Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Đồ án nghiên cứu ứng dụng PLC s7 200 và biến tần simens vào quá trình nâng hạ điện cực lò hồ quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.22 KB, 107 trang )

Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ

Lời nói đầu
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, ngành công
nghiệp luyện kim đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Hiện tại ở Việt Nam,
trong công nghiệp luyện kim phương pháp luyện thép bằng lò hồ quang được
dùng tương đối phổ biến, với ưu điểm cơ bản là đơn giản, tiện lợi, dễ điều
chỉnh để tạo ra mác thép mong muốn.
Là một kỹ sư tương lai, em luôn xác định rõ trách nhiệm học tập của
mình về kiến thức và kinh nghiệm để sau này có thể góp phần thúc đẩy sự
phát triển nền công nghiệp nước nhà tiến gần đến các nền công nghiệp tiên
tiến của các nước trên thế giới. Sau 5 năm học tập và nghiên cứu tại trường,
em được nhận đề tài tốt nghiệp là: "Nghiên cứu ứng dụng PLC S7-200 và
biến tần Simens vào quá trình nâng hạ địên cực lò hồ quang".
Qua thời gian tìm tòi nghiên cứu, cùng với sự hướng dẫn tận tình của
thầy

NGUYỄN VĨNH THỤY cùng các thầy, cô giáo trong bộ môn tự động

hoá, em đó hoàn thành đề tài được giao.
Do thời gian và kiến thức còn hạn chế nên trong đồ án này không tránh
khỏi những thiếu sót, em mong được các thầy, cô và các bạn đóng góp ý kiến
để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy

NGUYỄN

VĨNH THỤY các thầy cô trong bộ môn đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành
đồ án được giao.
Thái nguyên 09/11 /2010
Sinh viên thực hiện


NGUYỄN VĂN KHƯƠNG

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

6

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ

PHẦN I:
GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ VÀ YÊU CẦU TRANG BỊ ĐIỆN
CHO LÒ HỒ QUANG
A. GIỚI THIỆU CÔNG NGHỆ LÒ HỒ QUANG.
I. KHÁI NIỆM CHUNG VÀ PHÂN LOẠI LÒ HỒ QUANG.
1. Khái niệm:
Lò hồ quang là lò lợi dụng nhiệt của ngọn lửa hồ quang giữa các điện cực
hoặc giữa điện cực và kim loại để nấu chảy kim loại. Lò điện hồ quang dùng
để nấu thép chất lượng cao.
2. Phân loại:
+ Theo dòng điện sử dụng: Lò hồ quang một chiều, lò hồ quang xoay chiều.
+ Theo cách cháy của ngọn lửa hồ quang:
- Lò nung nóng trực tiếp: Nhiệt của ngọn lửa xảy ra giữa điện cực và kim
loại dùng để nấu chảy kim loại (hình a).
- Lò nung nóng gián tiếp: Nhiệt của ngọn lửa xảy ra giữa hai điện cực
được dùng để nấu chảy kim loại (hình b).

Hình a


hình b

+Theo đặc điểm chất liệu vào lò:
- Lò chất liệu trên đỉnh lò xuống nhờ gầu chất liệu, loại lò này có cơ cấu
nâng ván nóc.
- Lò chất liệu bên sườn bằng phương pháp thủ công hay máy móc qua cửa lò.
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
7
SVTK: Nguyễn Văn
Khương


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
+ Theo số tấn thép được luyện (theo dung lượng định mức của lò): 0,5; 1,
5; 3;

5; 12 ... tấn.

+ Theo dung dịch nấu luyện: Lò axit, lò bazơ.
+ Theo tính chất nấu luyện: Lò hồ quang chân không, lò hồ quang plasma.
II- CẤU TẠO CỦA LÒ HỒ QUANG:
* Thiết bị cơ khí lò điện hồ quang:
1. Vỏ lò:
Vỏ lò cần có độ bền cơ học cao, có khả năng chịu tải trọng của kim loại và
áp lực giãn nở khi nung nóng, vỏ lò thường làm bằng thép tấm dày 10 ÷
30mm bằng cách ghép hay hàn. Trong vỏ lò có vật liệu chịu lửa, vỏ thân lò
thường có dạng hình trụ hình côn hoặc phối hợp trụ côn, đáy vỏ lò có thể là
hình cầu, hình thang.
2. Cửa lò:

Lò gồm hai cửa, cửa ra xỉ và cửa ra thép. Cửa lò được đóng mở bằng khí
nén thuỷ lực hoặc bằng động cơ điện.
3. Cặp điện cực:
Trong lò điện cặp điện cực để giữ điện cực và dẫn dòng điện đến điện cực.
Nó gồm có các bộ phận: Mặt đầu, cặp lò xo, khí nén và bàn trượt.
4. Nắp lò: Được làm từ thép tấm có đầm vật liệu chịu lửa.
5. Máng rót thép: dùng để đưa thép ra ngoài.
6. Vành làm chặt: Để làm giảm khe hở giữa điện cực và lắp lò.
7. Thiết bị nghiêng lò: Tuỳ theo dung lượng lò mà chọn kiểu nghiêng lò cho
thích hợp, đảm bảo nghiêng lò 40 ÷ 450 về phía rót thép và 10 ÷ 150 về phía
cào xỉ và chất liệu, có hai kiểu nghiêng lò:
+ Nghiêng lò bên hông: Loại này có ưu điểm là thiết bị đơn giản gọn gàng,
khi mất điện có thể quay bằng tay, tránh được sự bám dính của xỉ và kim loại.
+ Nghiêng lò đặt dưới đắy: Loại này có ưu điểm là quay lò rất vững chắc,
quay êm và đều, có thể tự động điều khiển hoàn toàn. Loại này có nhược điểm
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

