Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài tây tiến của nhà thơ quang dũng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (35.95 KB, 10 trang )

Vẻ đẹp bi tráng của người lính trong bài Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
Mở bài:
Chiến tranh đã lùi xa nhưng áng thơ đẹp lấy cảm hứng từ hiện thực của cuộc chiến
đấu cũng như hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ vẫn còn sống mãi với thời gian mà suốt
cuộc đời sau này không dễ vượt qua. Trong số đó, đặc biệt nói lên là bài thơ Tây
Tiến của Quang Dũng. Tây Tiến được viết năm 1948, trong Những năm tháng
chống Pháp gian khổ với tên ban đầu là Nhớ Tây Tiến. Cho dù sau này nhà thơ cắt
bớt chữ “nhớ” trong nhan đề nhưng bao trùm lên tất cả vẫn là nỗi nhớ của nhân vật
trữ tình. Nổi nhớ hiện lên là thiên nhiên Tây Bắc dữ dội nhưng cũng đầy nên thơ,
về hình ảnh đoàn binh Tây Tiến, những con người xuất thân từ thủ đô hoa lệ sẵn
sàng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Bức tượng đài của những người chiến sĩ
đây heo hôn nhưng cũng rất hào hoa ấy được nhà thơ khắc họa qua đoạn thơ:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
(…………………………..)
Sông Mã gầm lên khúc độc hành…

Thân bài:
Hai câu thơ đầu, Quang Dũng đã tập trung miêu tả hình dáng bên ngoài của những
người lính Tây Tiến cuộc đời sống chiến đấu gian khổ của họ. Ra đi trong những
ngày đầu cuộc kháng chiến, những người lính Tây Tiến nói riêng và những anh bộ
đội Cụ Hồ trong ngày ấy nói chung phải chịu rất nhiều thiếu thốn về vật chất, lại
phải hành quân suốt những đêm dài. Vì vậy, các anh thường bị mắc phải căn bệnh
sốt rét nơi rừng thiêng nước độc. Hiện thực của cuộc sống Dương Đức và Văn
Chương như một quy luật tất yếu bởi “nhà văn là thư kí trung thành với thời đại”
(Ban -dắc). cũng có không ít những vần thơ ghi lại hiện thực đời sống chiến đấu
của những người lính:

Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh



sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
(Đồng chí- Chính Hữu)

Có khi, căn bệnh sốt rét rừng lại hiện ra tô màu da vàng nghệ của anh vệ quốc
quân:

Giọt giọt mồ hôi rơi
trên má anh vàng nghệ
anh Vệ Quốc Quân ơi
sao mà yêu anh thế
(Cá nước – Tố Hữu)

Song, tất cả những hình ảnh này đều được thể hiện qua bút pháp hiện thực cách
mạng. Với Quang Dũng, cùng viết về người lính trong giai đoạn này, cùng là căn
bệnh sốt rét rừng nhưng nhà thơ không nhìn dưới tâm hồn hiện thực mà nhìn nó
dưới cái nhìn lãng mạn hiện thực. Vì vậy mà có lẽ chưa có vần thơ nào ấn tượng
như vần thơ Quang Dũng với những hình ảnh độc đáo “không mọc tóc”, “xanh
màu lá”:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
quân xanh màu lá dữ oai hùm

Thực sự do căn bệnh sốt rét mà những người lính Tây Tiến đã bị rụng tóc. Ở đây,
nhà thơ đã sử dụng phép đảo ngữ “không mọc tóc”, biến cái bị động thành có chủ
động. Hiện thực khốc liệt ấy được tái hiện qua tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng
nên cái đầu không có tóc của anh lính Tây Tiến lại môn địa phong lẫm liệt khác


thường. Do thiếu thốn về vật chất, lại bị căn bệnh sốt rét rừng hành hạ mà những
người lính da xanh vàng vọt. Tâm hồn lãng mạn của Quang Dũng “màu xanh đó”

để trở thành màu xanh của lá ngụy trang, màu xanh của rừng bạt ngàn.

