Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tổng quan về pháp luật tài chính ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.69 KB, 18 trang )

Chương 1: Tổng quan về pháp luật tài chính ngân hàng
1. Sự hình thành và phát triển:
1.1 Hoạt động tài chính – ngân hàng:
1.1.1 Hoạt động tài chính:
Sự hình thành và phát triển của hoạt động tài chính: Trước hết là sự xuất hiện của tiền tệ, một yêu cầu tất yếu
của quan hệ sản xuất và trao đổi hàng hóa và với sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử xuất hiện xã hội
loài người đã làm nảy sinh, đa dạng hóa và phát triển hiện tượng tài chính.
1.1.2 Hoạt động ngân hàng:
Sản xuất hàng hóa phát triển hình thành quan hệ thương mại giữa các khu vực, giữa các quốc gia, làm nảy
sinh nhu cầu đổi tiền. Để đáp ứng nhu cầu đó, xã hội xuất hiện tầng lớp thương nhân mới, đó là những người
làm nghề đổi tiền. Do yêu cầu của khách hàng mà họ thực hiện thêm các dịch vụ khác như nhận tiền gửi, cho
vay … Cùng với sự phát triển của nền văn mình nhân loại, nghề đổi tiền và các dịch vụ kinh doanh tiền tệ
phát triển trở thành một nghề kinh doanh gọi là nghề ngân hàng. Ngày nay, với sự phát triền của khoa học và
công nghệ, hoạt động, cơ cấu chủ thể ngân hàng càng mang tính đa dạng.
1.2. Pháp luật tài chính – ngân hàng:
1.2.1 Pháp luật tài chính:
a) Luật ngân sách nhà nước Việt Nam:


Sự hình thành:

-Trước năm 1996, nước ta vẫn chưa có một văn bản luật chính thức nào về lập, chấp hành, quyết toán kiểm
tra ngân sách Nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách
Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có một số văn bản nghị định, quyết định ban đầu về việc thu và sử dụng vốn Nhà
nước của Thủ Tướng Chính Phủ.
- Ngày 20/03/1996 Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 9 thông qua. Luật này quy
định về lập, chấp hành, quyết toán, kiểm tra ngân sách Nhà nước và về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan Nhà
nước các cấp trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Luật gồm 8 chương, 82 điều.
 Quá trình phát triển:
Luật đã qua hai lần sửa đổi. Lần thứ nhất vào năm 1998 và lần thứ hai vào năm 2002.
b) Luật Thuế Việt Nam:


Tiền đề cho sự ra đời của thuế là sự ra đời, tồn tại và phát triền của nhà nước. Sự phát triển của thuế gắn liền
với sự phát triển của xã hội. Các sắc thuế của VN hiện nay:
- Luật thuế thu nhập doanh nghiệp: được thông qua lần đầu ngày 10/05/1997, sau đó được thay bằng luật
thuế số 09/2003/QH11 thông qua ngày 17/6/2003, và được sửa đổi gần đây nhất vào ngày 03/6/2008, có hiệu
lực thi hành ngày 01/01/2009.
- Luật thuế giá trị gia tăng: Được ban hành lần đầu tiên vào kì họp quốc hội khóa IX ngày 10/5/1997. Luật
được sửa đổi bổ sung lần thứ nhất vào năm 2003. Ngày 03/06/2008 Luật thuế giá trị gia tăng số 13/2008
được Quốc hội thông qua thay cho luật năm 1997 có hiệu lực từ ngày 01/01/2009.


- Thuế thu nhập cá nhân: Pháp lệnh Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao số 35/2001/PLUBTVQH10 ngày 19 tháng 5 năm 2001 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội được thay thế bằng Luật thuế thu
nhập cá nhân sô 04/2007 do Quốc hội ban hành ngày 21/11/2007 và có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2009.
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch ngày 29-12-1987.
Luật đã qua khá nhiều lần sửa đổi bổ sung
- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất: Luật thuế sử dụng đất ban hành ngày 22/6/1994 và được sửa đổi bởi
Luật Sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Thuế chuyển quyền sử dụng đất năm 1999.
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt: Luật thuế tiêu thụ đặc biệt ban hành ngày 30 tháng 6 năm 1990 và đã được bổ
sung, sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế từng thời kì
- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp: được Quốc hội thông qua ngày 20/7/1993.
- Thuế tài nguyên: Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 6 ngày 28 tháng 12 năm 1989
về việc uỷ quyền cho Hội đồng Nhà nước quy định một số thuế mới trong đó có thuế tài nguyên. Luật thuế
tài nguyên đã qua nhiều lần sửa đổi.
- Thuế nhà đất: Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 Quốc hội ban hành Luật thuế nhà, đất. Sau 10 năm ban
hành và thực hiện từ năm 1993, Luật Đất đai đã được sửa đổi, bổ sung 2 lần vào các năm 1998 và 2001,
cũng đang trong quá trình sửa đổi lần thứ 3.
c) Pháp luật Bảo Hiểm Việt Nam:
Sự phát triển của pháp luật bảo hiểm Việt Nam gắn liền với quá trình phát triển của ngành Bảo hiểm nước
nhà. Trước năm 1993 ở Việt Nam chỉ có một doanh nghiệp trong lĩnh vực bảo hiểm là Bảo Việt, tiền thân là
Công ty bảo hiểm Việt Nam được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày 17/12/1964. Sau năm 1993,
cùng với sự phá vỡ độc quyền kinh doanh bảo hiểm, hệ thống pháp luật bảo hiểm ngày càng được hoàn

thiện.
- Pháp luật điều chỉnh hoạt động của Kinh doanh bảo hiểm (Bảo hiểm thương mại):
Ngày 18.12.1993, Chính phủ ra Nghị Định 100/1993/NĐ-CP quy định về việc thành lập và tổ chức hoạt động
của các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định có nhiều loại hình
doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm (Nhà nước, cổ phần, tương hỗ, liên doanh, 100%
vốn nước ngoài), phá vỡ độc quyền bảo hiểm ở Việt Nam. Năm 2000, Luật kinh doanh bảo hiểm ra đời, có 9
chương, 129 điều và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/04/2001.
- Pháp luật điều chỉnh hoạt động của Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm y tế:
Các lĩnh vực bảo hiểm do Nhà nước thực hiện không mang tính chất kinh doanh như bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm tiền gửi… được điều chỉnh trong các văn bản như: Luật Bảo Hiểm Xã Hội 2006, Luật
Bảo Hiểm Y Tế 2008 cùng các nghị định thông tư hướng dẫn.
d) Pháp luật chứng khoán Việt Nam:
Ở nước ta, ngay từ năm 1996, khi chưa có thị trường chứng khoán (TTCK) chính thức tập trung ra đời, đã có
Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước (UBCKNN) thành lập theo Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996.
Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán được ban hành.


