BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ KIỀU MY
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHU KỲ KINH TẾ, CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, VÀ
VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ NỢ CÔNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh, Năm 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VÕ KIỀU MY
MỐI QUAN HỆ GIỮA CHU KỲ KINH TẾ, CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, VÀ
VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ NỢ CÔNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH TÀI KHÓA
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GVHD: TS. Phạm Quốc Hùng
TP. Hồ Chí Minh, Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan Luận văn với đề tài: "Mối quan hệ giữa chu kỳ kinh doanh,
chính sách tài khóa, và vai trò của yếu tố nợ công trong việc thực hiện chính sách tài
khóa" là một công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tác giả, các tài liệu tham
khảo, số liệu thống kê, dữ liệu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng. Kết quả của Luận
văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào.
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TĂT
DANH MỤC CÁC HÌNH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC PHỤ LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .............................................................................................. 1
1.1 Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................................. 4
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5
1.4 Đóng góp của luận văn ............................................................................................ 5
1.5 Hạn chế của luận văn .................................................................................................. 6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ............ 7
2.1 Chính sách tài khóa .................................................................................................... 7
2.2 Chu kỳ kinh tế ......................................................................................................... 11
2.3 Cơ sở lý thuyết về mối tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế ...... 12
2.3.1 Kinh tế học vi mô ............................................................................................... 12
2.3.2 Tư tưởng của John Maynard Keynes ................................................................. 15
2.3.3 Các trường phái sau Keynes ............................................................................... 21
2.4 Tác động của yếu tố nợ công đến việc thực hiện chính sách tài khóa ..................... 26
2.5 Sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ ..................................... 27
2. 6 Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây................................................................... 29
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG PHÁP, MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ....................................... 33
3.1 Phương pháp nghiên cứu .......................................................................................... 33
3.2 Mô hình nghiên cứu đề xuất ..................................................................................... 36
3.3 Phạm vi thu thập dữ liệu ........................................................................................... 37
CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ....................................................................... 43
4.1 Kiểm định nghiệm đơn vị ......................................................................................... 43
4.2 Các quốc gia thực hiện chính sách tài khóa phản chu kỳ hay thuận chu kỳ ......... 43
4.3 Có phải lúc nào các quốc gia cũng thực hiện chính sách tài khóa phản chu kỳ kinh
tế, vai trò của yếu tố nợ công ...................................................................................... 48
CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ........................................................... 53
5.1 Kết luận .................................................................................................................... 53
5.2 Khuyến nghị, hàm ý chính sách ............................................................................... 55
5.3 Hạn chế của đề tài..................................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ
Diễn giải
CAB
Cân bằng tài khoản vãng lai
INF
Lạm phát
INT
Lãi suât cho vay thực
M2
Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền
OG
Chêch lệch so với sản lượng tiềm năng
PDB
Cân bằng tài khóa cơ bản
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1 Tác động của chính sách tài khóa lên thị trường hàng hóa và tiện tệ trong mô
hình IS-LM
Hình 3.1: Giá trị trung bình của các biến nghiên cứu: PFB, OG cho 51 quốc gia trong giai
đoạn 1991-2016
Hình 3.2 Cân bằng tài khóa cơ bản (PFB) trung bình cho toàn mẫu, các nước phát triển và
các nước đang phát triển trong giai đoạn 1991 - 2016
Hình 3.3 Chêch lệch so với sản lượng tiềm năng (OG) trung bình cho toàn mẫu, các nước
phát triển và các nước đang phát triển trong giai đoạn 1991 – 2016
Hình 3.4 Giá trị trung bình của các biến kiểm soát INF, CAB, M2 và INT của 51 quốc gia
trong giai đoạn 1991 – 2016
Hình 3.5: Tỷ lệ nợ công trung bình ở 51 quốc gia nghiên cứu trong giai đoạn 1991-2016
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 4.1: kiểm định nghiệm đơn vị của Maddala-Wu 1991 và Pesaran 2007. Kiểm định
giả thiết H0: bảng dữ liệu có nghiệm đơn vị.
Bảng 4.2 Kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế (OG
là biến đại diện cho biến chu kỳ kinh doanh được ước lượng bằng bộ lọc HP) (ước lượng
theo phương pháp two step GMM).
Bảng 4.3 Kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế (tỷ lệ
tăng trưởng GDP là biến đại diện cho biến chu kỳ kinh doanh) (ước lượng theo phương
pháp two step GMM).
Bảng 4.4 Kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế cho
các nước phát triển và đang phát triển (ước lượng theo phương pháp two step GMM).
Bảng 4.5 Kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế (OG
là biến đại diện cho biến chu kỳ kinh doanh được ước lượng bằng bộ lọc HP) cho hai
giai đoạn tăng trưởng nóng và suy thoái. (ước lượng theo phương pháp two step GMM).
Bảng 4.6 Kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế (tỷ lệ
tăng trưởng GDP là biến đại diện cho yếu tố chu kỳ kinh doanh) cho hai giai đoạn tăng
trưởng và suy thoái. (ước lượng theo phương pháp two step GMM).
Bảng 4.7 kết quả ước lượng tương quan giữa chính sách tài khóa, chu kỳ kinh tế (OG là
biến đại diện được ước lượng bằng bộ lọc HP) và yếu tố nợ công trong giai đoạn suy
thoái (ước lượng theo mô hình System GMM).