Chất lãng mạn của Quang Dũng quả thực không phải là cái lãng mạn tô hồng hay
bôi đen cuộc sống, không phải thứ lãng mạn thoát ly cuộc đời như Nam Cao để
từng kịch liệt phê phán trong tác phẩm Giăng Sáng (1943): “Chao ôi, nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối,
nghệ thuật chỉ có thể là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”.

Đó là chất lãng mạn cách mạng, lãng mạn lý tưởng. Nhờ có cái lãng mạn đó mà
người lính Tây Tiến hiện lên trong thơ Quang Dũng như mãnh hổ “dữ oai hùm”.
Nó chế ngự cái khắc nghiệt của thiên nhiên rừng núi Tây Bắc. Nó làm cho quân
thù phải khiếp sợ. Tuy rằng dân khổ, thiếu thốn, chấp nhận hy sinh nhưng vượt lên
trên tất cả, họ vẫn giữ được cái hào hùng của người lính trẻ.

Nếu hai câu thơ đầu, Quang Dũng khắc tạo trước mắt người đọc hình dáng bề
ngoài của người lính Tây Tiến thì hai câu thơ sau, nhà thơ lại lách sâu ngòi bút của
mình để mô tả đời sống nội tâm của các anh. Những người lính cụ Hồ xuất thân từ
những hoàn cảnh khác nhau, đến từ mọi phương trời:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi, đôi người xa lạ
từ phương trời chẳng hẹn quen nhau
(Đồng chí- Chính Hữu)


Nếu những người lính xuất thân từ đồng ruộng nông thôn ra đi, bỏ lại đằng sau
“gian nhà không mặc kệ giờ lung lay”, bỏ lại những “luống cày đất đỏ” thì khi nhớ
về quê hương, nỗi nhớ của họ cũng chân chất hồn quê. Đêm đêm, họ không nguôi
nhớ về:


Mái lều tranh
tiếng mõ đêm trường
luống cày đất đỏ
ít nhiều người vợ trẻ
mòn chân bên cối gạo cảnh khuya
(Nhớ- Hồng Nguyên)

Hay họ còn nhớ về cảnh tiễn đưa:

Xóm dưới làng trên
con trai con gái
nấm xôi cơm đùm
ríu rít theo nhau

Còn ở đây, những người lính Tây Tiến phần lớn là những thanh niên trí thức Hà
Thành. Theo tiếng gọi của đất nước, họ đã ra đi, đến chiến trường và mang theo cả
cái lãng mạn hào hoa vốn có. Do vậy, khi nhớ về quê hương, nhớ về Hà Nội, nỗi
nhớ ấy có phần lãng mạn hơn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Quang Dũng đã thể hiện một chất lính rất thực hình ảnh của người lính. Đây là
những thanh niên Hà thành một thời kỳ được ngồi trên ghế nhà trường. Tâm hồn
họ thấm đẫm áng văn chương cổ. Nhớ Về Hà Nội, xem Hà Nội như một “dáng
kiều thơm” đầy mơ mộng .Những tình cảm rất mơ mộng ấy là động lực nâng đỡ
tinh thần người lính, tiếp sức cho họ trong cuộc chiến đấu.


Vẻ đẹp của khổ thơ này còn được kết tinh của thủ pháp nghệ thuật đối lập. điều
này được thể hiện qua hình ảnh “mắt trừng gửi mộng”. “Mắt trừng” vốn là tiền về
phía quân thù để canh chừng, cảnh giác, nêu cao quyết tâm chiến đấu, mong ước
chiến tranh đều được thể hiện qua ánh mắt tử- một ánh mắt đầy giận dữ, nảy lửa,
áp đảo kẻ thù. Nó mang vẻ dữ dằn, oai hùng đầy dũng khí. Còn “gửi mộng” là gửi
những lý tưởng, những ước mơ, những mộng ước chiến tranh.

“Mộng” và “Mơ” được họ gửi về hai phương trời. “Mộng” giết giặc gửi qua biên
giới sang bạn Lào, còn “mơ” về “dáng kiều thơm” được gửi về nơi Hà Thành mỹ
lệ.