Cuối năm 2006, văn bản pháp lý cao nhất về chứng khoán và TTCK là Nghị định số 144/2003/NĐ-CP của
Chính phủ. Để khắc phục những bất cập của Nghị định 144 và điều chỉnh toàn diện hoạt động của TTCK,
cũng như để tham gia WTO, Luật Chứng khoán đã được ban hành vào năm 2006, có hiệu lực từ 1/1/2007.
Luật Chứng khoán ra đời đã góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở Việt Nam, quán triệt tinh
thần đổi mới của Đảng và Nhà nước.
1.2.2 Pháp luật ngân hàng:
Các hình thái sơ khai của hoạt động ngân hàng trên thế giới thì đã xuất hiện từ lâu, nhưng phải tới thế kỷ thứ
17 mới có ngân hàng được thành lập lần đầu tiên. Ở VN, trong suốt thời kỳ phong kiến cho đến nửa đầu thế
kỷ 19, Việt Nam hầu như không tồn tại định chế ngân hàng. Tuy nhiên những hoạt động trong lĩnh vực ngân
hàng như in đúc, cho vay đã xuất hiện. Tới 1945 cách mạng tháng 8 thành công, mới có những sự kiện và
bước phát triển sau:
- Giai đoạn 1 (1945-1951):
Trong giai đoạn này, đất nước ta đã trải qua rất nhiều sự kiện cùng với sự kiện các ngân hàng và các tổ chức

tín dụng bắt đầu đi vào hoạt động. Năm 1858, Thực dân Pháp xâm lược nước ta sau đó thành lập Ngân hàng
Đông Dương. Cách mạng tháng 8 thành công năm 1945, ngày 23/11/1946, VN phát hành tiền do Bộ Tài
Chính (BTC) là đơn vị chủ quản. Ngày 03/02/1947, VN ban hành sắc lệnh 14/SL thành lập nha Tín Dụng
trực thuộc BTC. Tuy vẫn chưa có văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng nhưng đây chính là tiền
đề cho các tổ chức tài chính-ngân hàng sau này.
- Giai đoạn 2 (1951-1975):
Ngày 06/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam là một bộ
trực thuộc Chính phủ và sắc lệnh 17/SL bãi bỏ Nha Ngân khố quốc gia. Nha tín dụng sản xuất thuộc Bộ Tài
chính đã được thiết lập theo sắc lệnh số 86/SL ngày 17/9/1947. Mục đích: phát hành giấy bạc, quản lý kho
bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu
tranh tiền tệ với thực dân.
Ngày 21/5/1951, Chính phủ ra Sắc lệnh 19/SL cho phép Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam được phát hành giấy
bạc 20 và 50 đồng; Sắc lệnh 20/SL ấn định tỷ lệ giá trị đồng bạc do Ngân hàng phát hành so với giá trị đồng
bạc do Bộ Tài chính phát hành. Mục đích: thống nhất tiền tệ, quy đồng tiền đang lưu thông về đồng tiền
Ngân hàng quốc gia Việt Nam. NHQG đã chính thức phát hành đồng tiền giấy mang tên: "NHQG Việt Nam"
thay đồng tiền Tài chính.
Ngày 27/5/1951 Thủ tướng CP ra nghị định 94/Ttg quy định về tổ chức Ngân hàng quốc gia. Theo đó, tổ chức
của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam bao gồm: ở trung ương, chi nhánh liên khu, chi nhánh ở tỉnh và chi
nhánh ở nước ngoai. Các chi nhánh không có tư cách pháp nhân, hoạt động với tư cách là cơ quan cấp dưới
đại diện của Ngân hàng quốc gia Việt Nam.
- Giai đoạn 3 (1975-1987):
Đây là thời kì ngay sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đất nước đã không còn chia cách về mặt địa lý
nên mục tiêu của nhà nước lúc này là phải thiết lập một sự quản lí thống nhất trên mọi lĩnh vực. Trong lĩnh
vực tiền tệ, ngân hàng, vào năm 1975, VN vẫn còn tồn tại hai hệ thống NH và hai loại tiền tệ riêng biệt ở hai


miền Bắc, Nam.
+ Tại miền Bắc, hệ thống ngân hàng do Ngân hàng nhà nước Việt Nam điều hành, phát hành và sử dụng tiền
NHNNVN.
+ Tại miền Nam là hệ thống ngân hàng dưới chế độ Nguỵ quyền với Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và vẫn sử

dụng tiền của chính quyền cũ.
- Giai đoạn 4 (1987-2004):
Sau khi vấp phải vô vàn khó khăn về mọi mặt nhất là về kinh tế, năm 1986 bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ
VI, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách kinh tế. Một trong những nội dung quan trọng cần phải
đổi mới chính là hệ thống ngân hàng - yếu tố giữ vai trò như huyết mạch của nền kinh tế.
- Giai đoạn từ 2004 đến nay:
Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Việt
Nam ra nhập tổ chức kinh tế thế giới. Các nhà đầu tư vào Việt Nam ngày một nhiều hơn, đồng thời nền kinh
tế đang tăng trưởng nhanh đòi hỏi lượng vốn dồi dào khiến các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng
ngày càng phát triển và mở rộng. Ngân hàng nhà nước cũng dần hoàn thiện công tác tổ chức quản lý và điều
hành của mình nhằm thực hiện hiệu quả các chính sách tài chính tiền tệ.
2. Khái niệm về pháp luật tài chính – ngân hàng:
2.1. Hoạt động tài chính – ngân hàng:
2.1.1 Hoạt động tài chính:
a) Khái niệm:
- Dựa vào bản chất của tài chính cho phép định nghĩa như sau: Tài chính là các quan hệ phân phối của cải xã
hội dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm thảo
mãn các nhu cầu của các chủ thể thực hiện hoạt động phân phối.
b) Vai trò của tài chính:
- Tài chính là công cụ phân phối sản phẩm quốc dân  hình thành các nguồn lực tài chính.
- Tài chính là công cụ quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế: Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động
tài chính của các chủ thể kinh tế mà can thiệp gián tiếp thông qua luật tài chính, chính sách tài chính và các
công cụ tài chính để điều tiết vĩ mô nền kinh tế (ngân sách nhà nước, chính sách tài trợ, quỹ dự trữ tài chính
quốc gia)
c) Chức năng của tài chính:
- Chức năng phân phối:
Phân phối qua tài chính là sự phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình thức giá trị. Thông qua chức năng
này, các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung được hình thành và sử dụng theo những mục đích nhất định.
Phân phối thông qua tài chính gồm: phân phối lần đầu và phân phối lại.
-Chức năng giám sát:

Đây là chức năng kiểm tra quá trình vận động của các nguồn tài chính để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.
Thông qua chức năng này để kiểm tra và điều chỉnh các quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới hình


thức giá trị, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của mỗi thời kỳ, kiểm tra các chế độ tài chính của
Nhà nước...
2.1.1 Hoạt động ngân hàng:
- Ở Việt Nam, Điều 9 Luật ngân hàng nhà nước Việt Nam năm 1997, Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng do
Quốc hội khóa X kì họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 quy định: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh
doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán.
2.2. Pháp luật tài chính – ngân hàng:
a) Pháp luật tài chính:
- Luật Tài chính là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
hoạt động tài chính của nhà nước như việc lập dự toán, phê chuẩn và sử dụng ngân sách nhà nước, hoạt động
tín dụng, việc định và thu các loại thuế và việc thanh toán qua Ngân hàng và các tổ chức tài chính khác.
- Các quy phạm pháp luật tài chính đặt cơ sở cho việc xây dựng hệ thống tiền tệ, quy định việc phát hành lưu
thông các loại giấy bạc, việc kiểm tra cho vay tín dụng, quy định kỷ luật trong hoạt động tài chính.
- Phương pháp điều chỉnh của Luật tài chính là phương pháp mệnh lệnh.
b) Pháp luật ngân hàng:
- Luật ngân hàng là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh và quy định về địa vị pháp lý của ngân hàng
trung ương và của các tổ chức tín dụng; các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước và các
quan hệ giao dịch có liên quan đến hoạt động lưu thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng, các hoạt động ngân
hàng và các dịch vụ ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ thể khác trong lĩnh vực ngân hàng và
thị trường tiền tệ.
3. Đối tượng phạm vi và phương pháp điều chỉnh
3.1. Đối tượng và phạm vi
3.1.1. Luật tài chính
Theo nghĩa rộng, đối tượng điều chỉnh của Luật Tài chính bao gồm cả những quan hệ tài chính giữa các tổ
chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự tham gia của

nhà nước với tư cách là bên chủ thể nên các QHXH thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính rất đa dạng,
có nhiều chủ thể tham gia ở nhiều cấp độ khác nhau.
Các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính thường được phân chia theo 2 cách dựa vào
những tiêu chí khác nhau:
Căn cứ vào lĩnh vực mà các quan hệ tài chính được hình thành, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính được
phân biệt thành:


Các quan hệ tài chính - ngân sách. Đây là nhóm quan hệ tài chính phát sinh gắn liền với việc hình thành,

phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước là quỹ ngân sách nhà nước.


Các quan hệ tài chính doanh nghiệp. Đây là nhóm quan hệ phát sinh trong hoạt động tài chính của doanh

nghiệp gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.




Các quan hệ tài chính trong lĩnh vực bảo hiểm. Những quan hệ liên quan đến việc các tổ chức kinh doanh

bảo hiểm huy động được nguồn vốn và đưa chúng tham gia vào thị trường tài chính bằng các hình thức khác
nhau đáp ứng nhu cầu về vốn của nền kinh tế.


Các quan hệ tín dụng. Các quan hệ liên quan đến hoạt động huy động vốn, cho vay vốn của các tổ chức

trung gian tài chính trong quá trình hình thành các nguồn tài chính đáp ứng cho nhu cầu vốn của nền kinh tế sẽ
thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tài chính.



Các quan hệ tài chính trong khu vực dân cư, các tổ chức xã hội.

Căn cứ vào hệ thống các chủ thể tham gia các hoạt động tài chính, đối tượng điều chỉnh của luật tài chính
bao gồm:


Quan hệ tài chính giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương với cơ quan nhà nước ở địa phương trong hoạt

động thu, chi phân cấp quản lý ngân sách nhà nước.


Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tín dụng với nhau phát sinh trong quá trình quản lý, sử

dụng quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tiền tệ khác.


Quan hệ tài chính giữa cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần

kinh tế. Các quan hệ này phát sinh trong việc cấp phát vốn, thu nộp thuế vào ngân sách nhà nước.


Quan hệ tài chính giữa các cơ quan tài chính, tổ chức tài chính với dân cư.



Quan hệ tài chính giữa các doanh nghiệp.

3.1.2. Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng

a. Luật Ngân hàng
Căn cứ vào khái niệm, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có thể được hình dung khái quát là các quan hệ
xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước cũng như các quan hệ xã hội nảy sinh từ hoạt động lưu
thông tiền tệ, tín dụng, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác tham gia vào lĩnh vực ngân
hàng. Như vậy, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng bao gồm hai nhóm:


Các quan hệ quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngân hàng.



Các quan hệ về tổ chức và hoạt động kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng và những chủ

thể khác có tham gia vào lĩnh vực này.
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh các quan hệ pháp luật ngân hàng, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có
thể được phân biệt thành những nhóm quan hệ xã hội như sau:


Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam



Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng



Nhóm các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức khác, tuy không phải là tổ chức tín dụng nhưng

được phép thực hiện một số hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng.
b. Luật các tổ chức tín dụng

Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) quy định về việc thành lập, tổ chức, quản lý, hoạt động, kiểm soát đặc biệt,
tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng; việc mở, tổ chức, quản lý, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước


ngoài, văn phòng đại diện tại Việt Nam của tổ chức tín dụng nước ngoài và của tổ chức nước ngoài khác hoạt
động trên lĩnh vực ngân hàng.
Luật các TCTD điều chỉnh:


Chính sách tín dụng đối với các thành phần kinh tế (doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, đối tượng

chính sách…)


