Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Phân tích sóng của nhà thơ xuân quỳnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.35 KB, 10 trang )

Phân tích Sóng của nhà thơ Xuân Quỳnh
Mở bài:
Xuân Quỳnh được xem là một trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong
nền thơ Việt Nam sau 1975. Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh vừa nồng nhiệt, táo
bạo, vừa thiết tha, say đắm, dịu dàng, hồn nhiên giàu trực cảm mà lắng sâu những
trải nghiệm suy tư. Là một người phụ nữ đa cảm, nên thơ Xuân Quỳnh thương
hướng đến hạnh phúc đời thường. Bài thơ Sóng là tiếng lòng thiết tha của người
phụ nữ trước cuộc đời được sống, được yêu đúng nghĩa, chân thành và thủy chung.

Thân bài:
Trước hết, đọc thơ Xuân Quỳnh ta sẽ thấy đó là một tâm hồn rất thành thật, giàu
đức hi sinh và lòng vị tha. Ở Xuân Quỳnh, khát vọng sống, khát vọng yêu chân
thành, mãnh liệt luôn gắn liền với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ, cùng với
những dự cảm về bất trắc. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ
nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành đằm thắm và luôn da diết
trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường. Ở sắc thái, cung bậc nào thơ
Xuân Quỳnh cũng nồng nàn sôi nổi, chân thành say đắm.

Bài thơ Sóng sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thực tế của vùng biển Diêm Điền
(Thái Bình). Đây là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách
thơ Xuân Quỳnh

Thành công đầu tiên của bài thơ là tác giả đã lựa chọn một thể thơ có thể tạo ra âm
điệu dìu dặt không ngừng thôi thúc vào lòng người đọc. Đó là âm điệu của những
con sóng trên biển cả. Và sâu xa hơn chính là âm điệu của những con sóng lòng
với nhiều cung bậc, sắc thái, cảm xúc trong trái tim nữ thi sĩ. Âm điệu của một nỗi
lòng đang tràn ngập, khát khao, đang rạo rực tình yêu. Trái tim ấy đang rung lên
đồng điệu, hoà nhịp với sóng biển. Nỗi khao khát ấy mãnh liệt đến mức không còn
thấy đâu là nhịp điệu của sóng biển, đâu là nhịp điệu tâm hồn thi sĩ. Âm điệu đó
được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ và phương thức tổ chức ngôn



từ, hình ảnh. Thể thơ năm chữ cùng với sự linh hoạt, phóng túng khi ngắt nhịp,
phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp sóng biển (và cả sóng lòng nữa) khi dịu êm,
khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.

Xuân Quỳnh đã mượn nhịp Sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong một
tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định mà đầy
biến động, khao khát. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu
đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó
của sóng

Hình tượng bao trùm toàn bộ bài thơ là hình ảnh ẩn dụ: Sóng để nói đến tình yêu:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ

Hình ảnh sóng trong trạng thái đối lập. Có lúc nó thật dữ dội, khi lại rất dịu êm. Có
lúc nó trở nên ồn ào, khi lại vô cùng lặng lẽ, đằm sâu.

Sóng được miêu tả cụ thể, sinh động, với nhiều trạng thái mâu thuẫn, trái ngược
nhau. Đây cũng chính là cơn sóng lòng với nhiều cung bậc, sắc thái, cảm xúc trong
tâm hồn người con gái đang yêu:

Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể


Với nghệ thuật nhân hoá, con sóng vượt qua không gian chợt tìm đến cái bao la
của biển cả. Trái tim người con gái đang yêu cũng vậy, nó không chịu chấp nhận sự
tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao để đồng cảm, đồng điệu với khát

vọng khám phá mình. Nó khát khao tìm đến những chân trời đích thực của tình yêu
vĩnh hằng. Đó là một lối liên tưởng rất thực và cũng rất thơ.

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế

Biện pháp đối lập giữa ngày xưa và ngày sau, phép liên kết thế đại từ “thế” khẳng
định sự vĩnh hằng của những con sóng từ ngàn, triệu năm qua. Đó cũng là sự vĩnh
hằng của tình yêu, của một khát vọng cháy bỏng trong trái tim con người

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Khát vọng mãnh liệt về tình yêu luôn luôn thường trực, bồi hồi trong trái tim tuổi
trẻ, nhất là tình yêu lứa đôi. Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn
nhẫn nhục, cam chịu nữa. Nếu Sông không hiểu nổi mình thì Sóng dứt khoát từ bỏ
nơi chật hẹp đó để tìm ra tận bể để đến với cái cao rộng, bao dung với khát vọng và
kiếm tìm.