8

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
là dễ rơi xỉ và kim loại vào động cơ điện. Công việc bảo quản thiết bị khó
khăn, phức tạp. Tất cả các lò có dung tích trung bình và lớn đều có cơ cấu
nghiêng lò loại 2.
8. Thiết bị cơ khí nâng hạ điện cực:
Bình thường lò điện có 3 điện cực, tương ứng có 3 cơ cấu nâng hạ điện
cực của 3 pha. Khi động cơ quay sẽ làm cho tang quay kéo giây cáp, dây cáp

sẽ nâng hoặc hạ điện cực lên hoặc xuống.
Trong cơ cấu nâng hạ còn có đối trọng, nhờ có đối trọng mà tốc độ lên của
điện cực luôn lớn hơn tốc độ xuống. Tuỳ theo loại lò mà tốc độ lên và xuống
của điện cực cũng khác nhau:
Đối với lò lớn: Vlên=1÷ 1,5 m/p’
Vxuống=0,5 ÷ 0,8 m/p’
Đối với lò nhỏ: Vlên=1,5÷ 2 m/p’
Vxuống=1,2 ÷ 1,5 m/p’
* Có hai loại thiết bị nâng hạ điện cực:
+Loại bàn trượt: Loại này thường dùng thích hợp cho lò có dung tích nhỏ
vì thiết bị đơn giản, dễ chế tạo nhưng có nhược điểm là do trụ đứng cần có chiều
cao nhất định nên ảnh hưởng đến sự làm việc chung của cần trục trong phân
xưởng.
+Loại trụ xếp: Loại này dùng thích hợp cho những lò có dung tích lớn, có
thể hạ thấp chiều cao khi cần thiết, kết cấu chắc chắn nhưng phức tạp.
Trong đồ án này em thiết kế lò hồ quang dùng thiết bị nâng hạ điện cực
kiểu bàn trượt với sự dẫn động bằng động cơ điện.

9. Cơ cấu làm mát cho lò:

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

9

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Vì trong quá trình nấu luyện kim loại thì nhiệt độ trong và xung quanh lò

đạt rất cao do đó cần phải có thiết bị làm mát để giảm nhiệt độ và tăng tuổi
thọ cho lò. Làm nguội bằng nước yêu cầu cần có các bộ phận sau:
+ Mặt đầu của cặp điện cực
+ ống dẫn điện
+ Vành làm chặt giữa điện cực và nắp lò
+ Tấm chắn cửa chính và cửa phụ
+ Vòm cửa lò và cột của cửa làm việc
+ Vành nắp lò
+ Thân vỏ lò và trên lỗ rót thép.
Ngoài ra còn cần làm nguội ở các ống mềm, phần dây cáp. Hệ thống bơm
nước làm mát tuần hoàn được thực hiện bằng một động cơ điện, nước được đi
vào trong ống rồi tới lò.
10. Ngoài ra đối với lò hồ quang nạp liệu từ trên cao con có cơ cấu nâng quay
vòm lò, cơ cấu nạp liệu...
Trong các lò hồ quang có nồi lò sâu, kim loại lỏng ở trạng thái tĩnh có
chênh nhiệt độ theo độ cao (khoảng 100 0C/m) trong điều kiện đó để tăng
cường phản ứng của kim loại và để đảm bảo khả năng nung nóng kim loại
trước khi rót. Cần phải khuấy trộn kim loại lỏng. ở các lò dung lượng nhỏ
(dưới 6T) thì việc khuấy trộn thực hiện bằng tay qua cơ cấu cơ khí. Với lò
dung lượng trung bình(12 ÷ 50)T và đặc biệt lớn(100T và hơn) thì thực hiện
bằng thiết bị khuấy để không những giảm lao động vất vả của thợ nấu mà còn
nâng cao được chất lượng của kim loại nấu. Thiết bị khuấy trộn kim loại lỏng
thường là thiết bị điện từ có nguyên lý làm việc tương tự như động cơ không
đồng bộ Rôto lồng sóc.
III. CHẾ ĐỘ NĂNG LƯỢNG ĐIỆN LÀM VIỆC CỦA LÒ HỒ QUANG.
Năng suất lò hồ quang và chi phí năng lượng điện cho một tấn thép ở một
mức độ lớn phụ thuộc vào việc định ra chế độ điện trong quá trình nấu luyện,
chế độ điện hợp lý thì quá trình nấu luyện sẽ kinh tế. Chế độ điện hợp lý có
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
10

SVTK: Nguyễn Văn
Khương


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
liên quan đến chế độ nhiệt hợp lý. Trong quá trình nấu luyện chế độ nhiệt ở
các thời kỳ khác nhau do đó chế độ điện cũng khác nhau.
*. Yêu cầu công suất điện trong quá trình nấu luyện.
1.Thời kỳ nấu chảy.
Trong thời kỳ này yêu cầu công suất điện đưa vào lò cực đại
Pmax = (1,25÷ 1,3) Ptb

với Ptb : là công suất trung bình, Ptb = (0,7÷

0,75)Pđm .
Khi mới cho điện vào lò hồ quang cháy trên mặt liệu rắn gần nắp lò. Cho
nên ở đầu thời kỳ nấu chảy ( 5 ÷ 10 )phút nên dùng công suất nhỏ hơn công
suất cực đại, sau khi liệu đã bắt đầu chảy thành 3 hố, mới cho phép tăng
dần đến giá trị cực đại. Cuối thời kỳ nấu chảy, công suất giảm dần xuống
bằng giá trị trung bình.
Đồ thị P(t):
P(MW)
Nấu chảy

Tu sửa vệ
sinh

Ô xi hóa

t(h)

Hoàn nguyên

Đồ thị công suất hữu công tiêu thụ ở lò HQ
2. Thời kỳ oxy hóa:
Tuỳ theo phương pháp luyện mà chọn công suất cho lò cao hay thấp. Nấu
luyện có giai đoạn sôi ở đầu thời kỳ oxy hóa cần tạo xỉ nhiều nên yêu cầu

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

11

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
công suất điện phải lớn hoặc bằng công suất trung bình. Cuối thời kỳ oxy hóa
khi đã tạo xỉ xong yêu cầu công suất điện nhỏ hơn công suất trung bình.