Các quan hệ phát sinh trong quá trình tổ chức và điều hành các TCTD giữa chủ thể là NHNN hay các

cơ quan có thẩm quyền trong lĩnh vực tài chính và các TCTD.
Các quan hệ phát sinh trong quá trình hoạt động của các TCTD (hoạt động huy động vốn, hoạt động tín
dụng…) giữa chủ thể là các TCTD với cá nhân, tổ chức hoặc với các TCTD khác
3.2. Phương pháp điều chỉnh
Luật Tài chính – Ngân hàng sử dụng hai phương pháp điều chỉnh chủ yếu là phương pháp mệnh lệnh bắt buộc
và phương pháp bình đẳng thỏa thuận.
3.2.1. Phương pháp mệnh lệnh bắt buộc
Phương pháp mệnh lệnh được sử dụng chủ yếu để điều chỉnh các mối quan hệ giữa các cơ quan nhà
nước(CQNN) có thẩm quyền với các chủ thể kinh doanh. Đặc điểm của phương pháp này là các nhà quản lý
(nhà chức trách) dựa trên quyền lực và uy tín của mình để bắt người khác phải phục tùng mệnh lệnh của
mình, nếu không phục tùng sẽ bị xử lý kỉ luật kịp thời và thích đáng (tính quyền lực và tính bắt buộc).
Phương pháp quản lý này cũng thể hiện mối quan hệ bất bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lý, bên
bị quản lý buộc phải thực hiện ý chí của cơ quan quản lý. Sự áp đặt ý chí được thể hiện trong các trường hợp
sau:

- Cả hai bên đều có những quyền hạn nhất định do pháp luật quy định nhưng bên này quyết định vấn đề gì thì
phải được bên kia cho phép, phê chuẩn. Ðây là quan hệ đặc trưng của hành chính công.
- Một bên có quyền đưa ra những yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có thẩm quyền xem xét, giải quyết, có thể
thỏa mãn những yêu cầu, kiến nghị này hoặc có thể bác bỏ.
- Một bên có quyền ra các mệnh lệnh yêu cầu còn bên kia phải phục tùng các yêu cầu, mệnh lệnh đó.
- Một bên có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính buộc đối tượng quản lý phải thực hiện mệnh
lệnh của mình. Sự bất bình đẳng còn thể hiện rõ nét trong tính chất đơn phương và bắt buộc của các quyết
định hành chính.
Đối với Luật Tài chính, phương pháp mệnh lệnh bắt buộc được thể hiện qua quan hệ “quyền lực - phục tùng”
giữa CQNN có thẩm quyền với bên kia là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh
đó.
Đối với Luật Ngân hàng, phương pháp mệnh lệnh bắt buộc chủ yếu được áp dụng trong các QHXH có sự tham
gia của ngân hàng nhà nước Việt Nam với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt
động ngân hàng. Tuy nhiên trong một số trường hợp, nếu ngân hàng nhà nước Việt Nam tham gia vào những
mối quan hệ mang tính chất nghiệp vụ, không thể hiện chức năng quản lý nhà nước, phương pháp mệnh lệnh
phục tùng sẽ không được áp dụng.


3.2.2. Phương pháp bình đẳng thỏa thuận
Phương pháp bình đẳng thỏa thuận được sử dụng đề điều chỉnh các nhóm quan hệ kinh tế phát sinh giữa các
chủ thể kinh doanh hoặc quan hệ phát sinh trong nội bộ đơn vị kinh doanh. Theo phương pháp này, các chủ
thể khi tham gia vào quá trình kinh doanh có quyền bình đẳng thỏa thuận với đối tác những vấn đề mà các
chủ thể quan tâm để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Điều này thể hiện sự tôn trọng quyền tự quyết của các
chủ thể kinh doanh trong môi trường kinh doanh.
Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận dùng để điều chỉnh các quan hệ diễn ra liên quan đến giao dịch tiền tệ tín
dụng, ngân hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng giữa các chủ thể là ngân hàng, kể cả mối quan hệ giữa
ngân hàng trung ương với vai trò là trung tâm thanh toán, luân chuyển tiền tệ, làm dịch vụ tiền tệ cho Chính
phủ.
Các chủ thể này bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật.
4. Những nguyên tắc cơ bản của luật tài chính ngân hàng (chỉ cần ghi 1 số tên điều)

4.1.

Nguyên tắc mệnh lệnh tập trung:

Điều 15 Luật NHNN quy định trách nhiệm của NHNN là chủ trì xây dựng các chính sách tiền tệ quốc gia và
trực tiếp điều hành công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Điều 18 Luật NHNN quy định NHNN được quyền được quyền đưa ra lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.
Điều 20 Luật NHNN quy định NHNN được quyền đưa ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc và yêu cầu các NHTM tuân thủ.
Điều 114 Luật các TCTD quy định Nhà nước thống nhất quản lý hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt
động ngân hàng của các tổ chức khác.
Khoản 1 Điều 38 Luật NSNN quy định việc lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách
nhà nước vào năm sau là do Thủ tường Chính phủ quyết định.
4.2. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật:
Toàn bộ hoạt động tài chính bao gồm toàn bộ quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn quỹ
tiền tệ của nhà nước đều được thể chế hoá thành pháp luật và đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng
chế của nhà nước.
Điều 5 Luật NHNN 1997 qui định Ngân hàng Nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình phải
tuân theo qui định của Pháp Luật.
Điều 35 Luật NHNN năm 1997 qui định Ngân hàng Nhà nước ký kết và thực hiện các thỏa thuận về thanh toán
với ngân hàng nước ngoài và tổ chức tiền tệ, ngân hàng quốc tế theo qui định của Pháp Luật.
Điều 2 Luật các TCTD quy định việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng, hoạt động ngân hàng của
các tổ chức khác phải tuân theo các quy định của Luật này và các quy định khác có liên quan của pháp luật.
Chính phủ quy định cụ thể về hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
4.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch
Tất cả các hoạt động tài chính đều phải được công khai cho người dân-những chủ thể đã tham gia vào quá
trình phân phối của cả xã hội để hình thành nên nguồn quỹ tài trợ cho hoạt động của bộ máy nhà nước. Hoạt


động tài chính của nhà nước cần phải đảm bảo tính dân chủ trong quản lý, thu chi tài chính, tránh tình trạng
tham nhũng, lãng phí.