9
DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục A: danh sách các quốc gia nghiên cứu
Phụ lục B: thống kế các biến
Phụ lục C: thống kê mô tả các biến trong mô hình
1
CHU KỲ KINH TẾ, CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA, VÀ VAI TRÒ YẾU TỐ NỢ
CÔNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đối mặt với nhiều rủi ro đến từ việc quản lý chi
tiêu công yếu kém dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công ở các nước Châu Âu, thị trường tài
chính phát triển quá nóng với các sự bùng nổ công cụ cho vay dưới chuẩn bắt nguồn sâu
xa từ sự bất cân đối về nguồn vốn tín dụng toàn cầu tại Mỹ, hay sự leo thang trong cuộc
chiến tranh thương mại giữa hai nền kinh tế hàng đầu thế giới Hoa Kỳ và Trung Hoa có
thể dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu,
Chính phủ ở các quốc gia và các Ngân hàng trung ương có một số công cụ chính
sách quan trọng được sử dụng trong điều hành kinh tế vĩ mô gồm có chính sách tài khóa
và chính sách tiền tệ. Nếu các chính sách này được áp dụng thích hợp thì cả hai đều có
thể tạo nên tác động tương tự nhau nhằm kích thích kinh tế phát triển và góp phần kìm
hãm khi nền kinh tế đang trong chu kỳ tăng trưởng nóng. Sử dụng chính sách tài khóa
chính là việc các chính phủ áp dụng các công cụ như chi tiêu công và số thu từ thuế với
mục tiêu tác động lên nền kinh tế. Ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp từ việc sử dụng chính
sách tài khóa có thể tác động đến chi tiêu của các hộ gia đình, đầu tư tư nhân của các
doanh nghiệp, tỷ giá, các mức thâm hụt ngân sách nhà nước và có khi là cả các mức lãi
suất. Chính sách tài khóa gắn liền với trường phái Keynes, tên một nhà kinh tế học ở
nước Anh là John Maynard Keynes. Nhiều nghiên cứu của ông như “Lý thuyết tổng quát
về việc làm, lãi suất và tiền tệ” đã tác động đến các tư tưởng mới nhằm lý giải về cách
thức mà nền kinh tế đang vận hành và vẫn đang tiếp tục được nghiên cứu mãi cho đến
hiện nay. Phần lớn lý thuyết này của ông được ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng.
Nhưng cho đến nay lý thuyết của Keynes đã được vận dụng đúng cũng như bị sử dụng sai
nhiều lần, bởi vì nó khá là phổ biến và chỉ nên được áp dụng trong những trường hợp đặc
thù để giảm tác động bởi suy thoái kinh tế.
2
Nói một cách đơn giản hóa, các học thuyết kinh tế theo trường phái của Keynes đều
dựa trên lý luận rằng sự chủ động can thiệp của chính phủ là cách tốt nhất lèo lái kinh tế.
Điều này cho thấy rằng các chính phủ nên tận dụng các công cụ để gia tăng tổng cầu
trong nền kinh tế bằng cách gia tăng chi tiêu công và tạo nên môi trường để tiền tệ lưu
thông dễ dàng, nhằm kích thích kinh tế, tạo ra nhiều công ăn và việc làm đến cuối cùng
làm gia tăng của cải xã hội. Các trường phái dựa trên lý thuyết Keynes cũng cho rằng bản
thân chính sách tiền tệ cũng có những hạn chế và khiếm khuyết khi trong quá trình giải
quyết tình trạng khủng hoảng trên thị trường tài chính, do đó đã tạo nên những tranh luận
gay gắt trong cộng đồng các nhà kinh tế học theo trường phái Keynes và các nhà kinh tế
ủng hộ cho chính sách tiền tệ. Chính sách tài khóa cái mà đã được sử dụng thành công
trong suốt trong và sau thời kỳ Đại khủng hoảng nhưng các học thuyết Keynes đã tiếp tục
bị hoài nghi ở sau những năm 80 sau một khoảng thời gian dài được ưa thích.
Cũng như chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa được dùng để điều chỉnh sự gia
tăng hoặc suy giảm GDP, một chỉ số thể hiện sự tăng trưởng của nền kinh tế. Một khi các
chính phủ sử dụng quyền hạn như điều chỉnh giảm thuế hay lựa chọn gia tăng chi tiêu
công có nghĩa là chính phủ đang tiến hành mới lỏng chính sách tài khóa. Nếu chỉ nhìn từ
bên ngoài, bắt đầu từ những nỗ lực nới lỏng của các chính phủ có thể chỉ đem lại tác
động tích cực thông qua việc kích thích kinh tế nhưng những hiệu ứng domino tiêu cực
kèm theo lại có thể lớn hơn rất nhiều. Một khi tốc độ gia tăng chi tiêu công của chính phủ
lớn hơn tốc độ gia tăng nguồn thu từ thuế, nợ công sẽ bị tích lũy nhiều dẫn đên gia tăng
nợ công của quốc gia.
Ngoài ra khi các chính phủ tăng cường áp dụng biện pháp vay nợ bằng cách phát
hành trái phiếu để thực hiện chính sách nới lỏng tài khóa, việc phát hành trái phiếu chính
phủ sẽ phải cạnh tranh với khu vực tư nhân. Hiệu ứng này được gọi tên là hiệu ứng “chèn
lấn” (crowding out) có thể đưa đến tác động xấu làm gia tăng các mức lãi suất gián tiếp
trên thị trường vì chính phủ phải gia tăng cạnh tranh để có được nguồn tài chính. Trong
trường hợp khả thi các biện pháp kích thích kinh tế như gia tăng chi tiêu công mới đầu có
thể tạo nên một số tác động tích cực ngắn hạn, một phần không nhỏ của yếu tố tăng
trưởng này có thể sẽ mất đi do chi phí vay nợ gia tăng lên với các trái chủ trong đó gồm
3
có cả chính phủ. Hơn nữa, các biện pháp khích thích tài khóa cũng đồng thời chịu tác
động do tồn tại độ trễ hoặc do cần phải được thông qua ở nhiều khâu phê duyệt ở nhiều
cấp khác nhau.
Hiện nay, nợ công đã vượt quá mức giới hạn an toàn ở một số nền kinh tế phát triển
cao, và đang phát triển, nó đang trở thành một chủ đề nóng hổi được quan tâm hiện nay
bởi vì nó có thể là yếu tố gây ra nguy cơ đe dọa đến sự hồi phục yếu ớt của nền kinh tế
toàn cầu, làm cho các nhà lập chính sách phải lo ngại đến một kịch bản kinh tế lại tiếp tục
rơi vòng xoáy suy thoái kéo dài. Nợ công đồng thời có nhiều ảnh hưởng tích cực nhưng
cũng còn không ít ảnh hưởng tiêu cực. Để nhận ra những ảnh hưởng tích cực cũng như
tiêu cực để tăng cường phát huy các mặt tích cực, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực
là điều quan trọng trong việc xây dựng và thực thi các chính sách vĩ mô. Một trong số các
tác động tích cực mà nợ công đem lại gồm có: Nợ công có thể làm gia tăng nguồn lực
cho chính phủ, để từ đó góp phần tăng cường vốn để đầu tư xây dựng và phát triển hệ
thống cơ sở hạ tầng đặc biệt ở các nước đang phát triển. Mặt khác, huy động trái phiếu
chính phủ để sử dụng được các nguồn tiền nhàn rỗi trong khu vực xã hội. Thông qua vay
nợ mà các khoản tiền tiết kiệm nhàn rỗi này được đưa vào sử dụng, có thể mang lại hiệu
quả cho cả khu vực công và khu vực tư nhân.
