong trào Thơ mới
(1932- 1945)


Trước CMT8: thơ Huy Cận phát triển theo xu hướng lãng mạn (thành viên phong
trào Thơ mới). Trong giai đoạn này, ông có nhiều tác phảm xuất sắc: Lửa thiêng
(1937 – 1940) tập thơ đầu tiên; Kinh cầu tự (tập văn xuôi, 1942); Vũ trụ ca (1940


1942).

Thơ Huy Cận trước cách mạng man mác tình người, tình đất nước, u sầu nhưng
đôn hậu.

Sau CMT8, Huy Cận phải mất một khoảng thời gian để đổi mới tiếng thơ. Từ
1958, nguồn thơ tuôn chảy dồi dào và có nhiều đôi mới, tìm thấy sự hòa điệu giữa
con người và xã hội. Tiêu biểu là các tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất
nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Hai bàn tay em (1967), Những năm sáu
mươi (1968), Chiến trường gần, chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày
hằng thơ (1975), Hạt gieo lại (1984), Ta về với biển (1997).

Sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tường, triết lí. Ông
là một trong những gương mặt tiêu biêu cửa thơ ca Việt Nam hiện đại và đã được
Nhà nuớc tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm I996.

Phong cách thơ Huy Cận có sự kết hợp nhuần nhuyễn những yếu tố cổ điền, mhất
là Đường thi với yếu tố của thơ mới.

Bài thơ Tràng giang
Xuất xứ: In trong tập thơ Lửa thiêng (1940)

Hoàn cảnh sáng tác: Vào một buổi chiều mùa thu 1939, khi đứng ờ bờ Nam, bến
Chèm, sông Hồng (Hà Nội) nhìn cảnh sông nước mênh mông, bốn bề bao vắng


lặng, nghĩ về một kiếp người trôi nôi, vô định, Huy Cận đã cảm tác nên bài thơ
này.

Thế loai: Thơ mới kết hợp Đường luật


Chủ đề: bài thơ là bức tranh tâm trạng của thi nhân với nỗi buồn mênh mang, xa
vắng, cô đơn, qua đó kín đáo toát lên lòng yêu nước, yêu quê.

II. Phân tích bài thơ:

1. Âm điệu của bài thơ , ý nghĩa câu đề từ và nhan đề bài thơ:
Bài thơ được viết theo âm điệu cùa thể thơ thất ngôn hài hoà giữa nhịp và thanh.
Nhịp thơ 2/2/3 hoặc 4/3.

Thanh điệu: dựa trên nền thanh điệu bằng/trắc của thể thơ cổ. Cách sáng tạo từ láy
nguyên âm (điệp diệp, song song). Cách sắp xếp ngôn từ theo nguyên tắc song
song trùng điệp (nắng xuống, trời lên, hàng nối hàng)

Âm điệu chung của bài thơ là mênh mang, xao xuyến, rong ruỗi triền miên, tựa
như nhịp trôi chậm chạp vô hình cùa dòng thời gian. Âm điệu ấy rất phù hợp với
tâm trạng buồn bã, sầu não, cô đơn, bơ vơ, hiu quạnh.

Câu thơ đề từ: Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài có thể được hiểu theo hai
nghĩa:


– Chủ thể là con người: con người bâng khuâng, nhớ nhung trước trời rộng, sông
dài; hoặc do bâng khuâng trước trời rộng mà thấy nhớ sông dài.

– Chủ thể là tạo vật: trời rộng bâng khuâng nhớ sông dài.

Cái độc đáo của câu thơ đề từ là sự giao thoa giữa hai nghĩa. Con người nặng trĩu
nhớ nhung mà sông núi đất trời cũng tràn ngập bâng khuâng.


Tựa đề gây một ấn tượng sâu sắc. Tràng giang chứ không phải trường giang hay
sông dài. Nếu dùng hai tiếng nôm na thuần Việt không có được cái sắc thái trừu
tượng, cổ xưa. Với âm Hán Việt, con sông tự nhiên rộng hơn, mênh mông hơn,
vĩnh cửu hơn trong tâm tưởng người đọc.

2. Cảnh trời rộng sông dài và tâm trạng đìu hiu, lạc lõng (khổ 1)
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Hai câu đầu đặc tả cái mênh mang của con sông lớn:

“Sóng gọn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song… ”


Từ “tràng giang” (láy âm), với âm “ang” liên tiếp, êm êm lặng lẽ gợi xúc cảm hoài
cổ, nỗi buồn triền miên. Đồng thời gợi hình ảnh một con sông dài và rộng. Từ láy
“điệp điệp” vẽ nên nỗi buồn da diết. Cái buồn trong lòng lan tỏa ra theo những gọn
sóng nhỏ nhấp nhô. Cũng với nỗi buồn ấy, tác giả thả trôi theo con thuyền xuôi mái
lặng lẽ để lại sau lưng mình hai rẽ nước song song.