Điều 40 Luật NHNN năm 1997 qui định các tổ chức hữu quan phải có trách nhiệm cung cấp thông tin cần thiết
cho Ngân hàng Nhà nước theo qui định của chính phủ, phục vụ cho việc phân tích, dự báo thông tin trong
nước và ngoài nước về kinh tế, tài chính cũng như điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
Điều 41 Luật NHNN năm 1997 qui định Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm công bố thông tin về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng.
Điều 15 qui đinh NHNN báo cáo chính phủ, Quốc Hội kết quả thực hiện những chính sách tiền tệ trong quá
trình điều hành nền kinh tế trong nước
Điều 17 Luật các TCTD quy định việc thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi nhằm bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền
Khoản 2 Điều 38 Luật các TCTD quy định về nhiệm vụ của Ban kiểm soát đó là nhiệm vụ kiểm tra hoạt động
tài chính, giám sát việc chấp hành chế độ hạch toán, sự an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, thực hiện
kiểm toán nội bộ hoạt động từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác hoạt động kinh doanh và thực
trạng tài chính của tổ chức tín dụng.
4.4. Nguyên tắc bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ lợi ích công cộng và lợi ích khách hàng:
Điều 53 Luật NSNN quy định các cơ quan, tổ chức trong quyền hạn của mình có trách nhiệm đề ra những biện
pháp cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ thu, chi ngân sách được giao, thực hiện tiết kiệm,
chống lãng phí, tham ô, góp phần cho hoạt động của ngân sách Nhà nước được nhanh chóng và hiệu quả.
Điều 14 Luật NHNN năm 1997 qui định các nhân viên Ngân hàng Nhà nước không được lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình để hối lộ, sách nhiễu hoặc mưa lợi cá nhân.
Điểu 38 luật NHNN năm 1997 qui định NHNN quản lý Dự trữ ngoại hối nhằm thực hiện chính sách tiền tệ
quốc gia, đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế, bảo toàn dự trữ ngoại hối nhà nước.
Điều 51 Luật NHNN qui định NHNN tiến hành thanh tra các tổ chức tín dụng nhằm mục đích đảm bảo an
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Điều 16. Hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng
5. Vị trí, vai trò của pháp luật tài chính – ngân hàng trong hệ thống pháp luật của Việt Nam
5.1. Vị trí
5.1.1. Luật tài chính:
Luật Tài chính là một bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật quốc gia. Cụ thể:
- Luật Ngân sách Nhà nước: năm 2002 được Quốc Hội thông qua sửa đổi để phù hợp với việc triển khai các

luật thuế mới (thuế thu nhập doanh nghiệp, VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt).
- Tài chính doanh nghiệp: phản ánh quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ, lợi ích của các doanh nghiệp trong lĩnh
vực tài chính.
- Pháp luật về thuế: hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ thuế (VD: đối tượng


nộp thuế, chịu thuế, về biểu thuế, thuế suất, các điều kiện miễn giảm thuế…)
- Kỷ luật tài chính và thanh tra tài chính: 1/Kỷ luật tài chính: bộ phận của kỷ luật nhà nước, gồm: kỷ luật về
thu, chi, về tính dụng, về thanh toán, kỷ luật tiền mặt. 2/Thanh tra tài chính: hoạt động kiểm tra của cơ quan
nhà nước về các hoạt động tài chính  nhằm đưa các hoạt động tài chính đi vào nề nếp.
5.1.2. Luật Ngân hàng:
Luật ngân hàng là một bộ phận cấu thành hệ thống pháp luật quốc gia.
Luật Ngân hàng bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình
nhà nước tổ chức, quản lý hệ thống ngân hàng + các quan hệ về tổ chức, hoạt động của các tổ chức tín dụng
và hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác.
5.2. Vai trò
5.2.1. Luật tài chính
a-

Luật Ngân sách Nhà nước :

- Tạo khuôn khổ pháp luật để nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước.
- Đề ra một số quan điểm cơ bản của NN trong quản lý chi tiêu NSNN mang tính định hướng XHCN.
b-

Luật tài chính doanh nghiệp :

- Là cơ sở, công cụ để đảm bảo bắt buộc, duy trì, xử phạt nếu vi phạm quá trình tổ chức các nguồn vốn
kinh doanh


- Phân phối tài chính của doanh nghiệp, chế độ phát hành tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, chế
độ tín dụng ngân hàng ….
c-

Luật về thuế :

- Là cơ sở, công cụ đảm bảo việc thu, nộp, miễn- giảm, thanh tra về thuế và xử lý các vi phạm về nộp và
thu thuế cho phù hợp với quy định chung của pháp luật Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc công bằng, dân
chủ.
5.2.2. Luật Ngân hàng
a-

Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam :

Nhằm xây dựng, thực thi hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng; góp phần phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
b-

Luật các tổ chức tín dụng :

- Bảo đảm hoạt động của các tổ chức tín dụng lành mạnh, an toàn, hiệu quả; bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia,
phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.

- Quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và hoạt động ngân hàng của các tổ chức
khác.



5.3. Luật tài chính ngân hàng trong thời kỳ hội nhập WTO (Bất cập, giải pháp)  phần này ko có
trong đề cương nhưng thấy cần thiết nên thêm vô
1-

Những bất cập của luật tài chính ngân hàng :

a)- Đối với Ngân hàng Nhà nước: hệ thống pháp luật ngân hàng Việt Nam chưa đồng bộ, chưa phù hợp thông
lệ quốc tế  biểu hiện rõ nhất là: nhiều quy định còn bất cập, còn sự phân biệt đối xử giữa các loại hình tổ
chức tín dụng, giữa các nhóm ngân hàng và giữa ngân hàng trong nước với ngân hàng nước ngoài, gây ra sự
cạnh tranh thiếu lành mạnh.  Điều đó đặt ra thách thức: phải sửa đổi, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng,
thông thoáng, không phân biệt đối xử. Mặt khác, việc mở cửa thị trường tài chính trong nước  sẽ làm tăng
rủi ro thị trường do các tác động từ bên ngoài, từ thị trường tài chính khu vực và thế giới. Trong khi đó, năng
lực điều hành chính sách tiền tệ + năng lực giám sát hoạt động ngân hàng của NHNN còn hạn chế.
b)- Đối với NHTM trong nước: nhiều ngân hàng nhỏ về quy mô, yếu kém về trình độ, cả năng lực quản lý và
kiểm soát, cả trong việc xây dựng và ban hành các quy định quản lý, kinh doanh…,  sẽ rất khó khăn trong
cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam.
2-Giải pháp để hệ thống ngân hàng Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu hơn :