Khi tình trạng nợ công gia tăng cao, vượt qua những giới hạn an toàn, thì nền kinh
tế trở nên dễ bị tổn thương và phải gánh chịu các sức ép từ bên trong và cả bên ngoài.
Hiện này, nợ công không chỉ là vấn đề mà các nước chậm và đang phát triển phải đối
mặt. Khi so sánh các khoản nợ công so với GDP, gánh nặng nợ công lớn nhất là ở các
nước phát triển, đặc biệt khu vực đồng tiền chung Châu Âu đang phải đứng trước những
thách thức to lớn khi Hy Lạp phải sử dụng đến gói cứu trợ của EU và IMF nhằm tránh rơi
vào tình trạng vỡ nợ.
Bên cạnh đó, một khi tỷ lệ nợ công quá cao, sẽ dẫn đến tình trạng thắt chặt chi tiêu
công, buộc các chính phủ phải thực hiện các chính sách nhằm "thắt lưng buộc bụng" với
mục tiêu giảm thâm hụt là điều kiện bắt buộc để nhận được hỗ trợ tín dụng từ những tổ
chức quốc tế, tuy nhiên, "thắt lưng buộc bụng" lại có thể dẫn tới hàng loạt các cuộc biểu
tình nhằm phản đối của các cử tri, tạo nên tình trạng căng thẳng kéo dài, kèm theo những
4
bất ổn trong hệ thống chính trị và xã hội, vì các người nghèo và người yếu thế là những
các đối tượng bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi chính sách cắt giảm phúc lợi xã hội, giảm
chi tiêu công của chính phủ.
Hiện nay, nền kinh tế toàn cầu vừa mới thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, mới bắt
đầu có một số dấu hiệu hồi phục là kết quả của việc sử dụng các gói kích thích kinh tế mà
các chính phủ đã tung ra trong thời gian trước đây, nên việc cắt giảm chi tiêu công, và gia
tăng thuế sẽ làm suy giảm đầu tư công, lại kìm hãm sự hồi phục kinh tế, dẫn đến tăng
trưởng với tốc độ chậm lại, thậm chí còn có thể đưa nền kinh tế vào tình trạng "khủng
hoảng kép". Trầm trọng hơn, việc thông qua các gói kích thích kinh tế là nguyên nhân
làm gia tăng nợ công nhanh chóng, vì vậy trong trường hợp khủng hoảng lại tiếp tục diễn
ra thì các chính phủ liệu có còn đủ khả năng để xoay xở, và cứu vãn nền kinh hay không?
Khi nợ công tăng cao liên tục, nền kinh tế sẽ bị hạ bậc tín nhiệm dẫn đến suy giảm
niềm tin của các cử tri và các nhà đầu tư phần nào cũng bị lung lay, đây là lúc mà nền
kinh tế có nguy cơ trở thành một mục tiêu để tấn công của giới đầu cơ quốc tế. Khi chính
phủ muốn duy trì việc huy động bằng trái phiếu trên thị trường tài chính đồng nghĩa với
việc chấp nhận các mức chi phí sử dụng vốn cao hơn và sau đó lại tiếp tục rơi vào vòng
xoáy: lại tiếp tục bị hạ bậc tín nhiệm.
Đo đó nghiên cứu này nhằm nghiên cứu việc thực thi chính sách tài khóa trên thực
tế của chính phủ ở các quốc gia. Các chính phủ có thực hiện chính sách tài khóa phản chu
kỳ kinh tế nhằm đưa nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng hay ngược lại thực hiện
chính sách tài khóa thuận chu kỳ kinh tế để bàn tay thị trường tự điều tiết. Trong điều
kiện nợ công gia tăng cao ở một số quốc gia do chính phủ gia tăng để tài trợ cho chi tiêu
công đầu tư phát triển và chi thường xuyên, việc phát hành trái phiếu chính phủ không
còn thuận lợi có ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện chính sách tài khóa của các
quốc gia.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này trả lời 2 câu hỏi sau:
Câu hỏi thứ 1: trên thực tế các chính phủ ở các quốc gia duy trình chính sách tài
khóa phản chu kỳ kinh tế hay thuận chu kỳ kinh tế?
5
Câu hỏi thứ 2: Tác động của yếu tố nợ công đến việc duy trình chính sách tài khóa
như thế nào?
Nói cách khác, nghiên cứu này tiến hành kiểm định dự báo lý thuyết kinh tế vĩ mô
của John Maynard Keynes: thị trường tồn tại những yếu tố không hoàn hảo, chính phủ
đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Do đó,
chính phủ cần chủ động can thiệp vào thị trường bằng các công cụ của chính sách tài
khóa gồm có chi tiêu công và/hoặc các công cụ chính sách thuế nhằm tác động lên tổng
cầu để kéo thị trường về lại thái cân bằng ở mức sản lượng toàn dụng. Ảnh hưởng của
yếu tố nợ công lên việc điều hành chính sách tài khóa ở các quốc gia được nghiên cứu
trong giai đoạn 1991 – 2016. Nợ công có góp phần tích cực vào việc tận dụng các nguồn
lực nhàn rỗi trong nước và nước ngoài đem lại nguồn tài chính cho các nhà điều hành
thực thi các công cụ của chính sách tài khóa hay không? Khi tỷ lệ nợ công tăng cao có tác
động như thế nào đến tính chủ động trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô của chính
phủ. Hơn nữa, khi các chính phủ gia tăng vay nợ nhằm bù đắp thâm hụt đến từ việc cắt
giảm nguồn thu từ thuế mà chi tiêu vẫn không thay đổi thì sẽ có tác động tích cực đến
hành vi tiêu dùng của các hộ gia đình. Cụ thể, nó làm gia tăng các mức tiêu dùng, dẫn
đến làm gia tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ, góp phần gia tăng sản lượng, và việc
làm trong ngắn hạn. Nhưng trong dài hạn điều này lại có thể làm cho tiết kiệm của quốc
gia suy giảm và đi kèm với đó là những hệ lụy nghiêm trọng khác.