3. Thời kỳ hoàn nguyên.
Trong thời kỳ này nhiệt độ của kim loại, tường và nắp lò đã cao và tương
đối ổn định, vì vậy công suất điện không lớn lắm nhưng yêu cầu ổn định
nghĩa là công suất nhỏ hơn công suất trung bình
Tuỳ theo phương pháp luyện thép và mác thép mà cần chọn chế độ điện
cho lò trong thời kỳ hoàn nguyên.
IV. LUYỆN THÉP TRONG LÒ HỒ QUANG.
Vật liệu và chuẩn bị nguyên vật liệu cho mẻ luyện:
Nguyên vật liệu: Nguyên vật liệu chính để sản xuất thép lò điện là sắt thép
vụn, phế liệu hợp kim, sắt công nghiệp (sắt mềm), gang luyện, chất tạo sỉ,
chất khử oxy và hợp kim hoá( phụ gia kim loại) và chất tăng cacbon.

1.Sắt thép vụn.
- Phế phẩm thép ở các xưởng cơ khí, như phoi bào, phoi tiện.
- Phế phẩm từ các xưởng đúc như vật liệu đúc hỏng, thép thừa khi đúc.
- Đầu thừa ở các xưởng cán
- Các loại thép vụn hư hỏng khác như công cụ lao động, máy móc bị thải,
vũ khí, đường day hư hỏng ...
2. Phế liệu hợp kim.
Dùng để luyện các loại thép hợp kim cùng nguyên tố hợp kim. Sử dụng
phế liệu hợp kim có một ý nghĩa rất lớn ngoài tác dụng nâng cao chất lượng
của thép mà còn hạ giá thành của thép.
3. Sắt công nghiệp ( sắt mềm):

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

12

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Dùng để luyện một số loại thép yêu cầu cacbon thấp lượng nguyên tố hợp
kim cao. Do giá thành của sắt công nghiệp cao hơn sắt thép vụn bình thường
nên người ta dùng để luyện những loại thép phổ thông.
4. Gang:
Gang trong luyện thép lò điện làm nhiệm vụ tăng hàm lượng sắt và hàm
lượng cacbon. Ngoài ra do gang có nhiệt độ chảy thấp ( 125 0 ÷ 13000c). Nên
gang trong lò điện còn làm nhiệm vụ giúp cho các chất khó chảy khác ( thép
vụn) trở nên dễ chảy hơn.
5. Chất tạo xỉ.

Để tạo xỉ trong lò điện hay dùng các chất tạo xỉ sau:
- Đá vôi (CaCO3): Đá vôi cho vào để tạo xỉ có độ kiềm thích hợp nhằm
khử P và S. Đá vôi có thể cho vào ở thời kỳ nấu chảy, thời kỳ oxy hóa, và cả
thời kỳ hoàn nguyên, lượng cho vào tuỳ thuộc qúa trình công nghệ. Dùng đá
vôi có ưu điểm là độ bền cao, độ ẩm thấp, ít lưu huỳnh.
- Vôi: Cũng như đá vôi, vôi cho vào lò để tạo xỉ có độ kiềm thích hợp
nhằm khử P và S.
- Huỳnh thạch: Trong lò điện có tác dụng giảm nhiệt độ chảy của xỉ có
độ kiềm cao.
- Cát: ở một số nhà máy người ta ít dùng cát với số lượng không lớn lắm
để tạo xỉ hoàn nguyên.
- Bột samot: Bột samốt chứa gần 60% SiO 2 và 35% Al2O3. Bột samot
làm vật liệu tạo xỉ khi luyện thép không gỉ, để làm loãng xỉ manhezit mà nó
được mang vào khi vá lò.
6. Chất oxy hóa:
Mục đích cho các chất oxy hóa vào lò để:
-Tăng lượng oxy trong kim loại, chủ yếu ở thời kỳ nấu chảy và thời kỳ oxy
hóa, nhằm mục đích tăng tốc độ khử phôt pho, cacbon, silic và Mangan do đó
rút ngắn được thời gian oxy hóa các nguyên tố trên.
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

13

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
-Tăng sự sôi trong nồi lò kim loại, do đó tạo điều kiện tốt cho việc khử khí
(N2, H2 ) và tạp chất được triệt để, ngoài ra sự sôi còn làm cho thành phần và nhiệt

độ kim loại được đồng đều. Trong lò điện hay dùng các chất oxy hóa sau:
-Quặng sắt: Là chất oxy hóa rất quan trọng, vì vậy hầu hết các phương
pháp luyện thép đều dùng quặng sắt làm chất oxy hóa, lượng quặng sắt dùng
khoảng 40÷ 50 kg/ 1tấn thép. Yêu cầu đối với quặng sắt phải có hàm lượng
oxy cao, hàm lượng SiO2 và P2O5 thấp, khi dùng quặng sắt làm chất oxy hóa
có ưu điểm là sắt lắng xâu vào lòng kim và oxy ngay trong lòng kim loại giúp
cho kim loại sôi mạnh, dùng quặng sắt rất kinh tế vì nó rất rẻ mà tăng được
lượng sắt. Dùng quặng sắt có nhược điểm là lượng xỉ nhiều vì trong quặng sắt
ngoài oxit sắt ra còn có SiO 2, Al2O3 và MnO .. . Do đó tốn vôi để tạo xỉ, năng
lượng điện lớn, công nhân làm việc vất vả nhất là khi cào xỉ. Đồng thời khi
cho quặng vào làm cho nhiệt độ dễ bị giảm.
- Vẩy sắt: Vẩy sắt lấy từ xưởng rèn, xưởng cán, vẩy sắt có ít tạp chất,
nhưng có nhược điểm là nhẹ cho vào lò sắt dễ dàng nổi trên mặt xỉ.
- Oxy: Oxy được thổi vào lò ở thời kỳ nấu chảy hoặc có khi cả thời kỳ oxy
hóa với lưu lượng 20 m3/ h, áp suất 9÷ 12 at, độ nguyên chất 99,8%.
7.Chất khử oxy:
Trong lò điện để khử oxy còn lại trong kim loại lỏng khử các tạp chất có
hại như S và P đồng thời hợp kim hoá thép người ta dùng các chất Ferô mangan, Ferô - Silic, nhôm.

8. Chất tăng cacbon:
Để tăng cacbon người ta dùng vụn điện cực và cốc để khử oxy của xỉ dùng
bột cốc, bồ hóng, than gỗ. Vật tăng cacbon rất tốt là bột điện cực vì nó chứa ít
S, có trọng lượng riêng tương đối lớn vì vậy dễ hoà tan với kim loại.