Với bốn câu thơ cùng với nền hiện thực và cái nhìn đa chiều, Quang Dũng đã vận
dụng để xây dựng một bức tường dài nghệ thuật sống động chân thực về hình
tượng anh bộ đội Cụ Hồ. Ẩn sâu trong vẻ bề ngoài oai hùng dữ dằn là một tâm hồn
khát khao yêu thương, một trái tim cháy bỏng căm hờn, một trái tim biết căm thù
quân xâm lược, một trái tim rực lửa anh hùng.

Sự kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp lãng mạn với vẻ đẹp bi tráng, hào hùng được tác
giả thể hiện rõ khi miêu tả tư thế ra đi và sự hi sinh của người lính Tây Tiến. Nếu
như bốn câu thơ đầu, Quang Dũng tập trung miêu tả cảnh sống thì bốn câu thơ sau
lại miêu tả cõi chết của những người lính Tây Tiến:


Rải rác biên cương mồ viễn xứ
chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Đã từng có một thời gian dài, người ta quan niệm thơ phản kháng chiến không nên

miêu tả, đề cập đến cái chết bởi người ta sợ sẽ làm ảnh hưởng đến ý chí, tinh thần
chiến đấu của người lính. Nhưng Quang Dũng đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật,
phản ánh mất mát hi sinh. Bởi vậy, những câu thơ này được xem là hiếm hoi.
Quang Dũng không chỉ một lần mà đã hai lần nhắc đến cái chết trong thơ này. Ở
đoạn trên, cái chết được hiện qua hình ảnh:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Có thể đây là một giấc ngủ của người lính tây tiến giữa hai giờ súng nổ cũng có thể
đây là sự ra đi vĩnh viễn của các anh. Đến đây, cái chết không chỉ còn là một nét tả
thực, cụ thể, không còn là một khoảnh khắc đau thương giữa đường hành quân mà
đã trở thành một giấc chiêm nghiệm. Hay nói cách khác, cái cụ thể đã được nâng
lên thành tầm khái quát. Những hình ảnh này gợi lên được vẻ đẹp của các anh bộ
đội cụ Hồ luôn coi cái chết nhẹ lông hồng:

Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng
lòng khỏe nhẹ anh dân quê sung sướng
ngửa mình trên liếp có ngủ ngon lành


và trong mơ thơm ngát lúa Đồng Xanh
(Trăng trối- Tố Hữu)

Cái bi của đoạn thơ được Quang Dũng gọi lên qua hình ảnh nấm mộ nơi rừng sâu
biên giới. Viết về cái bi nhưng không Quang Dũng đã khéo léo sử dụng hàng loạt
những từ Hán Việt để biến cái buồn ấy thành cái bi hùng, lẫm liệt, có sức mạnh
nâng đỡ tâm hồn. Câu thơ “rải rác biên cương mồ viễn xứ” gồm 7 âm tiết nhưng đã
có 5 âm tiết là những từ Hán Việt. Việc sử dụng hàng loạt những từ Hán Việt này
tạo sắc thái trang trọng thiêng liêng. Nó giúp giảm bớt đau thương và nâng làm cái

chết của những người lính.

Như vậy, nói về cái chết nhưng thơ Quang Dũng không gây cảm giác bây lụy mà
chỉ để lại trong lòng người cảm giác bi hùng, bi tráng . sự thật đáng sợ không làm
nhục nhuệ khí của những chàng trai Tây Tiến bởi hợp khát vọng lên đường đầy cao
đẹp của họ. với họ “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Hai chữ “đời xanh” gợi
lên cái tuổi trẻ với bao mộng đẹp, Ước Mơ, hoài bão lớn lao phảng phất trong
những vần thơ này có ảnh hưởng lãng mạn, hào hùng:

Đoàn Vệ Quốc Quân một lần ra đi
nào có sá chi đâu Ngày Trở Về.

Một khi đã cất bước ra đi, các anh chỉ biết hiến dâng cả thanh xuân của mình cho
đất nước:

Ôi! tổ quốc ta yêu như máu thịt


như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
ôi! tổ quốc nếu cần ta chết
cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.

