Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đề cương Tâm lí học đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.45 KB, 11 trang )

Tâm lí bao gồm tất cả những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người, gắn liền và
điều hành mọi hành động, hoạt động của con người
Tâm lí học nghiên cứu dạng vận động chuyển tiếp từ vận động sinh vật sang vận động xã
hội, từ thế giới khách quan vào não con người sinh ra hiện tượng tâm lí- với tư cách một
hiện tượng tinh thần.
Như vậy, đối tượng của tâm lí học là các hiện tượng tâm lí với tư cách là một hiện tượng
tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt
động tâm lí. Tâm lí học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm
lí.
Nhiệm vụ cơ bản của tâm lí học là nghiên cứu bản chất hoạt động của tâm lí, các quy luật
nảy sinh và phát triển tâm lí, cơ chế diễn biến và thể hiện tâm lí, quy luật và mối quan hệ
giữa các hiện tượng tâm lí. Cụ thể là:





Những yếu tố khách quan và chủ quan nào đã tạo ra tâm lí người.
Cơ chế hình thành, biểu hiện của hoạt động tâm lí.
Tâm lí con người hoạt động như thế nào?
Chức năng, vai trò của tâm lý đối với hoạt động của con người.

Các nhiệm vụ cụ thể của tâm lý học:




Nghiên cứu bản chất của hoạt động tâm lí cả về mặt số lượng và chất lượng.
Phát hiện các quy luật hình thành phát triển tâm lí.
Tìm ra cơ chế của các hiện tượng tâm lí.


Các phương pháp nghiên cứu cơ bản của tâm lí học.


Phương pháp quan sát
o Quan sát là loại tri giác có chủ định, nhằm xác định các đặc điểm của đối tượng
qua những biểu hiện như hành động, cử chỉ, cách nói năng,...
o Có nhiều hình thức: quan sát toàn diện hay quan sát bộ phận, quan sát có
trọng điểm, quan sát trực tiếp hay gián tiếp...
Quan sát cho phép chúng ta thu thập được các tài liệu cụ thể, khách quan trong các điều
kiện tự nhiên của con người nhưng mất thời gian, tốn công sức,...
o Trong tâm lí học, ngoài quan sát khách quan, cần tiến hành tự quan sát, nhưng phải tuân
theo những yêu cầu khách quan.
o Cần chú ý xác định mục đích, nội dung, kế hoạch quan sát, chuẩn bị chu đáo, quan sát cẩn
thận có hệ thông, ghi chép tài liệu khách quan.
o



Phương pháp thực nghiệm
o Thực nghiệm là quá trình tác động vào đối tượng một cách chủ động, trong các
điều kiện đã được khống chế để gây ra ở đối tượng những biểu hiện về quan


o

hệ nhân quả, tính quy luật, cơ cấu, cơ chế của chúng, có thể lặp đi lặp lại nhiều
lần và đo dạc, định lượng định tính một cách khách quan các hiện tượng cần
nghiên cứu.
Người ta thường nói tới 2 loại thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và thực
nghiệm tự nhiên.













Thực nghiệm trong phòng thí nghiệm được tiến hành trong điều kiện khống chế một
cách nghiêm khắc các ảnh hưởng bên ngoài, người làm thực nghiệm tự tạo ra các
điều kiện.
Thực nghiệm tự nhiên được thực hiện trong trong điều kiện bình thường của cuộc
sống hoạt động.