B. HỆ THỐNG ĐIỆN CHO LÒ HỒ QUANG
I. ĐIỆN CỰC:
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

14


SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
1. Khái niệm:
Dòng điện đi vào khoảng không nóng chảy của lò hồ quang theo các điện
cực. Nhờ điện cực mà điện năng biến thành nhiệt năng nấu chảy kim loại, do
đó chất lượng của điện cực và phương pháp dẫn dòng điện đến nó có ý nghĩa
lớn. Giá thành điện cực chiếm 10% chi phí nấu luyện một tấn thép.
2. Phân loại:
Trong lò hồ quang hay dùng 2 loại điện cực:
Điện cực than và điện cực grafit. Điện cực than dùng cho lò lớn.
Trong quá trình làm việc điện cực thường bị mòn do bị oxy hóa bởi khí lò và
bay hơi do sự cháy của hồ quang do đó điện cực ngắn dần nên cần phải nối
điện cực bằng ren.
3. Yêu cầu đối với điện cực:
Độ dẫn điện và độ bền cơ học phải cao, để giảm tổn thất năng lượng điện
và hạn chế sự hư hỏng của điện cực khi làm việc.
Nhiệt độ bắt đầu bị oxy hóa ở không khí phải cao để giảm chi phí điện cực
do bị oxy hóa và tăng chất lượng của thép.
Tạp chất có trong điện cực phải ít, nhất là tro và lưu huỳnh.
Giá thành thấp và dễ sản xuất.
4. Kích thước của điện cực:
Đối với lò nhỏ đường kính điện cực: d=200 ÷ 300mm
Đối với lò trung bình đường kính điện cực: d=400 ÷ 500mm
Đối với lò lớn đường kính điện cực: d=500 ÷ 600mm
Chiều dài của điện cực phụ thuộc vào chiều cao của lò. Đường kính của
điện cực được xác định theo công thức sau:
d=


Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

0,406.I 2 .ρ
cm
k

15

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
II. HỒ QUANG ĐIỆN.
-Sự gián đọan của hồ quang: Hồ quang có thể sinh ra từ dòng điện một
chiều và xoay chiều, nhưng trong lò điện luyện thép hầu hết đều dùng dòng
điện xoay chiều. Đối vời nguồn xoay chiều do điện áp biến thiên hình sin nên
làm cho hồ quang bị gián đoạn.
- Sự thay đổi của hồ quang: Trong quá trình nấu luyện khoảng cách giữa
điện cực và bề mặt kim loại luôn thay đổi do đó làm cho hồ quang thay đổi
theo.
III. GIỚI THIỆU MẠCH LỰC LÒ HỒ QUANG
Trong phân xưởng luyện thép lò điện thường có một biến thế riêng có điện
áp vào là 6, 10, 35KV tuỳ theo công suất của lò mà điện thế của lò 100 ÷
600V và cường độ dòng điện có thể lên tới 10KA.
1. Máy biến thế lò:
Để chuyển năng lượng từ điện thế cao sang điện thế làm việc người ta
dùng biến thế lò. Máy biến thế của lò làm việc trong điều kiện rất nặng nề nên
nó có đặc điểm sau:

- Công suất thường rất lớn (có thể tới hàng chục MW) và dòng điện thứ
cấp rất lớn (tới hàng trăm KA).
- Điện áp ngắn mạch lớn để hạn chế dòng ngắn mạch dưới (2,5 ÷ 4)Iđm .
- Có độ bền cơ học cao để chịu được các lực điện từ phát sinh trong các
cuộn dây, thanh dẫn khi có ngắn mạch.

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

16

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Sơ đồ thiết bị của mạch lực lò hồ quang:
3-6-10 KV
CL
1MC
TU

A

1TI

v

w
w


A
A

KWh

ĐKBV

2MC

3MC


4MC

/

BAL
A
2TI

v

V

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

17

SVTK: Nguyễn Văn



Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
- Có khả năng điều chỉnh điện áp sơ cấp dưới tải trong một giới hạn rộng.
- Có khả năng quá tải.
- Phải làm mát tốt vì dòng rất lớn, hay xẩy ra ngắn mạch, biến thế đặt ở nơi
kín lại ở gần lò.
Công suất biến thế lò có thể xác định gần đúng từ điều kiện nhiệt trong
giai đoạn nấu chảy vì ở các giai đoạn khác, lò đòi hỏi công suất tiêu thụ ít
hơn.
Nếu coi rằng trong giai đoạn nấu chảy tổn thất năng lượng nấu chảy trong
lò hồ quang, trong biến thế lò và cuộn kháng L được bù trừ bởi năng lượng
của phản ứng toả nhiệt thì công suất biến thế lò có thể xác định bởi biểu thức
sau:
SBTL =

W
(KVA).
Tnc.Ksd . cos ϕ

Trong đó: Tnc là thời gian nấu chảy (từ lúc dừng lò, giờ).
Ksd là hệ số sử dụng công suất biến thế lò trong giai đoạn nấu chảy.
cosϕ là hệ số công suất của thiết bị lò hồ quang.
W là năng lượng hữu ích và tổn hao nhiệt trong thời kỳ nấu chảy và dừng
lò giữa 2 mẻ nấu (KWh). W = w.G.
G là khối lượng kim loại nấu (T).
w là suất chi phí điện năng để nấu chảy (KWh/T), suất chi phí điện năng
giảm đối với lò có dung lượng lớn, thường w = (400 ÷ 600KWh/T).
Thời gian nấu chảy được tính từ lúc cho lò làm việc sau khi chất liệu cho
đến khi kết thúc việc nấu chảy. Thường thì thời gian này từ 1 ÷ 3h tuỳ theo

dung lượng của lò.
Hệ số sử dụng công suất biến thế lò thường là 0,8 ÷ 0,9 gây ra do sử dụng
không đầy đủ công suất biến thế lò, do biến động các thông số của lò, do hệ
số tự động điều chỉnh không hoàn hảo, do không đối xứng giữa 3 pha....Hiện
nay công suất biến thế lò ngày càng tăng vì nó cho phép giảm thời gian nấu
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