Đó là thái độ của những con người đầy trách nhiệm khi tổ quốc lâm nguy. Ta bắt
gặp hình ảnh ấy qua tước thơ Trần Mạnh Hảo trong Trường Ca Đất Nước Hình Tia
Chớp:

Thế hệ chúng con ra đi như gió thổi
áo quân phục xanh đồng sắt với chân trời
cha kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai


Đoàn binh Tây Tiến trong chặng đường hành quân gian khổ phải đối mặt với bao
nhiêu thiếu thốn, gian nan, cho đến khi các anh nghệ vào lòng đất mẹ. Những thiếu
thốn ấy vẫn hiện qua hình ảnh thơ:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Câu thơ đầu có nhiều cách hiểu khác nhau. Có các kiểu Đây là hình ảnh chiếu
Thay áo bào. Nếu được hiểu theo cách này ta lại nhớ đến tứ thơ của Hoàng Lộc
trong bài Viếng bạn:

Ở đây không gỗ ván


vùi anh trong tấm chăn
của đồng bào Cửa Ngăn
Tặng tôi ngày phân tán.

“Áo bào” là một hình ảnh quen thuộc trong văn học cổ. Từ ngữ ấy được dụng sử
dụng để tải tạo một vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi hiện thực thiếu thốn nơi chiến
trường. Các tráng sĩ nơi xa trường khi hi sinh lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu
hãnh. Còn với người lính Tây Tiến, họ chỉ có tấm áo đơn sơ các anh vẫn mặt hàng
ngày. Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến đấu đầy gian khổ này, chiếc áo ấy sẽ là gì
nếu không phải:

Chiếc áo nâu ăn mặc đêm công đồn
chiếc áo nâu suốt một đời và rách
đêm cuối cùng anh cỡi lại cho con


Trong mắt Quang Dũng, chiếc áo đơn sơ ấy để trở thành tấm chiến màu xanh trộn
bột lấy thi thể những người quên mình vì nước. Khoác những tấm áo bên mình, các
anh đã trở về trong lòng đất mẹ, về với sự trường tồn bất tử. Đối với những người
lính Tây Tiến, họ chết nhưng không hết. Cái chết của họ đã giúp cho đồng đội
mình “nhằm thẳng quân thù mà bắn”:

Mai mốt bên cửa rừng
Anh có nghe súng nổ
Là chúng tôi đang cố
Tiêu diệt kẻ thù chung


Giây phút tiễn đưa các anh không chỉ có đồng đội mà còn có dòng sông Mã như
một nhân chứng lịch sử gầm lên những khúc bi ai. Tiếng gầm của dòng sông Mã
thiêng liêng là một âm hưởng hoành tráng. Đó là âm vang của sông núi, là điệu kèn
vĩnh viết, là khúc hát bi hùng tạo ra một nghi lễ trang trọng, thiêng liêng để tiễn
biệt các anh. Từ đây, các anh vĩnh viễn nằm lại bên dòng sông Mã cuồn cuộn chảy
về xuôi mang theo những truyền thuyết bất tử về người lính anh hùng. Trong hai
câu thơ cuối của đoạn thơ, con người bình thường đã được phản ánh bằng cảm
thức sử thi, thần thoại hóa và bất tử hóa.

Kết bài:
Có thể xem đoạn thơ trên là một trong những khúc đoạn hay nhất của bài thơ Tây
Tiến. Đoạn thơ đã góp phần xây dựng chủ đề về đề tài anh bộ đội Cụ Hồ trong thời
kỳ kháng chiến chống Pháp. Cái bi và cái hùng, cái hiện thực và lãng mạn, cái hào
hùng và hào hoa là chất liệu chủ yếu mà Quang Dũng đã sử dụng để miêu tả bức
tượng đài về người lính “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Ở họ anh lên một vẻ
đẹp lạ lùng, vừa mang chất nghệ sĩ lại vừa pha chất tráng sĩ thời xa xưa. Chính vì
đẹp ấy của người lính Tây Tiến để khiến bài thơ sau bao thăng trầm lịch sử vẫn còn
sống mãi và được khẳng định như một bài thơ không quên của thơ ca kháng chiến.




×