- Khẩn trương xây dựng các luật về ngân hàng
- Xây dựng NHNN Việt Nam thành Ngân hàng Trung ương của nước CHXHCN Việt Nam theo thông lệ
quốc tế.
- Hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó (1)
các vấn đề liên quan đến điều hành chính sách tiền tệ (chú trọng lãi suất, tỉ giá, thị trường mở…), đến
thanh tra giám sát (chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro theo các quy định của
Basel), đến quản lý rủi ro của NHTM, việc quản lý và cấp phép thành lập ngân hàng mới...
6. Quy phạm pháp luật tài chính – ngân hàng
6.1. Khái niệm
Là những quy tắc xử sự trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng do nhà nước định ra, có tính phổ biến, tính bắt
buộc chung và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước.
6.2. Phân loại

a) Quy phạm pháp luật tài chính:
Căn cứ vào tính chất, quy phạm pháp luật tài chính được phân biệt thành 3 nhóm:
- Nhóm quy phạm bắt buộc: là loại quy phạm quy định những hành vi bắt buộc các chủ thể của quan hệ pháp
luật tài chính phải thực hiện
Ví dụ: hành vi thu thuế của cơ quan thuế, hành vi nộp thuế của các tổ chức, cá nhân.
- Nhóm quy phạm cấm đoán: là loại quy phạm xác định một số hành vi nhất định và cấm các chủ thể của quan
hệ pháp luật tài chính thực hiện các hành vi đó.


Ví dụ: một số hành vi bị ngăn cấm: lập quỹ trái phép, để ngoài sổ sách thu chi tài chính
- Nhóm quy phạm cho phép (trao quyền): là loại quy phạm trao quyền cho các chủ thể trong một số quan hệ
tài chính nhất định có thể lựa chọn làm hoặc không làm những việc nhất định.
Ví dụ: Hành vi đóng góp tự nguyện cho ngân sách nhà nước.

b) Quy phạm pháp luật ngân hàng:
- Quy phạm mệnh lệnh phục tùng: đối với các quan hệ quản lý Nhà nước về ngân hàng.
- Quy phạm bình đẳng thỏa thuận: đối với các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức tín dụng hoặc các
tổ chức khác được phép họat động ngân hàng được thiết lập trên cơ sở bình đẳng.
7. Quan hệ pháp luật tài chính – ngân hàng
7.1. Khái niệm
a) Quan hệ luật tài chính:
Quan hệ pháp luật tài chính là những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực tạo lập, phân phối, sử dụng các
nguồn tài chính giữa Nhà nước và các tổ chức, cá nhân được quy phạm pháp luật tài chính điều chỉnh.
Quan hệ pháp luật tài chính có các đặc điểm:
-Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia đuợc xác định rõ, được thực hiện bằng cưỡng chế của
Nhà nước và Pháp luật.
-Luôn gắn liền với vai trò của Nhà nước là chủ thể quyền lực thông qua các cơ quan quyền lực Nhà
nước.
-Luôn luôn thể hiện yếu tố tài sản.
b) Quan hệ pháp luật ngân hàng:

Quan hệ pháp luật về ngân hàng là những quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý nhà nước về ngân
hàng và những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng từ hoạt động lưu thông tiền tệ, tín
dụng, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và các chủ thể khác tham gia vào lĩnh vực ngân hàng được các quy
phạm pháp luật ngân hàng điều chỉnh.
7.2. Các yếu tố cấu thành
7.2.1. Chủ thể
a) Luật tài chính:
- Chủ thể là những tổ chức cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật tài chính. Do tính đa dạng của các quan hệ
tài chính nên các chủ thể của quan hệ tài chính cũng rất đa dạng, bao gồm:
+ Nhà nước
+ Các chủ thể kinh tế, tài chính
+ Các pháp nhân
+ Các thể nhân.


- Trong nền kinh tế hàng hoá cơ chế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, đối tượng điều
chỉnh của luật tài chính đã vượt ra ngoài phạm vi tài chính công, tài chính nhà nước, bao gồm cả những quan
hệ tài chính giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, quan hệ tài chính của các tổ chức, cá nhân
trên thị trường tài chính. Những quan hệ này không nhất thiết phải có sự tham gia của Nhà nước với tư cách
là bên chủ thể.
b) Luật ngân hàng:
Chủ thể là những tổ chức cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật ngân hàng, gồm:
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam
- Các Tổ chức tín dụng
- Pháp nhân
- Cá nhân
Căn cứ vào nội dung điều chỉnh các quan hệ pháp luật ngân hàng, đối tượng điều chỉnh của luật ngân hàng có
thể phân thành những nhóm quan hệ xã hội như sau:



Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của Ngân hàng nhà nước Việt Nam



Nhóm các quan hệ tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng



Nhóm các quan hệ kinh doanh ngân hàng của các tổ chức khác, tuy không phải là tổ chức tín

dụng nhưng được phép thực hiện một số hoạt động thuộc lĩnh vực ngân hàng.
7.2.2. Khách thể: là các yếu tố liên quan đến quyền và nghĩa vụ của chủ thể.
a) Luật tài chính: khách thể gồm
-Tiền
-Giấy tờ có giá
-Việc thực hiện các quan hệ tiền tệ nhất định
-Các qũy tiền tệ: nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau tương ứng với các chủ thể khác nhau trong
quan hệ pháp luật tài chính.
Các quỹ tiền tệ được hình thành trong các quá trình phân phối tài chính (bao gồm phân phối lần đầu và phân
phối lại). Các quỹ này có thể ở dạng không tập trung ở các đơn vị, tổ chức kinh tế như quỹ khấu hao, vốn lưu
động, quỹ lương, quỹ phát triển sản xuất hay nghiệp vụ... hoặc những quỹ tiền tệ tập trung trong tay nhà nước
như quỹ ngân sách nhà nước.
(Phần dưới chỉ ghi khi thầy hỏi sâu hơn về khách thể, nếu không thì chỉ liệt kê tên quỹ)
-Quỹ ngân sách nhà nước: Đây là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước, cung cấp các phương tiện
tài chính cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, được hình thành từ các nguồn tài
chính của các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính, trong đó chủ yếu là các khoản nộp mang
tính chất pháp lý bắt buộc như thuế, phí, lệ phí. Bên cạnh đó, quỹ ngân sách nhà nước còn được hình
thành từ các nguồn khác như vay trong dân cư, vay nợ, viện trợ...