Test (trắc nghiệm) là một phép thử để “đo lường” tâm lí đã được chuẩn hóa trên một
số lượng người đủ tiêu chuẩn.
o Thường bao gồm 4 phần: văn bản test, hướng dẫn quy trình tiến hành, hướng
dẫn đánh giá, bản chuẩn hóa.
Phương pháp đàm thoại (trò chuyện) là cách đặt ra câu hỏi cho đối tượng và dựa
vào câu trả lời của họ để trao đổi, hỏi thêm, nhằm thu thập thông tin về vấn đề cần
nghiên cứu. Có thể đàm thoại trực tiếp hay gián tiếp tùy sự liên quan của đối tượng
với điều ta cần biết.
Phương pháp điều tra: Dùng một số câu hỏi nhất loạt đặt ra cho một số lớn đối
tượng nghiên cứu nhằm thu thập ý kiến chủ quan của họ về một vấn đề nào đó
Phương pháp phân tích sản phẩm hoạt động: dựa vào kết quả, sản phẩm (vật chất,
tinh thần) của hoạt động do con người làm ra để nghiên cứu các chức năng tâm lí của

con người đó, vì trong sản phẩm con người làm ra có “dấu vết” tâm lí, ý thức, nhân
cách của con người.
Phương pháp nghiên cứu tiểu sử cá nhân
Phương pháp này xuất phát từ chỗ có thể nhận ra các đặc điểm tâm lí cá nhân thông
qua việc phân tích tiểu sử cuộc sống của cá nhân đó, góp phần cung cấp một số tài
liệu cho việc chẩn đoán tâm lí.

Tâm lí là chức năng của não: bộ não nhận tác động của thế giới dưới các dạng xung động
thần kinh cùng những biến đổi lí hóa ở từng nơron, từng xinap, các trung khu thần kinh ở
bộ phận dưới vỏ và vỏ não, làm cho não bộ hoạt động theo quy luật thần kinh tạo nên hiện
tượng tâm lí này hay hiện tượng tâm lí kia theo cơ chế phản xạ. Như vậy, tâm lí là kết quả
của hệ thống chức năng những hoạt động phản xạ của não.

Phản ánh là quá trình tác động qua lại giữa hệ thống này và hệ thống khác, kết quả để lại
dấu vết ở cả 2 hệ thống.
Phản ánh tâm lí là một phản ánh đặc biệt. Đó là sự tác động của hiện thực khách quan vào
con người, vào hệ thần kinh, bộ não người. Phản ánh tâm lí tạo ra hình ảnh tâm lí.


Tính chủ thể trong phản ánh tâm lí thể hiện ở chỗ:



Cùng nhận sự tác động của thế giới về cùng một hiện thực khách quan nhưng những
chủ thể khác nhau cho ta những hình ảnh tâm lí khác nhau. (mức độ, sắc thái)
Cùng một hiện tượng khách quan tác động đến một chủ thể duy nhất nhưng vào thời
điểm khác nhau, ở những hoàn cảnh khác nhau, với trang thái cơ thể, tinh thần khác
nhau có thể cho ta thấy mức độ biểu hiện và sắc thái khác nhau ở chủ thể ấy.

Bản chất xã hội và tính lịch sử của tâm lí người thể hiện ở:









Tâm lí người có nguồn gốc là thế giới khách quan, trong đó nguồn gốc xã hội là cái
quyết định. Phần xã hội của thế giới quyết định tâm lí người thể hiện ở các quan hệ
kinh tế xã hội, các mối quan hệ đạo đức, pháp quyền, các mối quan hệ con người,...
Các mối quan hệ trên quyết định bản chất tâm lí người. Con người thoát li khỏi các
QH xã hội -> tâm lí sẽ mất bản tính người.
Tâm lí là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ
xã hội. Phần tự nhiên ở con người đã được xã hội hóa ở mức cao nhất. Là một thực
thể xã hội, con người là chủ thể của nhận thức, của hoạt động, giao tiếp với tư cách là
một chủ thể tích cực, chủ động sáng tạo. Tâm lí người là sản phẩm của con người với
tư cách là chủ thể xã hội, vì thế mang đầy đủ dấu ấn xã hội lịch sử của con người.
Tâm lí mỗi cá nhân là kết quả của quá trình lĩnh hội, tiếp thu vốn kinh nghiệm xã hội,
nền văn hóa xã hội thông qua hoạt động và giao tiếp, trong đó giáo dục giữ vai trò
chủ đạo, hoạt động của con người và các mối quan hệ giao tiếp trong xã hội có tính
quyết định.
Tâm lí mỗi con người hình thành, phát triển và biến đổi cùng với sự phát triển của
lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng. Tâm lí mỗi con người chịu sự chế ước
bởi lịch sử cá nhân và cộng đồng.

