Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Giá trị nhân đạo trong truyện vợ chồng a phủ của tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (34.99 KB, 5 trang )

Giá trị nhân đạo trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài
Mở bài:
Tác phẩm Vợ chồng A Phủ không những thành công nhờ sự phản ánh hiện thực
cuộc sống một cách chân thực mà còn do truyện có giá trị nhân đạo sâu sắc sâu
sắc. Có cảm thông với số phận đau khổ của con người, Tô Hoài mới viết lên những
trang sách tố cáo mãnh liệt giai cấp thống trị, gây xúc động mạnh mẽ như thế. Nhà
văn thực sự đau xót trước nỗi khổ của người dân nghèo, đặc biệt là phụ nữ vùng
cao của trước Cách mạng. Người đàn bà đã làm “lễ trình ma” nhà chồng thì không
bao giờ thoát khỏi nhà ấy được nữa mặc dù phải chịu đau đến mức nào.

Thân bài:
Đối với Mị, cô tưởng chừng như đã hóa đá, dường như mọi cảm xúc khát khao đã
bị dập tắt từ lâu, nhưng nhà văn không để cho nhân vật của mình bị dồn đến bước
đường cùng. Nhà văn Tô Hoài tâm sự: “điều kì diệu là dẫu trong cùng cực đến như
thế nào, mọi thế lực của tội ác cũng không giết chết được sức sống con người”.
Ông luôn trăn trở khát vọng sống, khát vọng tự do của con người.

Có lẽ ở con người Mị, sự buồn tủi cam chịu chỉ là vẻ bề ngoài còn ở đáy sau tâm
hồn Mị, cô không chấp nhận cuộc sống khổ nhục hiện tại cho nên hành động ăn lá
ngón tự tử vừa biểu hiện sự chán nản, tuyệt vọng, vừa cho thấy sự căm tức cao độ,
sự phản kháng tất yếu của cô gái với cuộc sống ấy.

Ngay hành động uống rượu trong ngày Tết của Mị cũng có vẻ không bình thường:
“Mị lén lấy hũ rượu, cứ ừng ực từng bát”. Cô uống rượu mà như nuốt hận vào
trong lòng mình. Sức sống của con người nhiều khi đã phải tiềm ẩn trong cái tư thế
đó. Sức sống mạnh mẽ còn biểu hiện khá rõ trong tâm trạng yêu đời của Mị trong
đêm hội mùa xuân. Sự hồi tưởng ấy mạnh mẽ đến mức Mị đã quên đi cái thực tài
dầy đau khổ, cô quấn lại tóc với cái váy hoa, chuẩn bị đi chơi.


Thế nhưng ước muốn bình dị chính đáng ấy của Mị đã bị dập tắt bởi bàn tay tàn


bạo của A Sử. Tuy vậy, ngay cả khi bị trói, “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa mình đi
theo những cuộc chơi”. Sự tưởng tượng ấy là biểu tượng của một sức sống mạnh
mẽ, dữ dội.

Sức mạnh khiến Mị vượt qua nỗi sợ hãi cắt dây trói cho A Phủ xuất phát từ sự tự
thương mình, nhận ra những điểm giống nhau giữa mình và A Phủ, cô đồng cảm
chia sẻ với người cùng cảnh ngộ. Mị nhận ra bản chất độc ác của cha con nhà
thống lí “chúng nó thật độc ác” và sự bất công phi lí của A Sử phải chết “người kia
việc gì phải chết thế…!” Nhưng điều có ý nghĩa quyết định chính là lòng thương
người của Mị, nó khiến Mị vượt qua được nỗi sợ hãi cha con Pá Tra và “con ma
nhà thống lý” để cắt dây trói cho A Phủ.

Nhưng biểu hiện rõ nhất, cao nhất cho sức sống của Mị là hoạt động Mị cắt dây
trói cho A Phủ rồi cả hai người cùng bỏ trốn khỏi Hồng Ngài. Mới đầu thấy A Phủ
bị trói, cô thờ ơ vì trong nhà Pá Tra đã có quá nhiều cảnh ngang trái. Nhưng một
đêm kia, qua ánh lửa bếp, Mị nhìn sang thấy “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai
hõm má đã xám đen lại” của A Phủ thì Mị chợt nghĩ “mình có lúc cũng phải trói
đứng thế kia”.

Từ sự thương mình, Mị đồng cảm rồi xót thương cho cảnh ngộ của A Phủ. Đến lúc
ấy, có lẽ ở Mị đã xuất hiện cái cảm giác hạnh phúc được hi sinh vì người khác và
Mị đã cắt dây trói để cứu A Phủ.

Với hành động này, Mị đã vượt qua được nỗi sợ hãi đã ám ảnh cô suốt bao nhiêu
năm (nỗi sợ “con ma nhà thống lý”). Cô cắt dây trói cho A Phủ, đồng thời cũng cắt
bỏ sợi dây vô hình đã ràng buộc cuộc đời Mị bấy lâu nay.