Hình ảnh đổi lập giữa sông dài trời rông và con thuyền lẻ loi gợi về hình ảnh con
người nhỏ bé cô đơn trước sông nước mênh mông.

Ở hai câu thơ sau, nỗi buồn được thể hiện sâu sắc hơn:

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.


“Thuyền về” trái ngược với “nước lại”. Lại thêm cách nói thậm xưng “sầu trăm
ngã” (thậm xưng) miêu tả nỗi buồn biệt li bất tận của con người trướng quang
cảnh.

Phép nhân hoá (củi lạc, nước sầu) diễn tả sinh động tâm trạng con người. Hình ảnh
“củi một cành khô lạc mấy dòng” được dùng thật sáng tạo. Câu thơ vừa gợi hình,
vừa gợi cảm. Hình ảnh cành củi khô trôi nổi, dập dềnh trên sóng nước đã gợi lên
biết bao suy nghĩ. Nhìn đâu tác giả cũng thấy một nỗi buồn len lõi trong tâm hồn.

Một cành cùi khô đơn độc, không còn sức sống giữa bát ngát tràng giang mặc cho
con sóng vô tình vùi dập, khiến nhà thơ liên tưởng về một kiếp người cô đơn, nhỏ
bé, bất lực, mòn mỏi giữa sóng gió cuộc đời. Hình ảnh đối lập: một cành với mấy
dòng khiến cho con người trở nên nhỏ bé trước không gian bao la, không định
hướng giữa cuộc đời.


—> Miêu tả hiện thực bức tranh sông nước, suy nghĩ về một kiếp người vô định
mong manh, khổ thơ mang hơi hướng một tứ thơ cổ nhưng được thể hiện hết sức
mới mẽ, gợi lên một cách cụ thể cái tôi cô đơn của số phận con người trước thời
cuộc.

3. Nỗi buồn lan tỏa trong không gian ba chiều bất tận của sông dài, trời rộng (khổ
2):
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.

Không gian buồn như được mở ra, nỗi buồn thấm sâu vào cảnh vật. Bắt đầu từ

dòng sông lan tỏa sang đôi bờ, rồi vút lên bầu trời xanh thẳm:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió dìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Cặp từ láy “lơ thơ”, “đìu hiu” gợi sự buồn bã, quạnh vắng cô đơn. Bức tranh thiên
nhiên được vẽ thêm đất, người nhưng chỉ gợi thêm không khí tàn tạ, vắng vẻ, một
vùng đất heo hút, thiếu vắng cuộc sống con người.

Không gian đìu hiu, quạnh quẽ không có bóng người, không cả tiếng người từ xa
vẳng lại, chỉ còn cảnh vật, đầt tròi mênh mông, xa vắng…


“Nắng xuống trời lên sâu chót vót…”

Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy
cao thêm. Hình ảnh đối lập: nắng xuống với trời lên khiến không gian mở ra cả ba
chiều bất tận, khiến con người rợn ngợp.

Tác giả nhìn bầu trời qua mặt nước sông Hồng. Chiều cao của đỉnh trời thành chiều
sâu cùa vũ trụ. Chính chiều sâu ấy gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun
hút khôn cùng. “Chót vót” khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng,
càng cao, càng sâu thì cảnh vật càng thêm vắng lặng. Chỉ có sông dài, trời rộng,
bến cô liu hòa điệu trong nỗi u buồn mênh mang, bất tận.

Nỗi buồn thấm vào không gian. Con người trở nên nhỏ bé, có phần như bất lực
trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái
mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh)

4. Cuộc đời nổi trôi vô định (khổ 3)

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.


Vẫn trong mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, nỗi buồn càng được khắc
sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh, gợi ấn tượng về sự mong
manh, trôi nổi, vô định của một đời người, kiếp người.

Tính từ “mênh mông”, “lặng lẽ” gợi không khí vắng vẻ, u buồn. Điệp từ “không”
nhấn mạnh thêm cảnh mênh mông buồn vẳng. Không một con đò, không một cây
cầu nghĩa là hoàn toàn không có một bóng người hay một cái gì gợi sự giao tiếp
hay gặp gỡ, kết nối với nhau. Toàn cảnh sông dài trời rộng, tuyệt nhiên không có
bóng con người mà chi có thiên nhiên (bờ xanh) nối tiếp thiên nhiên (bãi vàng) xa
vắng, hoang vu. Một bên còn đang tươi trẻ (xanh), một bên đã héo úa, tàn phai
(vàng). Trong bức tranh này dường như chỉ có sự ngự trị tuyệt đối của một thiên
nhiên cổ sơ, lặng lẽ. Trước một tạo vật như thế, cái tôi thi sĩ làm sao tránh khỏi
cảm giác bơ vơ, lạc lỏng và tủi sầu.