18

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
chảy, giảm suất chi phí do hạ tổn hao nhiệt. Năng suất của lò phụ thuộc vào
dung lượng biến thế lò, giá trị công suất danh nghĩa (dung lượng biến thế) của
lò điện hồ quang theo ΓOCT 7206-54 như sau: Dung lượng định mức của lò
(T): 0,5; 1,5; 3; 5; 10; 20; 40.
Công suất danh nghĩa biến thế (KVA): 400; 100; 1800; 2800; 5000; 9000;
15000.
Quận thứ cấp biến thế lò thường được nối tam giác vì dòng ngắn mạch
được phân ra 2 pha và như vậy điều kiện làm việc của các cuộn dây sẽ nhẹ
hơn. Biến thế lò thường phải làm việc trong tình trạng ngắn mạch và phải có
khả năng quá tải nên thường chế tạo to, nặng hơn các máy biến thế động lực
cùng công suất.
2. Thiết bị đóng cắt đo lường và bảo vệ:
a. Thiết bị đóng cắt:
Cầu dao cách li CL dùng phân cách mạch động lực của lò với lưới khi cần
thiết, chẳng hạn lúc sửa chữa. Máy cắt 1MC dùng để bảo vệ lò hồ quang khỏi
ngắn mạch sự cố. Nó được chỉnh định để không tác động khi ngắn mạch làm

việc. Máy cắt 1 MC cũng dùng để đóng và cắt mạch lực dưới tải, máy cắt
2MC để đóng và cắt cuộn kháng, 3MC và 4MC dùng để thay đổi nối cuộn sơ
cấp MBA để điều chỉnh điện áp.
b. Thiết bị đo lường và bảo vệ:
Để lấy tín hiệu từ lưới người ta dùng biến dòng 1T I,, biến áp Tu. Phía sơ
cấp BAL có đặt Rơle dòng điện cực đại để tác động lên cuận cắt máy cắt 1MC
. Rơle này có duy trì thời gian, thời gian duy trì này giảm khi bội số quá tải
dòng tăng. Nhờ vậy 1MC cắt mạch lực của lò hồ quang, chỉ khi có ngắn mạch
sự cố và khi ngắn mạch làm việc kéo dài mà không xử lí được. Với ngắn
mạch làm việc trong 1 thời gian tương đối ngắn, 1MC không cắt mạch mà chỉ
có tín hiệu đèn và chuông. Phía sơ cấp BAL còn có các dụng cụ đo lường,
kiểm tra như: vôn kế, ampe kế, công tơ điện ...
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

19

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Phía thứ cấp cũng có các máy biến dòng 2TI nối với các ampe kế do dòng
hồ quang, cuộn dòng điện của bộ điều chỉnh tự động và Rơle dòng điện cực
đại. Dòng tác động và thời gian duy trì của Rơle dòng được chọn sao cho khi
có ngắn mạch thời gian ngắn bộ điều chỉnh làm giảm dòng điện của lò chỉ sau
thời gian duy trì của Rơle. Nhiều khí cụ điều khiển, kiểm tra và bảo vệ khác
(trong khối điều khiển bảo vệ) cũng được nối với máy biến điện áp Tu và các
máy biến dòng 1TI và 2TI.
3. Cuộn điện kháng (K):
Cuộn điện kháng được mắc phía cao thế trước biến thế lò, với mục đích

làm cho hồ quang cháy bền hạn chế sự thay đổi đột ngột khi chập mạch. Cuộn
điện kháng dùng để hạn chế dòng ngắn mạch khi làm việc không ảnh hưởng
đến lưới. Cuộn điện kháng khác với biến thế lò là chỉ có cuộn dây sơ cấp
không có cuộn thứ cấp.
Điện kháng của cuộn điện kháng rất lớn so với điện trở của nó, do đó khi
dòng điện qua cuộn điện kháng tổn thất một năng lượng đáng kể do đó người
ta nối cuộn điện kháng song song với máy cắt 2MC. Khi không cần thiết 2MC
sẽ cắt mạch dòng điện qua cuộn điện kháng. Khi bắt đầu nấu luyện hay xẩy ra
ngắn mạch làm việc, Lúc ngắn mạch làm việc máy cắt 2MC mở ra để cuộn
kháng tham gia vào mạch, hạn chế dòng ngắn mạch. Khi liệu chảy hết, lò cần
công suất nhiệt lớn để nấu luyện, 2MC đóng lại để ngắn mạch cuộn kháng K.
ở thời kỳ hoàn nguyên công suất lò yêu cầu ít hơn thì 2MC lại mở ra để đưa
cuộn kháng K vào mạch, làm giảm công suất cấp cho lò. Với những lò hồ
quang công suất lớn hơn nhiều thì không có cuộn kháng K. Việc ổn định hồ
quang và hạn chế dòng ngắn mạch là việc do các phần tử cảm kháng của
sơ đồ lò đảm nhiệm. Thực tế cuộn điện kháng làm việc rất ít, khoảng 10 ÷
15 phút đầu của thời kỳ nấu chảy liệu.
4. Bộ phận chuyển đổi điện thế (3 MC, 4MC):