1.3
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này kiểm định mối quan hệ tương quan giữa chính sách tài khóa với
biến chu kỳ kinh tế, tác động của yếu tố nợ công đến việc thực hiện chính sách tài khóa ở
51 quốc gia phát triển, đang phát triển và một số quốc gia có thu nhập thấp trong giai
đoạn 1991 đến 2016.
1.4
Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu cho thấy chính phủ các quốc gia thực hiện chính sách tài khóa
phản chu kỳ kinh tế trong gia đoạn nền kinh tế rơi vào trạng thái suy thoái bằng cách tung
ra các gói kích thích kinh tế để gia tăng chi tiêu công, và/hoặc giảm thuế để thúc đẩy kinh
6
tế phát triển, chưa tìm thấy bằng chứng cho thấy chính phủ thực thi chính sách tài khóa
phản chu kỳ trong giai đoạn nền kinh tế đang tăng trưởng nóng.
Tồn tại mối quan hệ phi tuyến giữa biến chính sách tài khóa và chu kỳ kinh tế ở
trong giai đoạn suy thoái kinh tế. Trong thời kỳ này hệ số tương tác giữa biến chu kỳ kinh
tế và tỷ lệ nợ công mang dấu âm có ý nghĩa thống kê cho thấy ở các quốc gia có tỷ lệ nợ
công tăng cao làm giảm khả năng vay nợ của chính phủ khi thực hiện chính sách tài khóa
phản chu kỳ nhằm mục đích thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
1.5 Hạn chế của luận văn
Mặc dù nghiên cứu việc các chính phủ thực hiện chính sách tài khóa phản chu kỳ
hay thuận chu kỳ nhưng nhiên cứu này vẫn chưa xét xét chi tiết về việc chính phủ sử
dụng công cụ chính sách tài khóa nào để điều tiết kinh tế vĩ mô công cụ thuế hay chi tiêu
đầu tư.
Nghiên cứu này chỉ mới kiểm định biến hệ số tương quan giữa biến chu kỳ kinh tế
và nợ công, tuy nhiên nghiên cứu này chưa đi sâu vào nghiên cứu cụ thể nợ công có tác
động như thế nào đến việc điều hành chính sách tài khóa, trên thực tế có tồn tại ngưỡng
nợ công mà ở đó chính phủ thay đổi từ việc điều hành chính sách tài khóa phản chu kỳ
sáng thuận chu kỳ.
7
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT, CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
2.1 Chính sách tài khóa
Chính sách tài khóa: Theo giáo trình Chính sách công và Quản lý Fulbright, bài
giảng kinh tế vĩ môn niên khóa 2018-2020, chính sách tài khóa có thể được hiểu là các
biện pháp nhằm can thiệp vào thị trường của chính phủ bằng các hệ thống thuế cùng với
chi tiêu công của chính phủ để đạt đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô như thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế, tạo nên nhiều công ăn việc làm hoặc ổn định tỷ lệ lạm
phát và giá cả. Do đó, việc duy trì chính sách tài được chính phủ thực thi có liên quan đến
những thay đổi trong chính sách thuế hoặc/và chi tiêu công của chính phủ. Chú ý rằng,
chỉ có chính quyền trung ương/ lien bang (chính phủ) mới có đủ quyền hạn và chức năng
để điều hành chính sách tài khóa, ở các cấp chính quyền địa phương không có chức năng
này. Chính điều này là một trong những yếu tố quan trọng để phân biệt giữa chính sách
tài khóa với chính sách chi tiêu thuộc thẫm quyền của các cấp ngân sách theo luật của
từng quốc gia.
Để thực hiện chính sách tài khóa thì các chính phủ sẽ cần phải sử dụng một số công
cụ. Các công cụ này của chính sách tài khóa gồm: chính sách thuế, và chi tiêu công, và
công cụ vay nợ để tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Có nhiều sắc thuế khác nhau: thuế thu
nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt,
thuế đánh lên tài sản, v.v... nhưng tóm lại có thể phân chia ra thành hai loại thuế: trực thu
(direct taxes) và gián thu (indirect taxes). Thuế trực thu là thuế đánh trực tiếp lên giá trị
tài sản và/hoặc thu nhập của người nộp thuế, ngược lại thuế gián thu là thuế đánh lên giá
trị của hàng hóa,và dịch vụ trong quá trình lưu thông thông qua hành vi sản xuất, và tiêu
dùng trong nền kinh tế. Như vậy, chính sách chi tiêu công rất đa dạng nhưng ta có thể
phân chia thành hai nhóm chính bao gồm chi thường xuyên (ví dụ như chi lương cho cán
bộ công chức, chi thường xuyên cho các hoạt động giáo dục, an ninh – quốc phòng, y tế,
khoa học-công nghệ…) và chi tiêu cho đầu tư phát triển (ví dụ chi xây dựng cơ sở hạ tầng
cho nền kinh tế). Chính sách thuế (T) nhìn chung (không chỉ gồm có thuế mà còn có các
khoản thu khác cho ngân sách ngoài thuế và không tính đến các khoản nợ vay. Hơn nữa,
8
trợ cấp cũng được xem như một loại thuế âm) và chi tiêu chính phủ (G) (chi mua sắm
hàng hóa cũng như dịch vụ của khu vực công). Bên cạnh công cụ thuế và chi tiêu công,
các công cụ nhằm tài trợ cho thâm hụt ngân sách hay vay nợ của chính phủ (tạm gọi là nợ
công) cũng được xem như là một phần của chính sách tài khóa.