Có thể thấy ngay trong khổ thơ đầu này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình
yêu của Xuân Quỳnh. Nhà thơ ủng hộ cho sự chủ động của người con gái khi yêu.
Chủ động ở đây không phải là ngỏ lời mà chủ động vươn tới cái cao cả, cái lớn lao.
Nỗi khát vọng tình yêu, rạo rực trong trái tim của Xuân Quỳnh, cũng là khát vọng
muôn đời của nhân loại, mà mãnh liệt nhất là tuổi trẻ. Đó là khát vọng có tính vĩnh
hằng theo thời gian.


Đối diện với một hình tượng quá lớn về kích cỡ và phức tạp về quy luật vận động,
nhà thơ bắt đầu đi tìm kiếm nguồn cội khởi nguyên của nó. Thế nhưng, càng tìm
kiếm càng thấy khó hiểu hơn


Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biền lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Có người nói khi trái tim có một tình yêu lớn, người ta thường tìm đến với cảnh vật
rộng lớn. Có lẽ, chỉ có biển cả mới chứa hết được tình yêu đắm say của nữ sĩ dành
cho cuộc đời và con người. Trái tim nhỏ bé ấy lúc nào cũng rạo rực, nồng say. Tác
giả llí giải quy luật xuất phát của sóng là từ gió, còn gió từ đâu? Câu trả lời nằm
trong vô vọng, ngoài sự hiểu biết:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
hi nào ta yêu nhau

Những câu hỏi không có lời giải đáp cũng như một tình yêu đích thực, không thể
giải thích được, không thể truy nguyên được nguồn gốc. Điều đó chứng tỏ sự bí ẩn,
diệu kì, sức hấp dẫn, mời gọi của tình yêu muôn thuở. Càng bí ẩn càng khơi gợi
khát khao kiếm tìm, khám phá, càng háo hức yêu và yêu cuồng nhiệt hơn.


Thế nhưng, tác giả không thể chấp nhận điều mơ hồ ấy và vẫn đi tìm sự lí giải của
riêng mình. Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách: hạt nhân của tình yêu
là nỗi nhớ:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức.

Con sóng dù ở trạng thái nào (dưới lòng sâu hay trên mặt nước), dù ở thời gian nào
(ngày hay đêm) đều nhớ bờ da diết. Tình yêu cũng thế, dẫu ngày hay đêm, dẫu gần
hay xa đều gây ra cảm giác nhớ nhung, bồi hồi, vẫn hướng về nhau. Điệp từ “nhớ”
được lặp lại nhiều lần, nhân hóa “sóng nhớ bờ…không ngủ được” diễn tả một nỗi
nhớ thật mãnh liệt, da diết, thường trực cả khi thức, khi ngủ, bao trùm lên cả không
gian và thời gian của nhân vật trữ tình:

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Phép đối xuôi và ngược, Bắc và Nam diễn tả nỗi vất vả, gian truân trong tình yêu.
Điệp từ “dẫu” khẳng định tấm lòng thủy chung, son sắt. Sóng chỉ có một đích đến
là bờ, em chỉ có điểm đến duy nhất là phương anh dù cuộc đời nhiều trái ngang.


Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở

Đến đây, mạch thơ trở nên mạnh mẽ, nhịp thơ chậm rãi hơn. Đó như một lời khẳng
định chắc chắn tấm lòng son sắt thuỷ chung, trong sáng quyết vượt qua mọi cản
ngăn trong tình yêu. Đó là suy nghĩ của một tâm hồn cao thượng.


Tình yêu là một hiện tượng tâm lí khác thường, đầy bí ẩn không thể truy nguyên
được khởi nguồn của nó, về thời điểm bắt đầu của một tình yêu. Đó là điều mà
trước đó nhà thơ Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” thì nay
Xuân Quỳnh lại bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng như
sóng biển, như gió trời: cũng tự nhiên, hồn nhiên, khó hiểu, nhiều bất ngờ thì làm
sao có thể giải thích được nguồn gốc của nó. Đây là một cách cắt nghĩa rất Xuân
Quỳnh. Một cách cắt nghĩa nữ tính và trực cảm.

Qua hình tượng sóng và em, Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo. Cô
không hề giấu giếm khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt, thiết tha, nồng nàn của
mình, một người phụ nữ. Biều hiếm thấy trong văn học Việt Nam trước đó.