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

20

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Bộ phận chuyển đổi điện thế để điều chỉnh công suất biến thế lò cho phù
hợp với các thời kỳ nấu luyện. Nhìn chung có thể chia quá trình nấu luyện ra

làm 2 thời kỳ dựa trên mức độ yêu cầu năng lượng điện khác nhau:
Thời kỳ nấu chảy liệu rắn cần lượng nhiệt lớn để nấu chảy liệu và dữ nhiệt
độ đó để tiếp tục các quá trình sau. Thời kỳ hoàn nguyên cần lượng nhiệt nhỏ
với mục đích chủ yếu là giữ nhiệt độ kim loại không bị giảm và nấu chảy các
vật liệu phụ.
Xuất phát từ yêu cầu đó cần thay đổi lượng nhiệt bằng cách thay đổi công
suất biến thế lò.
Công suất của mạch 3 pha được tính như sau:
P = 3 .U.I.Cosϕ
Giảm công suất có thể là giảm dòng điện khi điện áp không đổi hoặc giảm
điện áp khi dòng điện không đổi. Điện thế được thay đổi trong từng thời kỳ như
sau.
-Thời kỳ nấu chảy U = 240 ÷ 420V
-Thời kỳ oxy hóa U = 160 ÷ 300V
-Thời kỳ hoàn nguyên U = 110 ÷ 140V(Giá trị lớn được dùng cho lò lớn
hơn), mức cao của điện thế trong thời gian nấu chảy có lợi: Giảm thời gian
nấu luyện, nâng cao hiệu suất điện,Cosϕ . Khi đó sẽ cho phép giảm đường
kính của điện cực.
Điện thế thứ cấp được thay đổi bằng cách thay đổi cuộn dây sơ cấp, sự
chuyển đổi cuộn dây sơ cấp từ tam giác sang sao cho phép giảm điện thế thứ
cấp xuống 3 lần và như vậy công suất cũng giảm 3 lần.
5. Mạch ngắn.
Mạch ngắn là dây dẫn dòng điện từ cuộn dây thứ cấp của máy biến thế lò
đến điện cực, nó có dòng điện làm việc rất lớn tới hàng trăm nghìn A.
Tổn hao công suất mạch ngắn ∆Pmn = I2mn .rmn đạt tới 70% toàn bộ tổn hao
trong toàn bộ thiết bị lò hồ quang, do vậy yêu cầu cơ bản của mạch ngắn là
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

21


SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
phải ngắn nhất trong điều kiện có thể (biến thế lò phải đặt rất gần lò) để giảm
bớt tổn hao, đồng thời mạch ngắn được ghép từ các tấm đồng lá thành các
thanh mềm để có thể uốn dẻo lên xuống các điện cực.
Có thể chia mạch ngắn ra làm 3 phần như sau:
-Thanh dẫn từ máy biến thế lò đến dây dẫn ở sau tường của phòng đặt máy
biến thế lò.
-Dây cáp mềm từ tường đến ống mềm của bộ phận điện cực.
-Thanh dẫn điện từ cuối đoạn cáp mềm đến vành ôm điện cực.
-Phần dây cáp mềm rất cần thiết khi nghiêng lò và nâng hạ điện cực, chiều
dài của đoạn này làm sao có thể đảm bảo ngiêng lò 450 để rót thép.
Ngoài ra mạch ngắn còn phải đảm bảo sự cân bằng r mn và xmn giữa các pha
để có các thông số điện (công suất, điện áp,dòng điện) như nhau của các hồ
quang. Khi 3 pha mạch ngắn phân bố đối xứng thì hỗ cảm giữa 2 pha bất kỳ
sẽ bằng nhau và sức điện động hỗ cảm sẽ bằng không. Trường hợp nếu
khoảng cách giữa các pha không như nhau, hỗ cảm giữa các pha sẽ khác
nhau, trong một pha nào đó sẽ suất hiện một sức điện động phụ ngược chiều
dòng điện trong pha đó và tạo ra một sụt áp phụ trên điện trở thuần pha đó.
Kết quả là pha này như thể tăng điện trở tác dụng, gây ra một tổn hao công
suất phụ và công suất hồ quang của pha này sẽ giảm so với pha khác. Đồng
thời ở một pha khác sức điện động phụ lại cùng chiều với dòng điện của pha,
điện trở tác dụng như bị giảm và công suất hồ quang của pha này tăng nên.
Hiện tượng trên gây ra sự mất đối xứng về điện áp giữa các hồ quang, sự phân
bố công suất không đồng đều giữa các pha, giảm hiệu suất lò và với lò công
suất càng lớn thì sự mất đối xứng điện từ ở mạch ngắn sẽ càng lớn.
Chống hiện tượng trên bằng cách phân bố đối xứng về mặt hình học và về

mặt điện từ của mạch ngắn và các điện cực đặt ở 3 đỉnh của một tam giác đều.
Với lò dung lượng 10 tấn thì mạch ngắn được nối theo sơ đồ tam giác (hình

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

22

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
a).Thiếu sót của cách này là sự không đối xứng của các dây dẫn chuyển dòng
tới các điện cực không được bù trừ.

Sơ đồ mạch ngắn
Với các lò dung lượng lớn mạch ngắn thường được nối tam giác ở các điện
cực (hình b). Hai bên mỗi cần giữ điện cực có đặt hai dây dẫn dòng pha cách
điện nhau, ở sơ đồ này thì 2 pha có các dây dẫn dòng từ đầu đầu và đầu cuối
tới 2 điện cực kề sát nhau tạo ra hệ 2 dây, còn pha thứ 3 dẫn dòng tới hai cần
giữ ngoài cùng sẽ không có tính chất của hệ hai dây. Tính không đối xứng của
mạch ngắn đã giảm nhiều nhưng chưa hoàn toàn. Sơ đồ (hình c) thực hiện dẫn
dòng hệ 2 dây cho cả 3 pha nhờ thêm cần phụ mang dây đầu cuối pha 3 tới
điện cực 1 vòng qua điện cực 3. Cần đỡ phụ và cần đỡ điện cực 1 được dịch
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
23
SVTK: Nguyễn Văn
Khương



Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
chuyển đồng bộ với nhau qua liên kết cơ học. Sơ đồ này giảm tính không đối
xứng của mạch ngắn xuống đến mức tối thiểu.
6. Hệ thống nâng hạ điện cực:
Cơ cấu chấp hành (cơ cấu dịch cực) có thể truyền động bằng điện, cơ hay
thuỷ lực. Trong cơ cấu điện cơ động cơ được dùng phổ biến là động cơ một
chiều kích từ độc lập vì nó có mô men khởi động lớn dải điều chỉnh rộng
bằng phẳng, dễ điều chỉnh và có thể dễ mở máy, đảo chiều, hãm. Đôi khi cũng
dùng động cơ không đồng bộ có mô men quán tính của Roto nhỏ.Trong các
loại lò một pha với điện cực bố trí nằm ngang người ta thường điều chỉnh điện
cực bằng tay vì chế độ điện không thay đổi nhiều, công suất máy biến thế bé,
điện cực nhỏ. Đối với những lò điện luyện thép 3 pha điện cực bố trí thẳng
đứng, chế độ điện luôn thay đổi, hồ quang cháy mãnh liệt,công suất máy biến
thế lò lớn, trong trường hợp này không điều chỉnh bằng tay được mà phải
được tự động điều chỉnh bằng máy riêng với độ chính xác cao.
7. Một số thiết bị điện phụ khác
- Ngoài thiết bị chủ yếu như đã nêu và được vẽ ở hình thì trong lò điện còn
có các hệ thống điện cho các truyền động phụ phục vụ lò như: Truyền động
nghiêng lò, nâng nắp lò, bơm nước làm mát lò, các tủ điện động lực và điều
khiển, bàn điều khiển, hệ thống đèn báo nút bấm…

C. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI SƠ ĐỒ ĐIỀU CHỈNH
I. NHIÊM VỤ CỦA HỆ THỐNG NÂNG HẠ ĐIỆN CỰC LÒ HỒ QUANG
Các lò hồ quang nấu luyện kim loại đều có các bộ diều chỉnh luyện luyện
nâng cao năng xuất lò giảm suất chi phí năng lượng giảm thấp cacbon cho
kim loại, nâng cao chất lượng thép, giảm dao động công suất khi nấu chảy, cải
thiện điều kiện lao động.
Chất lượng thép nấu luyện phụ thuôc vào công suất cấp và sự phân bố
nhiệt hay nhiệt độ trong nồi lò.
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy

Khương

24

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Điều kiện công suất lò hồ quang có thể thực hiện bằng cách thay đổi điện
áp ra của BAL hoặc bằng sự dịch chuyển điện cực đã thay đổi chiều dài hồ
quang và như thế sẽ thay đổi được điện áp hồ quang, dòng hồ quang và công
suất tác dụng của lò hồ quang.
II . CHẾ ĐỘ BẢO VỆ CỦA LÒ HỒ QUANG
Trong quá trình nấu luyện lò hồ quang thường xẩy ra các sự cố:
- Ngắn mạch làm việc.
- Ngắn mạch sự cố.
- Mất hồ quang của 1, 2 hay 3 pha.
- Khi xẩy ra sự cố yêu cầu công nghệ của lò phải được trang bị các thiết bị
bảo vệ để tự loại trừ nhanh sự cố hoặc phải cắt điện cung cấp cho lò.
1. Ngắn mạch làm việc:
Ngắn mạch làm việc thường xẩy ra trong giai đoạn nấu chẩy kim loại bởi
vì trong giai đoạn này có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự làm việc của hồ
quang. Chẳng hạn như khi nạp liệu vào lò thường có các khe hở nên khi kim
loại chẩy xuống dưới đáy lò gây mất hồ quang do đó điện cực phải hạ xuống
để mồi lại hồ quang, khi mồi hồ quang sẽ gây ra hiện tượng ngắn mạch làm
việc trong giai đoạn này. Khi xẩy ra ngắn mạch thì hệ thống phải tự loại trừ sự
cố mà không làm cho các thiết bị bảo vệ tác động, đồng thời phải duy trì được
hồ quang sau khi loại trừ được sự cố ngắn mạch làm việc, thời gian cho phép
của một lần ngắn mạch làm việc là từ 2 ÷ 3(s).
2. Ngắn mạch sự cố:

Ngắn mạch sự cố thường xẩy ra trong giai đoạn nung nóng liệu và nấu
chảy kim loại. Nguyên nhân chủ yếu là do sụt liệu, lúc này điện cực bị các
thỏi kim loại chèn vào gây ngắn mạch sự cố. Khi xẩy ra hiện tượng ngắn
mạch sự cố các khâu phản hồi trong mạch phải tác động nâng nhanh điện cực
lên để loại trừ ngắn mạch sự cố. Để đề phòng cho trường hợp điện cực bị kim
loại chèn quá chặt, các khâu phản hồi đã tác động nhưng không nâng được
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

25

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
điện cực lên, trong hệ thống phải được đặt các dòng điện cực đại để tác động lên
cuộn cắt của máy cắt, cắt mạch lực của hồ quang ra khỏi lưới, rơ le này có duy
trì thời gian. Thời gian này giảm khi bội số quá tải dòng tăng, vì vậy hệ thống sẽ
ngừng làm việc khi có ngắn mạch sự cố và khi có ngắn mạch làm việc kéo dài
mà không xử lý được.
3. Mất điện trong khi làm việc:
- Trong lò hồ quang dùng hai loại điện cực là điện cực bằng than và bằng
grafit trong quá trình làm việc điện cực thường hay bị mòn do bị oxy hoá bởi
khí lò và bay hơi do sự cháy của hố quang. Do đó điện cực ngắn dần việc này
dẫn đến trường hợp điện cực của một pha nào đấy bị cụt gây mất một pha.
Khi một pha bị mất thì dòng điện trong pha đó cũng thay đổi dẫn theo sự phá
huỷ hồ quang của các pha còn lại. Điện cực của các pha còn lại đang ở vị trí
chuẩn cũng có thể bị dịch chuyển. Để đảm bảo chế độ làm việc của các pha
khác thì mỗi pha cần một hệ thống dịch chuyển điện cực riêng.
- Khi điện cực bị cụt gây ra hiện tượng mất pha, hệ thống được trang bị

các thiết bị để đo và kiểm tra đồng thời đưa tín hiệu này về cắt toàn bộ mạch
lực của lò hồ quang, để tiến hành nối và tiến hành thay điện cực.
III. PHƯƠNG PHÁP THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦA HỆ THỐNG
NÂNG HẠ ĐIỆN CỰC LÒ HỒ QUANG
Về nguyên tắc duy trì công suất lò hồ quang có thể thông qua việc duy trì
một trong các thông số sau:
Dòng điện hồ quang Ihq, điện áp hồ quang Uhq, tỉ số giữa điện áp và dòng
U hq

hồ quang Zhq= I
hq

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

26

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
hq

Bộ điều chỉnh duy trì dòng hồ quang không đổi I = Const sẽ không mồi
hồ quang tự động được. Ngoài ra dòng trong một pha nào đó thay đổi sẽ kéo
theo dòng của hai pha còn lại.
Ví dụ khi hồ quang một pha bị đứt thì lò hồ quang làm việc như phụ tải
một pha và hai pha còn lại nối tiếp vào điện áp dây. Lúc đó các bộ điều chỉnh
hai pha còn lại tiến hành hạ điện cực mặc dù không cần điều đó. Các bộ điều
chỉnh loại này chỉ dùng cho lò hồ quang chân không.