Vì vậy, tồn tại ba trạng thái của cán cân ngân sách của chính phủ (T – G):
Nếu T > G: ngân sách trong trạng thái thặng dư
Nếu T < G: ngân sách trong trạng thái thâm hụt
Nếu T = G: cân bằng ngân sách
Nguyên tác tài khóa: Khi ngân sách chính phủ trong trạng thái thặng dư (hay T > G)
cho thấy chính phủ có một khoản tiết kiệm dương. Chính phủ có thể sử dụng khoản tiền
tiết kiệm này để chi trả nợ công (do thâm hụt lũy kế trong những năm tài khóa trước đây)
hoặc cho nền kinh tế trong nước hay các quốc gia khác vay. Trái lại, nếu ngân sách trong
trại thái thâm hụt thì chính phủ sẽ cần phải đi vay để tài trợ cho thâm hụt ngân sách đó.
Có một số cách mà chính sách có thể sử dụng để tài trợ thâm hụt ngân sách, ví dụ như
phát hành tín phiếu/trái phiếu (hay đi vay thị trường trong nước hoặc các nhà đầu tư nước
ngoài), bán bớt tài sản của quốc gia (ví dụ như bán tài nguyên quốc gia hay bán đi cổ
phần của chính phủ trong các doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ) hoặc thậm chí chính
phủ có thể in tiền. Tuy nhiên chính phủ sẽ cần phải cân nhắc các sự lựa chọn vì mỗi sự
lựa chọn đều có lợi ích cùng với chi phí kinh tế. Trong trường hợp chính phủ vay nợ sẽ
phải chi trả lãi suất, nếu vay từ nước ngoài (vay ngoại tệ) sẽ còn gánh chịu rủi ro đến từ
biến động tỷ giá hối đoái. Nếu chính phủ chọn phương án bán tài sản quốc gia thì có thể
làm suy giảm đi nguồn lực của các thế hệ trong tương lai, hay thậm chí in tiền sẽ gây áp
lực lớn lên lạm phát và là mầm móng cho những bất ổn vĩ mô...). Ngoài việc phải lựa
chọn kênh để tài trợ thâm hụt, việc chính phủ sử dụng các nguồn tài trợ như thế nào cũng
là một bài toán khó giải. Một trong những nguyên tắc tài trợ để thâm hụt đó là chính phủ
không nên đi vay nợ để chi tiêu mà nên dùng khoản vay này chi cho đầu tư phát triển.
Nguyên tắc này được gọi nguyên tắc tài khóa vàng. Hàm ý là việc sử dụng nợ vay để chi
9
tiêu không thể tạo nên các nguồn lực để trả nợ ở tương lai, tác động xấu đến sự an toàn
của nợ công. Trái lại, việc đi vay tài trợ cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng có khả năng
thu hồi vốn, trường hợp xấu nhất cũng tạo nên năng lực sản xuất trong nền kinh tế.
Chính sách tài khóa trung lập, mở rộng, hay thu hẹp: Khi nói đến việc điều hành
chính sách tài khóa, người ta thường đề cập đến các loại như chính sách tài khóa trung
lập, chính sách tài khóa mở rộng, và chính sách tài khóa thu hẹp. Chính sách tài khóa
trung lập được hiểu là chính sách nhằm đạt trạng thái cân bằng ngân sách, hay tất cả chi
tiêu chính phủ đến hoàn toàn từ nguồn thu ngân sách của chính phủ đo đó chính sách tài
khóa trung lập thông thường chỉ có tác động trung tính lên các mức độ hoạt động của nền
kinh tế. Trái lại, chính sách tài khóa thu hẹp nhằm cắt giảm chi tiêu hoặc/và gia tăng
nguồn thu ngân sách cho chính phủ. Chính sách tài khóa mở rộng là chi sách nhằm gia
tăng chi tiêu chính phủ (G > T) bằng cách gia tăng chi tiêu và/hoặc cắt giảm nguồn thu
thuế.
Chính sách tài khóa thuận chu kỳ và nghịch chu kỳ: Nếu nền kinh tế trong trạng
thái suy thoái, chính phủ ở các quốc gia có thể sẽ thực hiện chính sách tài khóa nới lỏng
và trái lại khi kinh tế trong thời kỳ tăng trưởng nóng thì chính phủ nên thực hiện chính
sách thắt chặt tài khóa. Việc thực thi chính sách tài khóa như hướng này còn được gọi là
chính sách tài khóa phản chu kỳ. Bên cạnh đó cũng tồn tại một số quốc gia chọn lựa thực
hiện sách tài khóa thuận chu kỳ, hay trong trường hợp nền kinh tế đang bị suy thoái thì
tiến hành thu hẹp tài khóa, khi nền kinh tế trong thời kỳ tăng trưởng nóng thì lại nới lỏng
tài khóa. Một số nghiên cứu thực tế cho thấy rằng, các nước phát triển thông thường thực
hiện chính sách tài khóa phản chu kỳ, còn ở các nước đang phát triển/ có thu nhập thấp
thì thực thi chính sách tài khóa thuận chu kỳ.
Độ trễ của chính sách: Một khi nói đến tính hiệu quả của chính sách tài khóa, là nói
đến vai trò độ trễ chính sách. Độ trễ của chính sách bao gồm độ trễ trong và độ trễ ngoài.
Độ trễ trong là khoảng thời gian từ khi những vấn đề trục trặc của nền kinh tế vĩ mô được
phát hiện ra cho đến khi chính sách tài khóa can thiệp được đưa ra và được cơ quan nhà
10
nước có thẩm quyền thông qua. Độ trễ ngoài là khoảng thời gian mà từ khi chính sách tài
khóa được thông qua cho đến khi được triển khai và phát huy tác dụng. Độ trễ chính sách
là một trong những nguyên nhân làm suy giảm tính hiệu quả của chính sách tài khóa.
Nguyên nhân đến từ khi phát hiện được những trục trặc trong nền kinh tế cho đến khi
chính sách tài khóa được thiết kế, phê duyệt và triển khai đã có quá nhiều yếu tố thay đổi
làm cho tình hình kính tế chuyển biến khác. Mặc dù các chính sách có được thiết kế tốt
nhưng lại có thể không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại và các trục trặc vừa mới nảy
sinh.