Chức năng của tâm lí







Chức năng chung là định hướng cho hoạt động, ở đây nói tới vai trò của động cơ,
mục đích hoạt động. Động cơ có thể là một nhu cầu được nhận thức, hứng thú, lí
tưởng, niềm tin,... Tâm lí là động lực thôi thúc, lôi cuốn con người hoạt động, khắc
phục mọi khó khăn vươn tới mục đích đã đề ra.
Điều khiển, kiếm tra quá trình hoạt động bằng chương trình, kế hoạch, phương
pháp, phương thức tiến hành làm hoạt động trở nên có ý thức, đem lại hiệu quả.
Điều chỉnh hoạt động cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh thực tế cho phép.
Nhờ các chức năng trên mà con người không chỉ thích ứng với hoàn cảnh mà còn
nhận thức, cải tạo, sáng tạo ra thế giới.

Hoạt động là sự tiêu hao năng lượng thần kinh và cơ bắp của con người vào hiện thực khác
quan nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình.


Về phương diện triết học, tâm lí học, người ta quan niệm hoạt động là phương thức tồn tại
của con người trong thế giới. Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và
thế giới để tạo ra sản phẩm cho cả thế giới và con người.

Đặc điểm của hoạt động







Hoạt động bao giờ cũng là “hoạt động có đối tượng”. Đối tượng của hoạt động là cái

con người cần làm ra, cần chiếm lĩnh. Đó là động cơ. Động cơ luôn thúc đẩy con
người hoạt động nhằm tác động vào, làm thay đổi khách thể, biến nó thành sản
phẩm hoặc tiếp nhận nó chuyển vào đầu óc mình.
Hoạt động bao giờ cũng có chủ thể. Do chủ thể thực hiện, chủ thể có thể là một hoặc
nhiều người.
Hoạt động bao giờ cũng có tính mục đích: mục đích hoạt động là làm biến đổi thế
giới và biến đổi bản thân chủ thể. Tính mục địch gắn liền với tính đối tượng.Tính mục
đích bị chế ước bởi nội dung xã hội.
Hoạt động vận hành theo nguyên tắc gián tiếp. Trong hoạt động, con người gián tiếp
tác động đến khách thể qua hình ảnh tâm lí ở trong đầu, gián tiếp qua việc sử dụng
công cụ lao động và sử dụng phương tiện ngôn ngữ.

Hoạt động đóng vai trò trong quá trình hình thành và phát triển tâm lí người
qua 2 quá trình:






Quá trình đối tượng hóa, trong đó chủ thể chuyển năng lực của mình thành sản
phẩm của hoạt động. Nói cách khác, tâm lí con người được bộc lộ, được khách quan
hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.
 Ví dụ: Khi thuyết trình về một vấn đề, người thuyết trình phải thể hiện kỹ năng,
thái độ, tình cảm về vấn đề đó để thuyết trình. Khi thuyết trình mỗi người lại có
tâm lí khác nhau: người tự tin, nó rõ ràng mạch lạc, người tự ti, lo sợ, run, nói
nhỏ...Cho nên phụ thuộc vào tâm lí mỗi người mà hiệu quả của bài thuyết trình
đó khác nhau.
Quá trình chủ thể hóa, là khi hoạt động, con người chuyển từ phía khách thể vào bản
thân mình những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lí, ý thức, nhân cách

của bản thân bằng cách chiếm hữu, lĩnh hội thế giới.
 Ví dụ: Sau lần thuyết trình đầu tiên, người đó đã rút ra được kinh nghiệm cho
bản thân, biết làm thế nào để thuyết trình tốt và ở những lần sau sẽ có sự
chuẩn bị tâm lí tốt hơn.
Hoạt động quyết định đến sự hình thành và phát triển tâm lí, nhân cách con người,
nó là hình thức quan trọng nhất của mối quan hệ giữa con người với thế giới khách
quan, là phương thức tồn tại của con người.