-Quỹ tín dụng: trong điều kiện của kinh tế hàng hoá-tiền tệ, tất yếu nảy sinh hiện tượng nhàn rỗi tạm
thời những nguồn vốn tiền tệ. Các nguồn vốn dạng này được tập trung lại dưới các hình thức khác
nhau tạo thành các quỹ tín dụng nhằm cung cấp, thỏa mãn nhu cầu về tiền tệ của các chủ thể trong xã
hội.
-Quỹ bảo hiểm: các quan hệ bảo hiểm hình thành trong quá trình tái phân phối tài chính, gắn với việc
tạo lập, sử dụng các quỹ bảo hiểm. Mục đích của hoạt động bảo hiểm là bồi thường thiệt hại, chi trả
bảo hiểm cho những chủ thể tham gia quan hệ bảo hiểm. Quỹ bảo hiểm được hình thành từ mối quan
hệ bảo hiểm sẽ hình thành nên nguồn tài chính tham gia vào thị trường tài chính. Bảo hiểm trở thành
một khâu của hệ thống tài chính từ việc hình thành nên quỹ bảo hiểm và tái phân phối quỹ tiền tệ này.
-Quỹ tiền tệ tại các doanh nghiệp: dựa trên những quan hệ tài chính gắn với hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp như các quan hệ trong việc hình thành, xác lập nguồn vốn kinh doanh,
phân phối thu nhập, tích lũy trong nội bộ doanh nghiệp và trong quan hệ với ngân sách nhà nước, đã
hình thành nên các quỹ tiền tệ với những mục đích sử dụng khác nhau như bù đắp, tiêu dùng hay tích
lũy để đáp ứng nhu cầu tái sản xuất, tiêu dùng trong dân cư hay chi dùng của nhà nước.
-Quỹ tiền tệ trong dân cư: gồm 2 loại

Nguồn vốn đầu tư cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh mang tính chất cá nhân trong
lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, nông nghiệp. Nguồn vốn này được hình thành từ thu nhập được tích
lũy của họ hoặc từ các nguồn khác nhau trên thị trường tài chính.

Quỹ tiền tệ thỏa mãn cho tiêu dùng của dân cư. Quỹ này được hình thành từ thu nhập thường
xuyên hoặc không thường xuyên của cá nhân. Người dân sử dụng quỹ này để tiêu dùng, đóng thuế cho
nhà nước, phần thừa hoặc nhàn rỗi họ lại đưa vào thị trường tài chính dưới các hình thức đầu tư như
góp vốn cổ phần, gửi tiết kiệm...
-Quỹ tiền tệ tại các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ. Những tổ chức này hình thành nên nguồn
quỹ tiền tệ của riêng mình để phục vụ cho tiêu dùng, hoạt động tồn tại, phát triển. Nguồn quỹ này
được hình thành từ đóng góp của các thành viên hoặc từ sự đóng góp của dân cư, hỗ trợ của nhà
nước... Trong những thời điểm nhất định khi chưa được sử dụng, nguồn tài chính đó còn có thể tham
gia vào thị trường tài chính.
b) Luật ngân hàng:

Khách thể trong quan hệ pháp luật ngân hàng gồm: tiền, hàng, các giấy tờ có giá, vàng, và những dịch vụ tiện
ích của ngân hàng
-Tiền: gồm tiền Việt Nam đồng và ngoại tệ
-Hàng hóa
-Vàng
-Giấy tờ có giá: chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất
định (tổ chức, cá nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác.
-Các dịch vụ tiện ích của ngân hàng: các dịch này rất đa dạng, đặc biệt là về tín dụng, tiết kiệm, và các
dịch vụ thanh toán, cụ thể là: cất, giữ, mua bán, chuyển nhượng, quản lý các chứng khoán và giấy tờ
có giá, cho thuê động sản và bất động sản, thực hiện các nghiệp vụ về vàng, kim khí quý. Ngoài ra, các
ngân hàng còn có thể thực hiện những nghiệp vụ tài chính, dịch vụ có liên quan đến đầu tư như tham


gia mua cổ phiếu của các công ty hoặc góp vốn thành lập các công ty cổ phần sau đó bán lại cổ phiếu
hoặc góp vốn vào các doanh, tham gia vào thị trường chứng khoán.
7.2.3. Nội dung
a) Luật tài chính:
Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể quan hệ pháp luật tài chính được xác định bằng các quy phạm pháp luật tài
chính.
A.1. Luật Ngân sách Nhà nước:
(Nếu ghi không kịp thì ghi các gạch đầu dòng, ghi kĩ nếu thầy hỏi sâu)
Hầu hết các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia trong quan hệ luật ngân sách nhà nước đều được thiết
lập nhằm hướng sự thỏa mãn lợi ích chung.
Mô hình luật NSNN ở Việt nam gồm 4 chế định cơ bản sau:
-Chế định về lập, chấp hành và quyết toán NSNN: quy định cụ thể về cách thức soạn thảo, thông qua 1
bản dự toán NSNN tại quốc hội; phương thức chấp hành dự toán; thể thức ghi chép sổ kế toán, lập báo
cáo quyết toán trình quốc hội phê chuẩn.
-Chế định về phân cấp quản lý NSNN: quy định về phạm vi quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan
nhà nước trong hoạt động NSNN; quy định về nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp NS.
-Chế định về thu nộp NSNN: quy định về danh mục các khoản thu; chủ thể có quyền hạn và trách

nhiệm thực hiện các khoản thu; tỷ lệ; hình thức, hệ thống chế tài khi vi phạm pháp luật trong quá trình
thu NSNN….
-Chế định về chi tiêu NSNN: quy định về danh mục các các khoản chi; chủ thể cấp kinh phí, chủ thể có
quyền tiếp nhận kinh phí; mức độ, tỷ trọng và cách thức thực hiện; hệ thống chế tài khi vi phạm pháp
luật trong quá trình chi NSNN…
(liệt kê vắn tắt, không cần ghi đủ hết các nhiệm vụ, quyền hạn dưới đây, có thể bỏ luôn)


Nhiệm vụ và quyền hạn của quốc hội:

-Làm luật, sửa đổi luật NSNN
-Quyết định chính sách TC-TT quốc gia đảm bảo cân đối NSNN
-Quyết định dự toán
-Phân bổ NSNN
-Quyết định danh mục các chương trình mục tiêu quốc gia, các công trình đầu tư trọng điểm quốc gia.
-Quyết định điều chỉnh dự toán NSNN trong trường hợp cần thiết.
-Giám sát thực hiện NSNN.
-Phê chuẩn quyết toán NSNN.