Nhà thơ Lưu trùng Dương trong bài Nói với người yêu từng bộc bạch:

Anh yêu em vì sao không biết rõ
Chỉ biết yêu em, anh thấy yêu đời


Và cũng có người:

Anh yêu em như yêu đất nước
Vất vả, gian lao tươi thắm vô ngần

Họ yêu nhau nhưng hỏi :Tình yêu bắt đầu từ đâu? Và tình yêu là gì? Thì có biết
bao cách trả lời

Sau bao nhiêu lí giải, cuối cùng, nhà thơ trở về với sự chiêm nghiệm cuộc đời và
khát vọng được sống hết mình trong tình yêu:

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Nhịp thơ lắng xuống, hình ảnh thơ mở ra (đi qua, biển dẫu rộng, bay về xa) như
mang đến những dự cảm, sự khắc khoải lo âu, nhận thức và thấm thía sự hữu hạn
của kiếp người, giữa cái vô cùng, vô tận của thời gian:

Làm sao được tan ra


Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

“Tan ra’ không phải để mất đi mà hoà giữa cái chung và cái riêng. Các từ chỉ số
lượng lớn phơi bày một nỗi khát vọng hoà nhịp tình yêu của mình với tình yêu
nhân loại, khát vọng về sức sống của tình yêu với muôn thuở. Đó là một tình yêu
say đắm chân thành và khát vọng trường tồn. Cách duy nhất để tình yêu trường tồn
với thời gian, để trái tim yêu được đập mãi đó là “tan ra thành trăm con sóng nhỏ” .
Xuân Quỳnh khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hoá thân vĩnh
viễn thành tình yêu muôn thuở. Hay nói như Shiller: “Tình yêu chân chính không
bị mài mòn bởi thời gian, cũng không thể đổi thay bởi hoàn cảnh”

Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không thể nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn
cuộn,dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong
suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, và dào dạt, náo nức và mãnh liệt nhất
là ở đoạn thơ này.

Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà nhà thơ đã từng nếm trải sự đổ

vỡ trong tình yêu. Song người phụ nữ hồn nhiên, tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ
biết bao hi vọng, vẫn phơi phới một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Tương
lai như đang còn ở phía trước đối với Xuân Quỳnh. Tình yêu là một tình cảm cao
đẹp, một hạnh phúc lớn lao, có sức mạnh làm trong sạch tâm hồn của con người.

Thành công của bài thơ là tạo ra âm điệu phù hợp giưa hai hình tượng sóng và tình
yêu trong em. Thể thơ năm chữ có khả năng gợi âm điệu dạt dào, vừa là cái nhịp
nhàng của sóng biển, vừa là cái khắc khoải của sóng lòng với nhiều cung bậc cảm
xúc. Kết hợp với phương thức tổ chức ngôn từ, hình ảnh sáng tạo hòa trộn thanh
âm, nhịp điệu của sóng với những trăn trở, khát khao, nhớ thương, hờn giận đan


xen nối tiếp trong cõi lòng của người con gái khi yêu cũng tạo nên một yếu tố nhạc
tính của thơ.

Cách sử dụng hình tượng ẩn dụ sóng đa nghĩa là một sáng tạo độc đáo của Xuân
Quỳnh,khiến lời thơ vừa thực, vừa lãng mạn. Sóng như có hồn, có tính cách, tâm
trạng, gợi đến sự phong phú trong tâm hồn ng con gái khi yêu – vừa say đắm vừa
tỉnh táo, vừa nồng nhiệt vừa âm thầm, lúc sôi mãnh liệt, lúc lại kín đáo, sâu sắc.

“Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”. Điều đó thật đúng với bài
thơ Sóng. Thơ Xuân Quỳnh rất ít triết lí mà thường nghiêng về duy cảm. Nó được
viết bằng cảm xúc chân thật của một người phụ nữ, người vợ với bao lo toan
chuyện cơm áo gạo tiền thời chiến tranh.

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình tượng sóng:
tình yêu thiết tha, nồng nàn,đầy khát vọng và sắc son chung thủy, vượt lên mọi giới
hạn của đời thường. Tuy có chút triết lí nhưng đó là triets lí của trái tim người phụ
nữ luôn muốn đi đến tận cùng của tình yêu để tìm kiếm giá trị chân, thiện, mĩ trong
cuộc đời hữu hạn này:


Lấy thời gian em viết những dòng thơ
Để thấy được chúng mình không cách trở
Bàn tay em, gia tài bé nhỏ,
Em trao anh cùng với cuộc đời em.

Kết bài:


Sẽ không thể có được một tình yêu đích thực nếu trái tim không có những tình cảm
chân thực. Sóng là một cuộc tìm kiếm không có điểm dừng, không có hồi kết. Nó
mãi mãi lan tỏa trong trái tim của muôn thế hệ cho đến khi nào trái tim nhân loại
ngừng đập, tình yêu trên mặt đất không còn nữa. Với bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh đã
góp một tiến nói trong trẻo, đắm say về tình yêu như một định nghĩa về suwjj vận
động phúc tạp trong cảm xúc của con người.



×