5. Cảnh chiều buông xuống trên dòng sông và tâm sự nhớ nhà của tác giả (khổ 4)”
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.
Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Nhà thơ mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường mà vẫn giữ được nét riêng biệt
và vẫn thể hiện khá rõ nét và độc đáo hồn thơ Huy Cận. Ở đây thiên nhiên tuy
buồn nhưng thật tráng lệ:


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chìm nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.


Thời gian biến chuyển, bóng chiều buông xuống, thiên nhiên buồn nhưng cũng thật
hùng vĩ. Mùa thu những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh
dương phản chiếu vào những đám mây trắng, phản chiếu lấp lánh như những núi
bạc.

Trước cảnh sông nưoc mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim
bé nhỏ, chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn
lẻ giữa buối chiều tà dễ gợi lên nỗi buồn xa vắng, cô đơn.

Hình ảnh đối lập giữa lớp lớp mây cao với chim nghiêng cánh nhó khiến cho cái vô
hạn trở nên rộng lớn không cùng – cái hữu hạn nhỏ nhoi. Điều ấy cũng là tương
quan giữa con người và cuộc đời. Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ bao la,đang
bơ vơ giữa dòng đời vô định.

Nhà thơ kết thúc bài thơ bằng một tứ thơ Đường mang phong vị cổ điển:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Từ láy “dợn dợn” diễn tả sự chập chờn sóng nước, gợi tâm trạng nhớ quê (bồn
chồn, lo lắng, xao xuyến, bâng khuâng).

Câu thơ cuối có tứ thơ bắt nguồn từ câu thơ cổ cùa Thôi Hiệu:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.



(Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu)

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai?)

Thế nhưng, hơn cả Thôi Hiệu, Huy Cận không cần khói sóng trên sông vẫn nhớ
quê da diết bởi nỗi nhớ ấy quá da diết, thường trực và cháy bỏng hơn.

Với nỗi cô đơn khi đứng trước cái mênh mông cùa vũ trụ, con người thường có
nhu cầu tìm về sưởi ấm cõi lòng trong khung cảnh quen thuộc, đầm ấm của quê
hương

Kết luận:
“Tràng giang” là một bưc tranh tuyệt bích với những chi tiết chọn lọc, hình ảnh gợi
cảm gây ấn tượng sâu sắc về một tâmtrạng lạc lõng, cô đơn của kẻ xa xứ cố
hương. “Tràng giang” mang nỗi sầu từ vạn cổ của con người nhỏ bé hữu hạn trước
thời gian, không gian vô hạn của đất trời. “Tràng giang” đồng thời thể hiện nỗi
buồn thế hệ của một cái tôi thơ Mới thời mất nước chưa tìm thấy lối ra.

Ở “Tràng giang” ta bắt gặp hình ảnh quen thuộc trong thơ cổ (tràng giang, bờ bãi
đìu hiu, cánh chim trong bóng chiều, khói hoàng hôn…). Nhiều hình ảnh, tứ thơ
được gợi lên từ thơ cổ (lớp lớp mây cao…). Mặt khác, “Tràng giang” cũng không
thiếu những hình ảnh, âm thanh chân thực của đời thường, không ước lệ (củi khô,
tiếng vãn chợ chiều…).“Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển qua việc vận
dụng nhuần nhuyễn thể thơ bảy chữ với cách ngắt nhịp, gieo vần, cấu trúc đăng
đối, bút pháp tả cảnh ngụ tình, gợi nhiều hơn tả, những từ Hán Việt cổ.



Song “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng bày trực tiếp cái tôi trữ tình
(buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhá) qua những từ
ngữ sáng tạo mang dấu ấn cảm xúc cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân
mật, dợn dợn).

“Tràng giang” của Huy cận không chỉ là một bức tranh phong cảnh mà còn là một
bài thơ về tâm hồn. Bài thơ thể hiện nỗi buồn cô đơn trước vũ trụ, trước cuộc đời,
luôn luôn khao khát hoà hợp cảm thông trong tình đất nước, tình nhân loại.

Từ đề tài, cảm hứng, chất liệu đến giọng điệu, bút pháp, “Tràng giang” vừa mang
phong vị thi ca cổ điển, vừa mang chất liệu hiện đại của thơ. Vẻ đẹp ấy cũng là nét
đặc trưng của phong cách Huy Cận.



×