Chính sách tự động bình ổn và chính sách tùy nghi: Khi đề cập yếu tố chủ động
trong việc điều hành chính sách tài khóa, người ta thường chia làm hai loại bao gồm
chính sách tự động bình ổn và chính sách tài khóa tùy nghi. Chính sách tài khóa được
xem là bình ổn tự động khi chính phủ xây dựng chính sách thuế và chi tiêu công phụ
thuộc vào sự thay đổi của yếu tố chu kỳ kinh doanh. Chúng ta có thể nhận biết được điều
này khi nền kinh tế ở chu kỳ tăng trưởng hay suy thoái. Ví dụ, khi nền kinh tế trong chu
kỳ tăng trưởng thì số thuế thu được cũng sẽ tăng lên trong khi nhu cầu chi tiêu công hay
quy mô của các gói trợ cấp giảm đi. Tuy nhiên, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái
thì nguồn thu thuế của ngân sách cũng sẽ bị giảm và các nhu cầu trợ cấp cho các chủ thể
kinh tế của chính phủ cũng sẽ gia tăng lên. Ngược lại, chính sách tài khóa là tùy nghi khi
chính phủ sẽ chủ động hành động thay đổi trong chính sách thuế và các khoản chi tiêu
công không phụ thuộc vào các biến số chu kỳ kinh tế.
Số nhân tài khóa: chính sách tài khóa nới lỏng (tăng G và/ hoặc giảm T) giúp gia
tăng hay đẩy đường tổng cầu trong nền kinh tế sang bên phải. Mặt khác, một chính sách
tài khóa thắt chặt (giảm G và/ hoặc tăng T) làm giảm hay đẩy đường tổng cầu về phía bên
trái. Với các nhà hoạch định cần phải biết thêm thông tin với chính sách tài khóa nới lỏng
hay thắt chặt nhất định làm cho đường tổng cầu dịch chuyển như thế nào, bao nhiêu hơn
là hướng dịch chuyển sang bên phải hay sang bên trái. Nhằm tính toán điều đó các nhà
khoa học đưa khái niệm về số nhân tài khóa. Số nhân tài khóa được định nghĩa là tỷ số
của sự thay đổi trong GDP thực do tính tự định trong chi tiêu công hoặc chính sách thuế
11
của chính phủ thay đổi. Hiệu ứng này có thể được giải thích như sau. Nếu chính phủ gia
tăng chi tiêu công sẽ góp phần tạo ra doanh thu cho các doanh nghiệp mà sản xuất cung
ứng hàng hóa, và dịch vụ cho khu vực công. Nguồn thu này sẽ được dịch chuyển vào cho
các gia đình ở hình thức tiền công, tiền lãi, hay lợi nhuận… Việc tăng thu nhập khả dụng
tiếp tục đưa đến gia tăng chi tiêu cho tiêu dùng. Cứ như thế tiếp tục, tiêu dùng gia tăng sẽ
lại làm cho doanh nghiệp gia tăng sản lượng sản xuất, doanh thu và lợi nhuận, tiếp tục
dẫn đến một vòng mới tăng thu nhập khả dụng và chi tiêu. Đến cuối cùng ảnh hưởng của
chính sách gia tăng chi tiêu công của chính phủ tác động làm tổng thu nhập trong nền
kinh tế gia tăng thêm một lượng có thể còn lớn hơn lượng chi tiêu gia tăng thêm mà chính
phủ tăng lên ban đầu. Đây được gọi là hiệu ứng số nhân tài khóa.
2.2 Chu kỳ kinh tế
Theo giáo trình Chính sách công và Quản lý Fulbright, bài giảng kinh tế vĩ môn
niên khóa 2018-2020, chu kỳ kinh tế nói cách khác là chu kỳ kinh doanh thường được
định nghĩa là sự thay đổi của GDP thực theo ba pha lần lượt là suy thoái, phục hồi và
hưng thịnh. Tuy nhiên, cũng có quan điểm lại cho rằng pha phục hồi chỉ là thứ yếu cho
nên chu kỳ kinh tế chỉ gồm hai pha chính là hưng thịnh và suy thoái.
Trong đó, suy thoái: pha mà trong đó GDP thực giảm sút. Ở Nhật Bản và Mỹ, khi
tốc độ tăng trưởng GDP thực mang dấu âm trong vòng hai quý liên tiếp mới được gọi là
suy thoái.
Phục hồi: pha mà trong đó GDP thực tăng lên trở lại bằng với mức ngay trước pha
suy thoái.
Hưng thịnh: Khi GDP thực tế tiếp tục tăng và bắt đầu lớn hơn mức ngay trước lúc
suy thoái, nền kinh tế đang trọng trạng thái hưng thịnh. Điểm ngoặt chuyển đổi từ pha
hưng thịnh chuyển sang pha suy thoái được gọi là đỉnh của chu kỳ kinh tế.
Trên thực tế nhiều nhà kinh tế học cố gắng nhận biết các dấu hiệu của pha suy thoái
vì nó có nhiều ảnh hưởng tiêu cực lên mọi mặt của nền kinh tế, xã hội. Một số những đặc
điểm thường gặp của giai đoạn suy thoái: tiêu dùng sụt giảm mạnh, số lượng hàng tồn
12
kho hàng hóa lâu bền trong các công ty tăng lên vượt mức so với dự kiến. Điều này đưa
đến việc các nhà sản xuất tiến hành điều chỉnh giảm sản lượng đi cùng với đó đầu tư thiết
bị, quy trình sản xuất, nhà xưởng giảm và hậu quả là GDP thực suy giảm. Nhu cầu về số
lượng lao động giảm khá mạnh, bước đầu là số lượng ngày làm việc bị điều chỉnh giảm
xuống kế tiếp là hiện tượng giảm đồng loạt số lượng nhân công kéo theo tỷ lệ thất nghiệp
cao. Nếu sản lượng thực suy giảm thì lạm phát sẽ gia tăng chậm vì chi phí đầu vào cho
quá trình sản xuất giảm bởi cầu suy giảm. Tuy mức giá dịch vụ tuy khó giảm, cũng
không thể tăng nhanh trong thời kì suy thoái kinh tế. Lợi nhuận của các công ty giảm
mạnh và đến khi các nhà đầu tư bắt đầu cảm nhận được pha đi xuống của chu kỳ kinh
doanh thì nhu cầu về vốn cũng suy giảm làm cho lãi suất giảm xuống trong giai đoạn suy
thoái.