hq

Bộ điều chỉnh duy trì điện áp hồ quang không đổi (U =const) có khó khăn
trong việc đo thông số này, cuộn dây do được nối giữa thân kim loại và thanh
cái BAL. Do vậy điện áp đo được phụ thuộc vào dòng tải và sự thay đổi dòng
của một pha sẻ ảnh hưởng tới hai pha còn lại.
Phương pháp tốt nhất là dùng bộ điều chỉnh duy trì:
U hq

Zhồ quang= I =const
hq
Thông qua hiệu số hiệu chỉnh dòng và áp:
a.Ihồ quang-b.Uhồ quang=b.Ihồ quang(Z0hồ quang-Zhồ quang) (*)
Trong đó: a và b là các hệ số các máy biến áp đo lường và điện trở điều
chỉnh trên mạch (thay đổi bằng tay khi chỉnh định).
Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
27
Khương

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Z0hồ quang và Zhồ quang giá trị đặt và giá trị tổng trở của hồ quang
Từ (*) suy ra

a.I hq − b.U hq
b.I hq

=Z0hồ quang-Zhồ quang=∆Zhồ quang


Vậy điều chỉnh thực hiện theo chế độ lệch của tổng trở hồ quang so với giá
trị đặt. Phương pháp này để mồi hồ quang, duy trì được công suất, ít chịu ảnh
hưởng của của dao động điện áp nguồn cũng như ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các pha trong mỗi giai đoạn làm việc của lò hồ quang đòi hỏi công suất nhất
định, mà công suất này lại phụ thuộc chiều dài ngọn lửa hồ quang. Như vậy
điều chỉnh dịch điện cực là điều chỉnh chiều dài ngọn lửa hồ quang, do đó
điều chỉnh được công suất lò hồ quang. Đó là nhiệm vụ chính của các bộ điều
chỉnh tự động dịch cực lò hồ quang.
IV. CÁC YÊU CẦU ĐỀ RA CHO MỘT BỘ ĐIỀU CHỈNH CÔNG SUẤT
LÒ HÒ QUANG
- Đủ nhạy để đảm bảo chế độ làm việc đã cho của lò. Duy trì dòng điện hồ
quang không tụt quá (4÷ 5)% trị số dòng điện làm việc. Vùng không nhạy của
bộ điều chỉnh không vượt quá ± (3÷ 6)% trong giai đoạn nấu chảy và ± (2÷
4)% trong các giai đoạn khác.
- Tác động nhanh đảm bảo khử ngắn mạch hay đứt hồ quang trong thời
gian

(1,5÷ 3)s. Điều đó sẻ làm giảm số lần ngắt máy cắt chính, giảm sự

thẩm thấu cacbon của kim loại. Các lò hồ quang hiện đại không cho phép ngắt
máy cắt chính quá hai lần trong giai đoạn nấu chảy. Đảm bảo yêu cầu này nhờ
tốc độ dịch chuyển nhanh 2,5÷ 3 m/phút trong giai đoạn nấu chảy. Dòng điện
hồ quang lệch càng xa giá trị đặt thì tốc độ dịch cực càng phải nhanh.
- Thời gian điều chỉnh ngắn.
- Hạn chế tối thiểu sự dịch cực không cần thiết như khi chế độ làm việc bị
phá vỡ trong thời gian rất ngắn, hay trong chế độ thay đổi tính đối xứng. Yêu
cầu này càng cần thiết đối với lò hồ quang 3 pha không dây trung tính. Chế độ
hồ quang của một pha nào đó bị phá huỷ sẽ dẫn theo phá huỷ chế độ hồ quang
các pha khác.

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

28

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ
Do vậy mỗi pha cần có thể điều chỉnh độc lập để sự làm việc của các pha
khác.
- Thay đổi công suất lò bằng phẳng theo giới hạn (20÷ 125)% trị số định
mức và sai số không quá 5%.
- Có thể chuyển đổi nhanh từ chế độ điều khiển tự đông sang chế độ điều
khiển bằng tay và ngược lại do phải thực hiện thao tác phụ bất kì nào đó.
- Tự động mồi hồ quang khi bắt đầu làm việc và khi bị đứt hồ quang. Khi
ngắn mạch thì việc nâng điện cực lên không làm đứt hồ quang.
- Dừng mọi điện cực khi mất điện lưới.

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

29

SVTK: Nguyễn Văn


Ketnooi.com diễn đàn chia sẻ kiến thức, công nghệ

Phần II:

PHÂN TÍCH LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN TRUYỀN ĐỘNG
I-GIỚI THIỆU CHUNG:
Hiện nay đang còn song song sử dụng hai loaị hệ truyền động nâng hạ điện
cực cho lò hồ quang đó là:
-Hệ thống sử dụng động cơ điện một chiều.
-Hệ thống sử dụng động cơ xoay chiều.
Mỗi loại đều có những ưu và nhược điểm riêng. Sau đây ta sẽ đi phân tích
để lựa chọn phương án hợp lý cho hệ thống.
II- PHÂN TÍCH CÁC PHƯƠNG ÁN TRUYỀN ĐỘNG NÂNG HẠ ĐIỆN
CỰC LÒ HỒ QUANG
1. Phương án nâng hạ điện cực dùng động cơ một chiều (hệ T-D)
Sơ đồ này sử dụng bộ chỉnh lưu điều khiển dùng Tiristor mắc theo sơ đồ
tia 3 pha mắc song song ngược.
Sơ đồ nguyên lý một pha như hình vẽ (trang bên):

Gvhd: Nguyễn Vĩnh Thụy
Khương

30

SVTK: Nguyễn Văn


×