Giao tiếp là mối quan hệ giữa con người và con người thể hiện sự tiếp xúc tâm lí giữa
người và người, thông qua đó con người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác


lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại với nhau. Nói cách khác, giao tiếp xác lập và vận hành
các quan hệ người-người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này và chủ thể
khác.

Mối quan hệ giao tiếp giữa người với người có thể xảy ra với các hình thức:




Giữa cá nhân với cá nhân
GIữa cá nhân với nhóm
GIữa nhóm với nhóm, nhóm với cộng đồng.

Vai trò của giao tiếp:










Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người và xã hội. Xã hội là một cộng đồng người
có mối quan hệ tác động qua lại với nhau, có sự ràng buộc, liên kết với nhau.
Là điều kiện để tâm lí, nhân cách cá nhân phát triển bình thường. Nếu thiếu đi sự
giao tiếp với xã hội, tâm lí con người không thể phát triển bình thường được.
o VD: Những đứa trẻ được động vật nuôi.
Giao tiếp là nhu cầu sớm nhất của con người từ khi sinh ra đến khi mất đi. Từ khi
con người sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp, nhằm thỏa mãn những nhu cầu bản thân.
Giúp con người tiếp nhận và truyền đạt kinh nghiệm, thuyết phục, kích thích đối
tượng giao tiếp hoạt động, giải quyết các vấn đề, thỏa mãn những nhu cầu hứng thú,
cảm xúc tạo ra.
o Khi đứa trẻ mới sinh ra đã có nhu cầu giao tiếp với bố mẹ, mọi người xung
quanh để thỏa mãn nhu cầu được chăm sóc, được vui chơi,...
Thông qua giao tiếp, con người gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, lĩnh hội tri
thức, nền văn hóa xã hội, đạo đức, chuẩn mực xã hội.
o VD: Khi gặp người lớn tuổi hơn mình phải chào hỏi, xưng hô đúng mực.
Thông qua giao tiếp, con người hình thành năng lực tự ý thức. Trong quá trình giao
tiếp, con người nhận thức đánh giá bản thân mình trên cơ sở nhận thức đánh giá
người khác. Họ có xu hướng tìm kiếm ở người khác để xem ý kiến của mình có đúng
không, thừa nhận không. Trên cơ sở này có sự điều chỉnh, điều khiển hành vi của
mình. Qua giao tiếp, con người có khả năng tự giáo dục và tự hoàn thiện mình.
o VD: Khi tham gia hoạt động xã hội, cá nhân nhận thức được việc gì nên làm,
việc gì không nên làm như: nên giúp đỡ người có hoàn cảnh khó khăn, không
nên tham gia vào các tệ nạn xã hội,...

Cảm giác là một quá trình tâm lí phản ánh từng thuộc tính riêng lẻ của sự vật hiện tượng

đang trức tiếp tác động vào các giác quan của ta.

Các quy luật cơ bản của cảm giác:








Quy luật ngưỡng cảm giác: Muốn có cảm giác thì phải có sự kích thích vào các giác
quan và kích thích đó phải đạt đến một giới hạn nhất định. Giới hạn mà ở đó kích
thích gây ra được cảm giác gọi là ngưỡng cảm giác.
o Có 2 ngưỡng cảm giác, ngưỡng cảm giác dưới (ngưỡng tuyệt đối) và ngưỡng
cảm giác trên.
o Ngưỡng cảm giác dưới là cường độ kích thích tối thiểu để gây được cảm giác.
Ngưỡng cảm giác trên là cường độ kích thích tối đa còn gây được cảm giác.
o VD: Ngưỡng dưới của cảm giác nghe là ở tần số 16Hz, ngưỡng tên là 20000Hz,
ngoài vùng này, con người sẽ không nghe được âm thanh.
Quy luật thích ứng cảm giác: Để phản ánh được tốt nhất và bảo vệ hệ thần kinh, cảm
giác của con người có khả năng thích ứng với kích thích. Thích ứng là khả năng thay
đổi độ nhạy cảm của cảm giác cho phù hợp với sự thay đổi cường độ kích thích,
cường độ kích thích tăng thì giảm độ nhạy cảm và ngược lại,
o VD: Khi đang ở chỗ sáng vào chỗ tối, ban đầu không nhìn thấy gì nhưng sau đó
dần dần thấy rõ.
Quy luật tác động lẫn nhau của các cảm giác: Cảm giác không tồn tại độc lập mà luôn
tác động qua lại lẫn nhau. Trong sự tác động này, các cảm giác làm thay đổi tình hình
nhạy cảm của nhau và diễn ra theo quy luật: Sự kích thích yếu lên một cơ quan phân
tích này sẽ làm tăng độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích kia, sự kích thích mạnh

lên một cơ quan phân tích này sẽ làm giảm độ nhạy cảm của một cơ quan phân tích
kia. Sự tác động lẫn nhau có thể diễn ra đồng thời hay nối tiếp trên những cảm giác
cùng hay khác loại.
o VD: Sau một kích thích lạnh thì một kích thích ấm sẽ có vẻ nóng hơn.

Tri giác là một quá trình tâm lí phản ánh một cách trọn vẹn các thuộc tính bề ngoài của sự
vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta.

Các quy luật cơ bản của tri giác:




Quy luật về tính đối tượng của tri giác: Hình ảnh trực quan mà tri giác đem lại bao
giờ cũng thuộc về một sự vật, hiện tượng nhất định của thế giới bên ngoài. Tính đối
tượng của tri giác nói lên sự phản ánh hiện thực khác quan chân thực của tri giác và
nó được hình thành do sự tác động của sự vật, hiện tượng xung quanh vào giác quan
con người trong hoạt động vì những nhiệm vụ của thực tiễn. Là cơ sở cho chức năng
định hướng cho hành vi và hoạt động của con người.
Quy luật về tính lựa chọn của tri giác: Tri giác con người không thể đồng thời phản
ảnh tất cả các sự vật hiện tượng đa dạng đang tác động mà chỉ tách đối tượng ra khỏi
bối cảnh.Sự lựa chọn của tri giác không có tính chất cố định, vai trò của đối tượng và
bối cảnh có thể thay đổi cho nhau, dựa vào mục đích cá nhân và điều kiện xung
quanh khi tri giác.


Nhiều ứng dụng trong cuộc sống như kiến trúc, trang trí, ngụy trang,... ví dụ
như thay đổi màu mực hay gạch dưới những chữ có ý nghĩa quan trọng.
Quy luật về tính có ý nghĩa của tri giác: tri giác người gắn chặt với tư duy, với bản
chất sự vật, hiện tượng. Nó diễn ra có ý thức, tức là gọi được tên của sự vật, hiện

tượng đang tri giác trong óc, xếp được chúng vào một nhóm, một lớp sự vật, hiện
tượng nhất định, khái quát vào những từ xác định. Trong tri giác, việc tách đối tượng
ra khỏi bối cảnh gắn với việc hiểu ý nghĩa và tên gọi của nó.
Quy luật về tính ổn định: Sự vật, hiện tượng được tri giác ở những vị trí và điều kiện
khác nhau nên hình ảnh của chúng luôn thay đổi . Khi đó, các quá trình tri giác cũng
thay đổi tương ứng nhưng do khả năng bù trù của hệ thống tri giác, ta vẫn tri giác các
sự vật, hiện tượng ổn định về hình dáng, kích thước,...
o VD:Ta nhìn chiếc xe tải ở xa hơn xe con, hình ảnh trên vòng mạc xe tải trông sẽ
nhỏ hơn nhưng ta vẫn tri giác xe tải lớn hơn.
o Tính ổn định của tri giác được hình thành trong hoạt động và đối tượng là một
điều cần thiết để định hướng trong hoạt động và cuộc sống của con người.
o









