Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiến trình vận động của thơ việt sau năm 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.24 KB, 17 trang )

Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
MỞ ĐẦU
Văn học có chức năng gieo trồng những giá trị nhân văn và làm lành mạnh
hóa đời sống con người nhằm nhân đạo hóa đời sống con người. Đó là một hiệu
quả đã được đúc kết trong thực tiễn phát triển của văn học dân tộc.
Đất nước ta đã trải qua hai cuộc chiến tranh kéo dài non nửa thế kỷ và vẫn
còn tiếp tục dư âm. Từ sau năm 1975, sự hội nhập vào thế giới và xu hướng hiện
đại hóa đã trao cơ hội cho nhiều nhà thơ Việt Nam thuộc đủ các thế hệ tìm đọc, tìm
dịch và tiếp thu những kinh nghiệm thơ ca của các nền văn học.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống
Mĩ cứu nước, mở ra một thời kì mới cho lịch sử dân tộc, đồng thời đưa đến một
chặng đường mới của nền văn học Việt Nam. Đã tròn ba mươi năm kể từ thời điểm
lịch sử đó, nền văn học Việt Nam luôn đồng hành cùng gắn bó với vận mệnh của
dân tộc, đi qua những bước thăng trầm và thực sự đã tạo ra những biến đổi sâu sắc,
toàn diện, làm nên diện mạo của một giai đoạn văn học mới. Ba mươi năm chưa
phải là khoảng thời gian dài đối với tiến trình lịch sử của một nền văn học nhưng
cũng không phải là ngắn ngủi, quan trọng hơn, nó đã đủ để tạo nên diện mạo mới
với những đặc điểm và quy luật vân động riêng của một giai đoạn văn học. Ba
mươi năm văn học Việt Nam vận động qua những chặng đường như thế nào, có sự
thăng trầm, quanh co hay vẫn theo một xu thế vận động nhất quán? Ở đây, ta sẽ
cùng nhau tìm hiểu tiến trình vận động của thơ sau 1975 qua các chặng đường cụ
thể.

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

1


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975


NỘI DUNG
Thi ca hiện đại Việt Nam trước năm 1975 có hai giai đoạn phát triển mạnh
mẽ và rực rỡ, đạt nhiều thành tựu, đáng kể là giai đoạn 1930 – 1945 với phong trào
thơ Mới và giai đoạn 1945 – 1975.  Mỗi giai đoạn đều có sự  khác biệt nhau về
khuynh hướng sáng tác. 
Cụ thể giai đoạn 1930 – 1945, văn học có sự chuyển biến mnạh mẽ, đặc biệt
là thi ca, có sự xáo trộn, pha trộn về tư tưởng A – Âu đảo lộn, có sự đấu tranh giữa
cái cũ và cái mới. Từ  đó nhiều nhà thơ  muốn thoát ra khỏi vòng cương tỏa, kìm
kẹp của hệ tư tưởng Phong kiến, muốn đi theo con đường đổi mới, luôn đề cao bản
ngã cái tôi cá nhân, hướng vào đời thường, khẳng định cảm xúc của bản thân như
Xuân Diệu đã viết: 
Ta là một, là riêng, là tất cả
         Không có chi bạn bè nổi cùng ta.
để khẳng định cái tôi ­ khẳng định bản ngã của mình. 
Cho đến thời kỳ 1945 – 1975, nước ta có sự chuyển biến lớn về ý thức hệ tư
tưởng, chủ  nghĩa Mác – Lênin và tư  tưởng Hồ  Chí Minh có chỗ  đứng vững chắc
trong lòng dân. Vì vậy khuynh hướng chính trong thơ  thời kỳ  này mang khuynh
hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Hầu hết những bài thơ thời kỳ này đều mang
tính ngợi ca, xây dựng hình tượng những con người kết tinh phẩm chất của cộng
đồng . Đó là những con người tiêu biểu cho con người Việt Nam, cho dân tộc Việt
Nam. Đó là những anh bộ  đội như  Tố  Hữu ca ngợi trong bài   Hoan hô chiến sĩ
Điện Biên: 
 Hoan hô chiến sĩ điện Biên
 Đầu nung lửa sắt
56 ngày đêm khoét núi, ngủ hầm
Mưa dầm, cơm vắt
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang


2


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Máu trộn bùn non
Gan không núng, chí không mòn, …
Thời kháng chiến chống Mĩ, khuynh hướng ngợi ca và cảm hứng lãng mạn
còn được thể hiện rõ nét hơn. Đó là những con người mang tầm vóc thời đại, gánh
trên vai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ đều là những con người mang
phẩm chất, đặc điểm của cả thế hệ cả dân tộc. Trong bài   Người con gái Việt Nam
chị Trần Thị Lý được ca ngợi:
                                Em là ai, cô gái hay nàng tiên
                                         Em có tuổi hay không có tuổi
                                        Mái tóc em đây là mây hay là suối
                                       Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm đông
                            Thịt da em là sắt hay đồng.
                      … Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung
   Không giết được em, người con gái anh hùng.
Hay hình ảnh anh giải phóng quân được xây dựng như một tượng đài kỳ  vĩ
về con người VIệt Nam anh hùng:
                  Anh ngã xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất
                            Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
       Và anh chết trong khi đang đứng bắn
     Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng
                … Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
                          Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
Như vậy thơ giai đoạn 1930 – 1945 đã có sự thay đổi rất lớn so với thơ thời
kỳ trung đại, cận đại. Đây là chặng đường đổi mới đầu tiên của thơ ca Việt Nam.
Thơ giai đoạn 1945 – 1975 mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn,
phản ánh đặc điểm của lịch sử và có tính ca ngợi con người. Nhìn lại một cách

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

3


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
tổng thể ta nhận thấy rằng văn học cách mạng giai đoạn 1945 - 1975, thơ là thể loại
phát triển phong phú và có nhiều thành tựu, tập trung khai thác những tình cảm
cộng đồng và cảm hứng sử thi của thời đại. Từ sau năm 1975, cuộc sống thời hậu
chiến có quá nhiều điểm khác biệt so với cuộc sống thời chiến tranh cho nên thơ ca
không còn chiếm địa vị tiên phong trong đời sống. Dù không có vị thế nổi trội như
các thể loại văn xuôi, nhưng thơ vẫn rất phong phú, đa dạng, có nhiều tìm tòi cách
tân mạnh mẽ, đem đến một giai đoạn mới trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam.
Từ chỗ là những ca ngợi ca đất nước và nhân dân bằng cái nhìn sử thi và
cảm hứng lãng mạn, giờ đây các nhà thơ chuyển từ “bè cao” sang “giọng trầm”.
Cái nhìn sử thi đã dần phai nhạt và thay vào đó là cái nhìn phi sử thi. Đây là yếu tố
hết sức quan trọng khiến cho nghệ thuật giai đoạn này thể hiện tinh thần dân chủ
hóa sâu sắc. Cảm hứng nhân bản và sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã trở thành nền
tảng và cảm hứng chủ đạo của văn học và thơ ca sau 1975. Nhà thơ không còn bị
vướng bận với những kiểu hiện thực chủ yếu và hiện thực thứ yếu, không bị bó
buộc trong những khung tư tưởng định sẵn mà cố gắng thể hiện tính đa chiều của
hiện thực. Nói đúng hơn, hiện thực trong văn học phải là thứ hiện thực của suy
tư. Chỉ một khi nhà thơ nhìn cuộc sống bằng đôi mắt cá nhân, nói lên tiếng nói cá
nhân, lúc đó mới hi vọng anh ta tạo nên giọng điệu và tư tưởng nghệ thuật riêng.
Tuy nhiên, trong những năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, cần chú ý đến các
mạch chính trong sự vận động của tư duy thơ. Thơ ca sau 1975 trở về với khuynh
hướng thế sự, đời tư và đã được biểu hiện cụ thể qua những giai đoạn như sau:
Ở giai đoạn đầu vào nửa cuối thập kỉ 70, đầu những năm 80, sau đại thắng

mùa xuân 1975, nền văn học về cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo những quy luật
và với cảm hứng chủ đạo trong thời kì chiến tranh chống Mĩ cứu nước. Lúc này,
cuộc kháng chiến chống Mĩ vẫn tiếp tục là nguồn cảm hứng của thơ. Thơ giai đoạn
này thể hiện niềm hân hoan toàn thắng và niềm xúc động sum họp Bắc Nam của
những người con được trở về quê hương sau hơn 20 năm xa cách. Có thể kể đến
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