Tác động của chu kỳ kinh doanh: chu kỳ kinh doanh là những biến động của nền
kinh tế mà không mang bất kì tính quy luật nào. Không có hai chu kỳ kinh tế giống nhau
hoàn toàn và cũng chưa từng có bất kỳ cách thức hay công cụ nào có thể dự báo đúng
thời điểm các chu kỳ kinh tế diễn ra. Do đó chu kỳ kinh doanh nhất là trong giai đoạn suy
thoái làm cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực công gặp rất nhiều khó khăn. Kinh tế suy
thoái, GDP thực tế giảm sút, thấp nghiệp gia tăng cao, thị trường hàng hóa và dịch vụ lẫn
thị trường vốn đều thu hẹp đưa đến những tác động tiêu cực cho nền kinh tế, xã hội.
2.3 Cơ sở lý thuyết về mối tương quan giữa chính sách tài khóa và chu kỳ kinh
tế
2.3.1 Kinh tế học vi mô
Kinh tế học vi mô (microeconomic) là một trong những phân ngành quan trọng
trong kinh tế học, môn này chuyên nghiên cứu hành vi cũng như động cơ mà các chủ thể
trong kinh tế (bao gồm người tiêu dùng và nhà sản xuất) cũng như cách thức mà các chủ
thể này có thể tương tác qua lại với nhau.
Một trong các mục tiêu nghiên cứu quan trọng của kinh tế vi mô là làm sao phân
tích được cơ chế của thị trường nhằm xác định ra mức giá cả tương đối của các loại hàng
13
hóa và dịch vụ cùng với việc phân phối hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên bị giới
hạn khi có nhiều lựa chọn khác nhau. Hơn nữa, kinh tế vi mô cũng phân tích những thất
bại của thị trường, một khi thị trường vận hành khong hiệu quả, đồng thời đưa ra các điều
kiện cần để thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Một trong những phân nhánh quan trọng
nhất của kinh tế vi mô gồm có lý thuyết thông tin bất cân xứng, lý thuyết về sự chọn lựa
cùng với sự không chắc chắn và các việc áp dụng các lý thuyết trò trơi trong kinh tế.
Cụ thể, kinh tế học vi mô nghiên cứu:
Các luận điểm cơ bản trong kinh tế: cung, cầu, giá cả, và thị trường
Một số lý thuyết cơ bản về hành vi của người tiêu dùng
Các lý thuyết hành vi của nhà sản xuất
Lý thuyết cấu trúc thị trường
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh độc quyền
Thị trường cho các yếu tố sản xuất gồm: lao động - vốn – và tài nguyên
Vai trò của các chính phủ trong nền kinh tế thị trường
Các quan điểm về thất bại thị trường
Cụ thể, ở thế kỉ thứ XVIII, khi Châu Âu trong gia đoạn cách mạng công nghiệp lần
thứ 1. Các chuyển biến trong phương thức sản xuất kiến cho các học thuyết về kinh tế
của chủ nghĩa trọng thương trở nên không phù hợp, Đây là thời điểm mà lý thuyết kinh tế
chính trị học tư sản cổ điển Anh được ra đời. Lý thuyết này xây dựng những nền tảng trên
phương diện khoa học cơ bản của nền kinh tế thị trường ngày nay. Nhà kinh tế học tiên
phong trong quá trình xây dựng hệ thống chính là Adam Smith.
Trong một tác phẩm quan trọng của Adam Smith, "The theory of moral
setiments",được xuất bản đầu tiên vào năm 1759. Trong sách này Smith đưa ra quan điểm
về nhận thức của con người như một sinh vật tư lợi tuy có khả năng đánh giá những luân
suy xét cân nhắc cùng với bản chất ích kỷ. Ông cũng cho rằng việc đánh giá các luân lý
được diễn ra bằng cách duy trì tư lợi cùng với sự vâng lời và tự đặt chính mình vào quan
điểm của người thứ ba.
14
Luận điểm nổi tiếng nhất của ông là lý thuyết “Bàn tay vô hình”. Bàn tay vô hình
một phép ẩn dụ, tư tưởng kinh tế lỗi lạc mà Adam Smith xây dựng vào những năm 1776.
Trong ấn phẩm có tên Nguồn gốc của cải của các dân tộc (the Wealth of Nations) và một
số bài viết khác, ông cho rằng, trong một nền kinh tế thị trường tự do, mỗi một cá nhân
đều theo đuổi mối quan tâm cùng với lợi ích riêng cho bản thân mình, và cũng chính các
hành động của họ lại có tác động thúc đẩy lớn hơn, cũng cố lợi ích tốt hơn cho toàn xã
hội thông qua một "bàn tay vô hình". Ông cho rằng, mỗi cá nhân đều mong muốn thu
được lợi lớn nhất cho bản thân nên sẽ làm tối ưu hóa lợi ích cả dân tộc, điều này cũng
giống như việc cộng dồn toàn bộ lợi ích của từng cá nhân lại.
Theo ông, chính phủ ở các quốc gia không cần phải can thiệp vào thị trường vào cá
nhân và các nhà sản xuất, cứ để cho thị trường do vận hành kinh doanh; Smith kết luận:
“Sự giàu có của mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ của nhà
nước, mà do bởi tự do kinh doanh”.
Theo quan điểm này, thì hành động của các chủ thể trong xã hội đều nhằm mục tiêu
bảo vệ lợi ích cá nhân của riêng mình; do đó họ không có chủ đích củng cố lợi ích cho
công đồng và cũng không ý thức được mình đang củng cố cho lợi ích này. Nhưng khi đó,
thị trường với cơ chế giá cả sẽ tự hoạt động vì lợi ích cho tất cả mọi người và như thể tồn
tại một bàn tay vô hình có thể điều khiển toàn cả trình sản xuất của xã hội và cơ chế này
còn có phát huy hiệu quả tốt hơn cả khi chính phủ có ý định tự thực hiện việc này.