Nhiệm vụ và quyền hạn của hội đồng nhân dân các cấp:

-Quyết định dự toán và phân bổ NSĐP, giám sát thực hiện NSNN trên địa bàn, phê chuẩn quyết toán NSĐP.
-Quyết định điều chỉnh dự toán NSNNĐP trong trường hợp cần thiết.


-Đề ra các chủ trương, biện pháp thực hiện NSĐP.
-Quyết định thu phí, lệ phí và các khoản đóng góp của dân cư theo quy định của pháp luật.



Nhiệm vụ, quyền hạn của chính phủ:

-Trình quốc hội các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về NSNN, ban hành các văn bản pháp quy về
NSNN.
-Lập và trình quốc hội dự toán NSNN, phân bổ NSNN, dự toán điều chỉnh NSNN trong trường hợp cần thiết.
-Tổ chức kiểm tra việc thực hiện NSNN và báo cáo quốc hội.
-Thống nhất quản lý NSNN, phối hợp quản lý giữa các cơ quan, ngành, địa phương.
-Quy định các định mức, chế độ chi tiêu NSNN.
-Lập trình quốc hội quyết toán NSNN, các công trình XDCB trọng điểm quốc gia.


Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài chính:

-Chuẩn bị các dư án luật, pháp lệnh… trình CP và ban hành các văn bản pháp quy về NSNN trong thẩm quyền.
-Chịu trách nhiệm trước CP về thực hiện chức năng thống nhất vế quản lý NSNN.
-Hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương lập dự toán, phân bổ dự toán NSNN.
-Trình CP quyết định các chế độ, tiêu chuẩn định mức chi tiêu NSNN thống nhất trong cả nước theo quy định
của CP.
-Thanh tra kiểm tra tài chính đối với các đơn vị có nghĩa vụ tài chính đối với NSNN.
-Quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của NN.
-Lập dự toán NSTW, tổng hợp quyết toán NSNN trình CP.

-

Nhiệm vụ và quyền hạn của UBND:

Lập và điều chỉnh dự toán trong trường hợp cần thiết, lập quyết toán NSĐP trình HĐND cùng cấp báo
cáo chính quyền và CQ tài chính cấp trên.

-


Kiểm tra nghị quyết về dự toán và quyết toán NS của HĐND cấp dưới.

-

Lập phương án phân bổ NSĐP, tổ chức thực hiện và báo cáo về NSNN theo quy định của pháp luật.

-

Phối hợp với cơ quan NN cấp trên quản lý NSNN theo lĩnh vực trên địa bàn.
A.2. Luật thuế:
- Thuế GTGT:
+ Hệ thống cơ quan thuế địa phương tổ chức quản lý, thu thuế GTGT đối với các cơ sở kinh doanh
thuộc diện nộp thuế GTGT thường xuyên trong nước.
+ Hải quan địa phương thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động chuyển dịch hàng hoá qua biên giới, xác
định các khoản thu đối với hàng hoá nhập khẩu, trong đó có thuế GTGT.
+ Quản lý thuế GTGT:

+ Các chủ thể có hành vi kinh doanh điều phải đăng ký thuế với cơ quan thuế có thẩm quyền, hằng tháng kê
khai đầy đủ chính xác thuế GTGT với cơ quan thuế. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu có trách nhiệm kê
khai thuế GTGT từng lần nhập khẩu cùng với việc kê khai thông tin liên quan đến hoạt động nhập khẩu .


- Thuế tiêu thụ đặc biệt:
+ Bộ tài chính, Tổng cục thuế chủ yếu tham gia vào quan hệ pháp luật thuế TTĐB với tư cách là chủ
thể quyền lực, tiến hành xem xét và quyết định các trường hợp miễn giảm thuế.
+ Cơ quan thu gồm cơ quan thuế, hải quan cơ quan tài chính, với tư cách chủ thể quyền lực có thẩm
quyền hướng dẫn, kiểm tra thanh tra việc thu nộp thuế và áp dụng các chế tài khi cần thiết
+ Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế là các tổ chức, cá nhân có sản xuất, nhập khẩu hàng hoá kinh doanh
thuộc diện nộp thuế TTĐB.

b) Luật ngân hàng:
Bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật ngân hàng cụ thể.
(Nếu ghi không kịp thì ghi các gạch đầu dòng, không cần giải thích kĩ)
Một số nhiệm vụ và quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước
Trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước :
+ Tham gia xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước;
xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về tiền tệ và
hoạt động ngân hàng; ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng
theo thẩm quyền.
+ Cấp, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp do Thủ tướng
Chính phủ quyết định
+ Kiểm tra, thanh tra hoạt động ngân hàng; kiểm soát tín dụng; xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo thẩm quyền.
+...
Trong việc thực hiện chức năng ngân hàng trung ương :
+ Tổ chức in, đúc, bảo quản, vận chuyển tiền; thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi, thay thế và tiêu
huỷ tiền
+ Thực hiện tái cấp vốn nhằm cung ứng tín dụng ngắn hạn và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế
+ Điều hành thị trường tiền tệ; thực hiện nghiệp vụ thị trường mở
+ Kiểm soát Dự trữ quốc tế; quản lý Dự trữ ngoại hối nhà nước
+ Tổ chức hệ thống thanh toán qua ngân hàng, làm dịch vụ thanh toán, quản lý việc cung ứng các
phương tiện thanh toán
+...
Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.



Quyền lợi và trách nhiệm của các tổ chức tín dụng:
Quyền lợi:
-Quyền hoạt động Ngân hàng


Mọi tổ chức có đủ điều kiện theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật được Ngân hàng
Nhà nước cấp giấy phép hoạt động thì được thực hiện một phần hoặc toàn bộ hoạt động ngân hàng tại Việt
Nam.


-Quyền tự chủ kinh doanh
Các tổ chức tín dụng có quyền tự chủ kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình.
-Hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng:
Các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp pháp.
Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an
toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp của các bên.


Trách nhiệm:
-Tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ
quy định;
-Tạo thuận lợi cho khách hàng gửi và rút tiền theo yêu cầu; bảo đảm trả đầy đủ, đúng hạn gốc
và lãi của mọi khoản tiền gửi;
-Bảo đảm bí mật số dư tiền gửi của khách hàng; từ chối việc điều tra, phong toả, cầm giữ, trích
chuyển tiền gửi mà không có sự đồng ý của khách hàng, trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác;
-Thông báo công khai mức lãi suất tiền gửi.



×