Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trong bài thơ về tiểu đội xe không kính của phạm tiến duật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (37.26 KB, 5 trang )

vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính
của Phạm Tiến Duật
Mở bài:
Phạm Tiến Duật là một trong những nhà thơ trẻ trưởng thành trong thời kì kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Xuất thân là một thầy giáo, do điều kiện lịch sử thúc
bách, ông đem ngòi bút của mình phục vụ cho cuộc chiến đấu anh hùng của dân
tộc. Phạm Tiến Duật chủ yếu viết về cuộc sống và chiến đấu của thanh niên xung
phong trên tuyến đương Trường Sơn ác liệt. Thơ ông phóng khoáng, tinh nghịch,
tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng. Phong cách ấy thể hiện sâu sắc qua Bài thơ về
tiểu đội xe không kính viết năm 1969, ngay khi cuộc chiến chống kẻ thù đang
trong giai đoạn ác liệt nhất.

Thân bài:
Tuy đến muộn trong đề tài viết về người thanh niên xung phong, thế nhưng Phạm
Tiến Duật cũng kịp để lại những dấu ấn đậm nét. Có thể nói ông là một trong
những nhà thơ trẻ nổi bậc và có đóng góp nhiều nhất trong phong trào thơ ca kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.

Tập thơ Vầng trăng vầng lửa ra đời năm 1970 làm tên tuổi Phạm Tiến Duật được
chú ý nhiều. Ông còn được ca tụng là “con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại”,
“cây săng lẻ của rừng già”, “nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ”. Thơ ông thời chống
Mỹ từng được đánh giá là “có sức mạnh của một sư đoàn”.

Làm nên giá trị ấy là bởi những bài thơ của Phạm Tiến Duật luôn bám sát và phản
ánh kịp thời, chân thực cuộc sống và chiến đấu của bộ đội Trường Sơn. Mặt khác,
ông lựa chọn phản ánh hiện thực chiến tranh khốc liệt bằng một giọng thơ hóm
hỉnh, sôi nổi, vui tươi và đầy tinh nghịch. Giọng thơ ấy tỏ ra gần gũi và phù hợp
với tâm lí và tính cách người lính. Nó có sức mạnh cổ vũ tinh thần chiến đấu, hi
sinh, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù của con người trong hoàn cảnh khắc
nghiệt nhất. Nó truyền cho người lính niềm tin và sức mạnh chiến đấu kiên cường.



Điều đó chứng thực rõ ràng trong cách Phạm Tiến Duật nhìn nhận về hiện thực.
Ông tỏ ra tài tình khi miêu tả những chiếc xe không kính, một hình ảnh thường
thấy trên tuyến đường Trường Sơn thuở ấy. Hình tượng những chiếc xe không kính
hiện lên chân thực, rõ ràng với tất cả những tổn thương thảm khốc do bom đạn kẻ
thù gây ra:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi

Dâu chỉ có thế:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.

Bình thường, những chiếc xe không kính không thể gọi là cái đẹp nhưng tác giả đã
lấy hình tượng đó làm cảm hứng xuyên suốt bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng
hợp lý này có tác dụng gây ấn tượng mạnh, là cơ sở để làm nổi bật phẩm chất dũng
cảm, sự lạc quan và quyết tâm giành chiến thắng của anh lính lái xe thời chống Mĩ.

Những chiếc “xe không kính” , “không có đèn”, “không có mui, “thùng xe có
xước” ấy đã gợi lên những nguy hiểm cận kề; “bom giật, bom rung” làm vỡ kính
xe…

Hình tượng những chiếc xe không kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó
khăn gian khổ mà anh bộ đội lái xe phải chịu đựng. Điệp ngữ: “không có kính” ở
đầu các khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh cho ta cảm nhận được gian khổ, nguy


hiểm sự khốc liệt của hiện thực cuộc chiến đối với người lính Trường Sơn vừa

khắc họa được nét tiêu biểu của con người Việt Nam: dù thiếu thốn, khó khăn vẫn
kiên cường chiến đấu. Sự hi sinh, cái chết đã ở đâu đó, rất gần những người lính:

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Trong hiểm nguy, gian khổ nhưng người lính vẫn luôn ở tư thế hiên ngang, tinh
thần dũng cảm, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và
ý chí chiến đấu vì miền Nam. Với ý chí chiến đấu cùng niềm lạc quan của tuổi trẻ,
với người lính, mọi hiểm nguy, gian khó đã không hiện hình. Trước mắt họ là cả
bầu trời rộng lớn với biết bao điều kì thú. Phạm Tiến Duật đã dành hết ba khổ thơ
để miêu tả tinh thần lạc quan, yêu đời, ý chí vượt khó vượt khổ, đạp bằng hiểm
nguy của người lính:

Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.

Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.


Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngòai trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.


Với người khác, có lẽ đó là một sự xa sỉ. Nhưng với Phạm Tiến Duật, điều đó rất
cần thiết. Đối với ông, ở người lính lái xe không có kính thì đó là những trở ngại
rất lớn. Gió, cản vật, bụi, mưa,… là những kẻ thù vô hình. Nó có thể gây nguy
hiểm tức thời nếu người lính không chú ý. Thế nhưng, giờ đây, những điều hiểm
nguy ấy gần gũi và thân thiết như những người bạn đường. Họ bình tâm đón nhận
và vui cười hớn hở. Thiên nhiên khắc nghiệt giờ đây lại hết sức thân thiện, bao
dung, che chở cho họ trên đoạn đường ra mặt trận.

Trong bom đạn khốc liệt của chiến tranh, anh chiến sĩ vẫn giữ vững tư thế hiên
ngang hướng về phía trước, thực hiện khẩu hiệu: “tất cả vì tiền tuyến, tất cả vì
miền Nam ruột thịt”. Những từ ngữ chọn lọc; “ung dung”, “nhìn đất”, “nhìn trời”,
“nhìn thẳng” thể hiện tư thế, phong cách anh bộ đội lái xe trên đường ra trận.

Với hệ thống ngôn ngữ bình dị, âm điệu vui tươi thể hiện niềm lạc quan yêu đời
của tuổi trẻ sống có lý tưởng và tư thế hiên ngang, lòng dũng cảm đã làm nên sức
mạnh của anh bộ đội. Sức mạnh ấy còn được nhân lên gấp bội vì cành anh còn có
cả tập thể anh hùng. Từ trong bom đạn hiểm nguy, “tiểu đội xe không kính” được
hình thành, bao giờ những con người từ bốn phương chung lý tưởng, gặp nhau
thành bạn bè.

Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí chiến đấu vì miền Nam ruột thịt của anh
bộ đội vẫn không hề lay chuyển:


Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.

Cách nói ngắn gọn mà chắc nịch kiểu lính của các chiến sĩ lái xe khiến cho ta càng
tin tưởng hơn ở sức mạnh chiến thắng của dân tộc. Ta bỗng nhận ra sức mạnh làm
nên chiến thắng của dân tộc đâu chỉ ở vũ khí và tài năng chiến đấu của nhân dân

mà còn ở niềm tin không bao giờ lay chuyển được đang ngự trị trong trái tim của
mỗi con người Việt Nam trước tội ác và hành dộng xâm lược của kẻ thù.

Thành công của Phạm Tiến Duật là ở chỗ ông viết thơ mà như nói. Cái giọng thơ
ngang tàn, có cả chất nghịch ngợm, rất phù hợp với những đối tượng miêu tả là
người lính vốn rất tinh nghịch, không câu nệ hình thức. Kết hợp linh hoạt thể thơ 7
chữ và 8 chữ, tạo cho bài thơ có điệu thơ gần với lời nói tự nhiên, sinh động. Tính
nhạc từ đó cũng nảy sinh.

Với những ưu điểm ấy, bài thơ đã rất thành công trong việc khắc họa hình ảnh
những anh bộ đội lái xe trên tuyến đường Trường Sơn đầy gây go, thử thách, một
lực lượng tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc
kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Họ dâng hiến tuổi xuân không tiếc máu xương để
góp phần đưa non sông ta thu về một…

Kết bài:
Bút pháp lãng mạn cách mạnh đã giúp tác giả Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã
tìm thấy, phát hiện, khẳng định cái chất thơ, cái đẹp hình tượng người lính lái xe
ngay trong hiện thực đời sống bình thường nhất, thậm chí trần trụi, khốc liệt nhất,
ngay cả trong sự tàn phá dữ dội, ác liệt của chiến tranh. Đó cũng là dư âm còn
động lại và mãi mãi lan tỏa trong mọi thế hệ người đọc Việt Nam khi đọc bài thơ
này.



×