Quy luật tổng giác: Ngoài vật kích thích bên ngoài, tri giác còn bị quy định bởi một
loạt nhân tố trong chủ thể tri giác như thái độ, nhu cầu, hứng thú,...Sự phụ thuộc của
tri giác vào nội dung đời sống tâm lí của con người gọi là hiện tượng tổng giác. Chứng
tỏ ta có thể điều kiển được tri giác.
o VD: Trong dạy học phải tính đến kinh nghiệm, hiểu biết, sự húng thú,...của học
sinh.
Ảo giác: là trong một số trường hợp với những điều kiện thực tế xác định, tri giác có
thể không cho ta hình ảnh đúng về sự vật, hiện tượng. Ảo giác là tri giác không đúng,
bị sai lệch.

o Vận dụng trong kiến trúc, trang trí, hội họa,... ví dụ như những bức tranh đánh
lừa thị giác.

Tư duy là một quá trình tâm lí phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ và
quan hệ bên trong có tính quy luật của sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan trước
đó mà ta chưa biết.

Đặc điểm của tư duy:




Tính “có vấn đề”: Muốn kích thích được tư duy phải đồng thời có hai điều kiện: thứ
nhất, phải gặp hoàn cảnh (tình huống) có vấn đề, thứ hai, hoàn cảnh có vấn đề đó
phải được cá nhân nhận thức đầy đủ, được chuyển thành nhiệm vụ của cá nhân.
Tính gián tiếp của tư duy: Tư duy phát hiện ra bản chất của sự vật, hiện tượng và quy
luật giữa chúng nhờ sử dụng công cụ, phương tiện (đồng hồ, thước đo,...) và các kết
quả nhận thức (quy tắc, công thức, quy luật,...) của loài người và kinh nghiệm cá
nhân. Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ được biểu hiện trong ngôn ngữ.







Tính trừu tượng và khái niệm của tư duy: Tư duy phản ánh cái bản chất nhất, chung
cho nhiều sự vật hợp lại thành một nhóm, một loại, một phạm trù, đồng thời trừu
xuất khỏi những sự vật đó những cái cụ thể, cá biệt.
Liên hệ chặt chẽ với ngôn ngữ: Tư duy trừu tượng, gián tiếp, khái quát không thể tồn

tại bên ngoài ngôn ngữ, nó phải dùng ngôn ngữ làm phương tiện cho mình.
Có quan hệ mật thiết với nhận thức cảm tính: Tư duy phải dựa trên những tài liệu
cảm tính, trên kinh nghiệm, trên cơ sở trực quan sinh động.

Vai trò của tư duy:






Mở rộng giới hạn nhận thức, tạo khả năng để vượt ra ngoài những giới hạn của kinh
nghiệm trực tiếp do cảm giác và tri giác mang lại để đi sâu vào bản chất sự vật, hiện
tượng và tìm ra những mối quan hệ có tính quy luật giữa chúng.
Không chỉ giải quyết những nhiệm vụ trước mắt, trong hiện tại mà còn có khả năng
giải quyết trước cả những nhiệm vụ trong tương lai do nắm bắt được bản chất và
quy luật vận động của tự nhiên xã hội và con người.
Cải tạo lại thông tin của nhận thức cảm tính làm chúng có ý nghĩa hơn cho hoạt động
của con người.

Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ứng những cái chưa từng có trong kinh nghiệm
của các nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những biểu tượng đã có.