Cũng với hành động này, cuộc đời Mị như bước sang một trang mới với nhiều hi
vọng, tin tưởng. Hành động dũng cảm ấy của Mị biểu hiện vẻ đẹp rực rỡ của một

tâm hồn cao cả và vị tha, đồng thời có ý nghĩa quyết định nhất đối với cuộc đời của
hai người. Khi thấy A Phủ bỏ trốn đến với cuộc sống tự do thì Mị bừng tỉnh, Mị
không muốn chết nữa, một niềm hi vọng và khao khát sống trổi dậy “rồi cô vụt
chạy ra theo A Phủ”.

Điều đó cũng có nghĩa là cô tự giải thoát cho cuộc đời mình. Hai con con người
cùng cảnh ngộ đã lẳng lặng dìu nhau xuống dốc núi, bỏ lại đằng sau một cuộc sống
tù đầy tủi nhục. Từ trong cái chết, họ vùng dậy để tìm lẽ sống và làm lại cuộc đời.

Tô Hoài không chỉ thể hiện niềm đồng cảm, thương xót trước cuộc đời của những
người dân lao động nghèo khổ miền núi mà còn nhận ra sức sống, sức phản kháng
mạnh mẽ của họ. Nếu như tác phẩm của nhà văn hiện thực trước Cách mạng kết
thúc một cách bi quan, ảm đạm thì ở tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài đã miêu
tả quá trình thức tỉnh quà giác ngộ đấu tranh của những người dân miền núi và
tương lai tươi sáng của họ.

Chạy trốn khỏi Hồng Ngài, Mị và A Phủ đến Phiềng Sa rồi được cán bộ A Châu
giác ngộ Cách mạng. Ở đây, hai người mới thực sự được sống cuộc sống tự do, họ
đã trở thành những người du kích dũng cảm, tự tin được đứng lên đánh lại kẻ áp
bức mình trong tư cách mình là con người, ý thức ấy mới thực sự có ý nghĩa nhân
đạo.

Nhìn nhận một cách tổng quát, giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ chồng A Phủ là
đã cho thấy cuộc đời tủi nhục của những người dân nghèo miền núi trong xã hội
thực dân nửa phong kiến. Có thể nói, qui luật bần cùng hóa con người, chà đạp lên
tự do, tình yêu, hạnh phúc và nhân phẩm của con người, là qui luật phổ biến ở cả
miền núi lẫn miền xuôi. Cũng chính qui luật ấy đã dẫn tới một qui luật khác: có áp


bức tất có đấu tranh, có những hành động dũng cảm chống lại hoàn cảnh khắc

nghiệt để tồn tại và vươn lên.

Còn giá trị nhân đạo của tác phẩm là ở chỗ Tô Hoài đã nhân danh con người và vì
quyền sống của con người mà tố cáo những thế lực đen tối đầy đọa họ. Hơn thế
nữa, ông đã bày tỏ niềm xót thương và đồng cảm chân thành trước những cuộc đời
đau khổ bất hạnh, đề cao phẩm chất tốt đẹp và khát vọng chân chính của những
con người bị đầy đọa, vùi dập nhưng vẫn vương lên không để số phận chôn vùi. Có
lẽ vì những giá trị đáng quí như thế nên truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã đứng
vững được trước những thử thách của thời gian và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc
yêu thích.

Tô Hoài có một vốn sống khá phong phú về cuộc sống và con người miền núi. Nhà
văn am hiểu khá tường tận những phong tục, tập quán cà cả tâm lí của những
người dân thuộc những dân tộc ít người ở miền núi. Chính vì thế, đã tạ nên những
trang viết chân thực và hấp dẫn. Sự hấp dẫn của truyện còn được thể hiện ở nghệ
thuật trần thuật của tác giả.

Đó là lối kể chuyện hết sức giản dị, không chạy theo những chi tiết li kì giật gân
mà vẫn có sức hút mạnh mẽ. Thành công của truyện được thể hiện rõ nét nhất
chính là nghệ thuật giới thiệu nhân vật, đặc biệt lá những trang viết diễn tả diễn
biến tâm trạng và hành động của Mị (trong đêm tình mùa xuân hay đêm cô cắt dây
trói cho A Phủ).

Những chi tiết trong truyện ngắn hết sức chọn lọc, tiêu biểu, đặc biệt là những chi
tiết có tính biểu tượng cao. Chẳng hạn, căn buồng của Mị lúc nào cũng tối tăm; từ
trong nhà nhìn ra không hề biết là sương hay là nắng; chi tiết về tiếng sáo được nhà


văn nhắc đi nhắc lại năm lần, ,mỗi lần nhắc lại gắn liền với sự phát triển và biến
đổi trong tâm trí tính cách nhan vật Mị.


Kết bài:
Nhà văn Tô Hoài có một tình cảm gắn bó, đồng cảm thực sự với những người dân
miền núi nghèo khổ trước Cách mạng. Bởi vậy, tác phẩm Vợ chồng A Phủ không
chỉ có giá trị hiện thực cao mà còn thấm được giá trị nhân đạo sâu sắc.



×