Lý thuyết của Adam Smith ngược lại với tư tưởng của lý thuyết chủ nghĩa trọng
thương (cần có sự bàn tay can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế), đây là nền tảng cho
sự tự do kinh doanh, lý thuyết này thích hợp cho chủ nghĩa tư bản một thời gian dài.
Nhưng sau này, thực tế đã chứng minh còn một số điểm chưa hoàn toàn phù hợp, và các
nền kinh tế vẫn phải sử dụng đến chủ thể nhà nước là "bàn tay hữu hình" thông qua chính
sách pháp luật, thuế và các công cụ kinh tế nhằm điều chỉnh nền chu kỳ của kinh tế xã
hội song song với cơ chế tự điều chỉnh của thị trường theo lý thuyết bàn tay vô hình
nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển và ổn định của quốc gia.
Lý thuyết của Adam Smith có nhiều ý nghĩa trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị
trường:
15
Phát triển nền kinh tế thị trường phải tôn trọng các quy luật kinh tế khách
quan;
Tăng trưởng kinh tế cần dựa trên nền tảng tôn trọng tự do hoạt động kinh
doanh (sản xuất, kinh doanh, thị trường tự do, tự do cạnh tranh...);
Nhà nước chỉ cần điều tiết ở tầm vĩ mô cho nền kinh tế.
2.3.2 Tư tưởng của John Maynard Keynes
John Maynard Keynes (1883-1946) là một nhà kinh tế học người Anh; ông học kinh
tế học tại trường Đại học Cambridge.
Hoàn cảnh ra đời
Thời gian: Ra đời trong những năm 30 ở thế kỉ XX đã nhanh chóng chiếm được vị
trí thống trị đến tận những năm 70 ở thế kỉ XX.
Ở các nước Châu Âu trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp cao và
nghiêm trọng (ví dụ điển hình cuộc đại khủng hoảng kinh tế những năm 1929 – 1933) đã
chứng minh những lý thuyết ủng hộ sự tự điều tiết, lý thuyết “bàn tay vô hình”, và lý
thuyết “cân bằng tổng quát”) của trường phái cổ điển còn nhiều khuyến khuyết, không
còn đủ sức thuyết phục, và tỏ ra kém hiệu quả, không đảm bảo chắc chắn cho nền kinh tế
* Những tư tưởng cơ bản theo lý thuyết Keynes là:
Bác bỏ các lập luận cổ điển về cơ chế tự điều chỉnh trong nền kinh tế, và không
đồng tình với quan điểm của phái cổ điển và trường phái cổ điển mới về trạng thái cân
bằng của nền kinh tế dựa trên cơ sở sự tự điều tiết thị trường. Một cách cụ thể : Nhà nước
cần phải can thiệp vào nền kinh tế. Nguyên nhân là do khủng hoảng kinh tế, tỷ lệ thất
nghiệp cao là do các chính sách kinh tế đã lỗi thời, mang tính bảo thủ, và thiếu đi sự can
thiệp cần thiết của Nhà nước.
Bên cạnh việc ủng hộ quan điểm thị trường tự do, lý thuyết vĩ mô theo trường phái
Keynes lập luận vai trò ổn định nền kinh tế của các chính phủ ở các quốc gia là không thể
thiếu vì thị trường luôn tồn tại những bất cập không hoàn hảo: yếu tố độc quyền, lợi thế
kinh tế theo quy mô, rào cản gia nhập ngành. Các nhà kinh tế ở trường phái Keynes lập
luận rằng tổng cầu trong một nền kinh tế chịu tác động từ hàng loạt quyết định của cả khu
16
vực tư nhân và nhà nước - và hay thiếu tính ổn định. Hơn nữa, trường phái Keynes còn
cho rằng những biến động trong tổng cầu có ảnh hưởng lớn tới thu nhập (GDP) thực
tế cũng như việc làm trong ngắn hạn. Nên khi thay đổi chi tiêu tiêu dùng, chi đầu tư hoặc
chi tiêu công của chính phủ sẽ dẫn đến tổng cầu thay đổi. Do đó, Chính sách tài
khóa (gồm thuế và chi tiêu công) tác động đáng kể nhằm khắc phục sự tính thiếu ổn định
trong tổng cầu của nền kinh tế.
Cụ thể lý thuyết Keynes đã đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng
kinh tế: Mối quan hệ vòng tròn giữa chi tiêu và thu nhập (tổng cầu), tiết kiệm, tỷ lệ thất
nghiệp. Cụ thể như sau:
Tổng cầu: Tổng cầu là tổng lượng cầu về hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh
tế và thường được cho là tổng sản phẩm quốc dân (GDP) của một nền kinh tế tại một thời
điểm cụ thể. GDP gồm bốn nhân tố chính cấu thành:
Tiêu dùng (bởi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa và dịch vụ) - C
Đầu tư ( bởi những doanh nghiệp nhằm tạo ra càng nhiều hàng hóa và dịch vụ phục
vụ nền kinh tế) - I
Chi tiêu của chính phủ - G
Xuất khẩu ròng (Trị giá xuất khẩu trừ đi trị giá nhập khẩu) - NX
Cùng với nhau, các thành phần này trở thành C + I + G + NX, công thức cho tổng
cầu.
Nếu một trong những yếu tố trên giảm, các yếu tố còn lại sẽ phải tăng tương ứng để
giữ GDP tại một mức nhất định.
Tiết kiệm và đầu tư: Trường phái Keynes cho rằng tiết kiệm có tác động tiêu cực
đến nền kinh tế, đặc biệt trong trường hợp tỉ lệ tiết kiệm quá cao và thừa thãi. Vì yếu tố
chính trong tổng cầu là chi tiêu của hộ gia đình, nếu hộ gia đình tiết kiệm quá nhiều thay
vì chi tiêu mua sắp hàng hóa, dịch vụ, sẽ dần đến GDP sụt giảm. Hơn nữa, một sự giảm
sút tiêu dùng sẽ kéo theo việc các doanh nghiệp sẽ ít sản xuất hơn, thuê mướn ít nhân
công hơn, làm làm gia tăng thất nghiệp. Khi các doanh nghiệp không thực hiện quyết
định đầu tư vào các nhà máy dây chuyền sản xuất mới.