Đặc điểm của tưởng tượng:







Tưởng tượng chỉ nảy sinh trước hoàn cảnh có vấn đề (tức là trước những đòi hỏi
mới, thực tiễn chưa từng gặp, nhu cầu khám phá, phát hiện, làm sáng rõ cái mới),
nhưng chỉ khi tính bất định của hoàn cảnh của quá lớn.
Mang tính gián tiếp và khái quát cao hơn so với trí nhớ. Biểu tượng của tưởng tượng
là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu tượng của trí nhớ, nó là tính biểu
tượng của biểu tượng.
Liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính: sử dụng biểu tượng của trí nhớ, do nhận
thức cảm tính thu lượm, cung cấp.

Vai trò của tưởng tượng:





Cần thiết cho bất kì hoạt động nào của con người, cho phép con người hình dung
được kết quả trung gian và cuối cùng của lao động.
Tạo nên những hình mẫu hoàn hảo mà con người mong đợi và vươn tới (lí tưởng),
làm nhẹ bớt nặng nề, khó khăn của cuộc sống, hướng con người về tương lại, kích
thích con người hành động để đạt được kết quả lớn lao.
Ảnh hưởng rõ rệt đến việc tiếp thu và thể hiện tri thức mới.


Trí nhớ được biểu hiện là sự ghi lại, giữ lại và làm xuất hiện lại (tái hiện) những gì cá nhân
thu được trong hoạt động sống của mình.

Những quá trình cơ bản của trí nhớ:


Sự ghi nhớ là quá trình trí nhớ đưa tài liệu nào đo vào ý thức, gắn tài liệu đó với

những kiến thức hiện có, làm cơ sở cho quá trình giữ gìn về sau đó.
o Sự ghi nhớ của con người được quyết định bởi hành động, động cơ, mục địch
và phương tiện đạt mục đích đó quy định chất lượng của sự ghi nhớ. Sự ghi
nhớ tài liệu nào là kết quả của hành động với tài liệu đó, đồng thời là điêug
kiện, phương tiện để thực hiện những hành động tiếp theo của hoạt động.
 Ghi nhớ không chủ đích là sự ghi nhớ không có mục đích đặt ra từ trước.
Sự ghi nhớ này được thực hiện trong trường hợp nội dung tài liệu trở thành
mục đích chính của hành động, hơn nữa hành động lặp đi lặp lại nhiều lần.
 Ghi nhớ có chủ định: mục đích ghi nhớ được cá nhân tự giác đặt ra, đồng
thời có sự tìm kiếm biện pháp mang tính chất kĩ thuật để đạt mục đích ghi
nhớ.



Sự giữ gìn: Giữ gìn là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã được hình thành
trên não trong quá trình ghi nhớ.
Sự tái hiện là một quá trình trí nhớ làm sống lại những nội dung đã ghi nhớ từ trước.
Quá trình này có thể diễn ra dễ dàng hoặc khó khăn.
o Nhận lại là hình thức tái hiện khi sự tri giác đối tượng được lặp lại. Sự nhận lại
cũng có thể không đầy đủ và do đó không xác định.
o Nhớ lại là hình thức tái hiện không diễn ra sự tri giác lại đối tượng. Nhớ lại là
một điều kiện của hoạt động nhưng có khi ta không ý thức được trong hoạt
động vừa qua ta đã nhớ lại được cái gì. Nhớ lại không diễn ra tự nó mà bao giờ
cũng có nguyên nhân, theo quy luật liên tưởng, mang tính chất logic chặt chẽ
và có hệ thống.
o Hồi tưởng là hình thức tái hiện cần có sự cố gắng rất nhiều của trí tuệ. Đây là
một hành động trí tuệ phức tạp mà kết quả của nó phụ thuộc vào việc cá nhân
ý thức rõ ràng, chính xác đến mức nào nội dung của nhiệm vụ tái hiện. Trong
hồi tượng, những ấn tượng trước đây không được tái hiện máy móc mà
thường được sắp xếp khác đi, gắn với những sự kiện mới.

Sự quên là không tái hiện lại được nội dung đã ghi nhớ trước đây vào thời điểm cần
thiết. Nó diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, có cái gần như không thể nào quên, có
cái phải khó khăn mới nhớ lại được, có cái không thể nhớ lại được. Song, nếu hiện tại
không thể nhớ lại được một sự kiện không có nghĩa là nó đã bị quên hoàn toàn.






o

o

Quên có nhiều nguyên nhân: có thể là do trong quá trình ghi nhớ, có thể là do
quy luật ức chế của hoạt động thần kinh, và do không gắn được hoạt động
hàng ngày.
Quên diễn ra có quy luật: sau mỗi lần tiếp xúc với tài liệu, tốc độ quên xảy ra
chậm dần.

Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với tự vật hiện tượng
có liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ.
Các quy luật của tình cảm:










Quy luật “ thích ứng”: nếu một tình cảm nào đó cứ lặp đi lặp lại một cách đơn điệu
thì đến một lúc nào đó sẽ có hiện tượng thích ứng, mang tính chất “chai sạn”.
Quy luật “cảm ứng” hay “tương phản”: Trong quá trình hình thành và biểu hiện tình
cảm, sự xuất hiện hoặc yếu đi của tình cảm này có thể làm tăng hoặc giảm một tình
cảm khác đồng thời hoặc nối tiếp nó.
Quy luật “pha trộn”: trong đời sống tình cảm, nhiều khi 2 tình cảm đối cực nhau có
thể cùng xảy ra một lúc, nhưng không ngoại trừ nhau, chúng pha trộn với nhau.
Quy luật “di chuyển”: Trong cuộc sống hàng ngày có lúc tình cảm thể hiện quá linh
động, có khi ta không kịp làm chủ tình cảm của mình. Tình cảm từ đối tượng này sang
đối tượng khác có liên quan đối với đối tượng gây nên tình cảm trước đó.
Quy luật “lây lan”: trong mối quan hệ tình cảm giữa con ngời với nhau có hiện tượng
vui lây, buồn lây, cảm thông,… giữa người này với người khác.
Quy luật về sự hình thành tình cảm: Xúc cảm là cơ sở của tình cảm. Tình cảm được
hình thành do quá trình tổng hợp hóa, động hình hóa và khái quát hóa những xúc
cảm cùng loại. Tình cảm được xây dựng từ những xúc cảm nhưng khi đã được hình
thành thì tình cảm lại thể hiện qua những xúc cảm đa dạng và chi phối xúc cảm.

Ý chí là một phẩm chất nhân cách, ý chí thể hiện năng lực thực hiện những hành động có
mục đích đòi hỏi phải có sự nỗ lực khắc phục khó khăn.

Ý chí được thể hiện qua các phẩm chất:






Tính mục đích: là phẩm chất đặc biệt quan trọng của ý chí. Cho phép con người điều

chỉnh hành vi hướng vào mục đích tự giác. Tính mục đích của ý chí phụ thuộc vào thế
giới quan, vào nội dung đạo đức và tính giai cấp của nhân cách mang ý chí.
Tính độc lập: là phẩm chất ý chí cho phép con người qyết định và thực hiện hành
động theo những quan điểm và niềm tin của mình.
Tính quyết đoán: là khả năng đưa ra những quyết định kịp thời, dứt khoát trên cơ sở
tính toán cân nhắc kĩ càng, chắc chắn.
Tính kiên cường: nói lên cường độ của ý chí, cho phép con người có những quyết
định đúng đắn kịp thời trong những hoàn cảnh khó khăn và kiên trì thực hiện đến
cùng mục đích đã xác định.





Tính dũng cảm: khả năng sẵn sang và nhanh chóng vươn tới mục đích bất chấp khó
khăn nguy hiểm cho tính mạng hay lợi ích bản thân.
Tính kiềm chế, tự chủ: là khả năng và thói quen kiểm tra hành vi làm chủ bản thân
của mình, kìm hãm những hành động không cần thiết hoặc có hại trong trường hợp
cụ thể.



×