4


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
các tác phẩm như: Bài ca quê hương của Tố Hữu, Tôi muốn đi thăm khắp cả miền
Nam của Xuân Diệu, Trở lại con sông quê hương của Tế Hanh….
Tố Hữu với những xúc cảm khi được quay trở về quê hương sau 20 năm xa
cách:
20 năm dằng dặc xa quê
Nay mới về thăm mừng tái tê...
Mới được nghe giọng hờn dịu ngọt
"Huế giải phóng nhanh, mà anh lại muộn về!"
Ôi, cơ chi anh được về với Huế
Không đợi trưa nay, phượng nở với cờ
Về với phá Tam Giang, như con trích con chuồn dưới bể
Về với từng lá bến Tuần, lợp nón bài thơ...
Khi cuộc kháng chiến kết thúc, đứng trên vị thế của người chiến thắng, các
nhà thơ thuộc thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ có nhu cầu nhìn lại con
đường mà thế hệ mình cùng với cả dân tộc vừa đi qua, chiêm nghiệm lại lịch sử
qua những trải nghiệm của chính mình và thế hệ mình.
Tố Hữu viết:

Đâu phải đường xanh, đường máu chảy
Ba mươi năm máu đỏ thành hoa
Cuộc sinh nở nào đau đớn vậy
Rất tự hào mà xót tận trong da.
Và cũng vì lẽ đó, thể loại trường ca ra đời với khả năng tổng hợp trong nó cả
trữ tình, tự sự, chính luận đáp ứng nhu cầu nói trên. Cũng vì thế đã có một giai
đoạn nở rộ của trường ca trong khoảng từ 1976 đến 1985. Không chỉ viết về kháng
chiến chống Mĩ, nhiều trường ca còn khai thác đề tài lịch sử và công cuộc xây
dựng đất nước sau chiến tranh, cả những hiện trạng bề bộn, phức tạp của cuộc sống
hiện tại. Đáng chú ý là những trường ca của Thanh Thảo: Những người đi tới biển,
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

5


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Những ngọn sóng mặt trời, Khối vuông ru-bích, Đêm trên cát; Hữu Thỉnh với
Đường tới thành phố, Trường ca biển, Sức bền của đất; Trần Đăng Khoa với Khúc
hát người anh hùng; Trần Mạnh Hảo với Mặt trời trong lòng đất, Đất nước hình
tia chóp; Thu Bồn với Ba-dan khát… Cảm hứng sử thi vẫn được tiếp nối như một
quán tính nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà giai đoạn này xuất hiện hàng loạt
trường ca có ý nghĩa như những bức tranh hoành tráng tổng kết cuộc kháng chiến
vĩ đại của dân tộc. Sự thay đổi trong cái nhìn nghệ thuật trong các trường ca này so
với thơ ca thời chống Mỹ là ở chỗ, tuy vẫn mang chủ âm hào hùng, nhưng các nhà
thơ đã bắt đầu chú ý nhiều hơn đến bi kịch của con người. Nói khác đi, trong khi
cố gắng miêu tả sự lớn lao, kỳ vĩ của Tổ quốc, các nhà thơ đã quan tâm trực diện
đến số phận của cá nhân, thậm chí nhiều khi số phận của đất nước được đo ướm
bằng nỗi đau của cá nhân:

Một mình một mâm cơm
Ngồi bên nào cũng lệch
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Hữu Thỉnh - Đường tới thành phố).
Trong những trường ca này, mặc dù cái bi chỉ là yếu tố để làm nổi bật
cái tráng nhưng rõ ràng, cái nhìn về chiến tranh đã sâu hơn, gắn nhiều hơn với
những suy tư cá nhân về số phận dân tộc và số phận con người. Cảm hứng sử thi là
nền tảng của các trường ca và nhiều bài thơ về đề tài chiến tranh chống Mĩ, nhưng
những trải nghiệm cá nhân của mỗi người làm thơ đã làm cho sự khái quát lịch sử
có cái nhìn cụ thể, xác thực và thấm thía hơn. Giọng điệu trầm lắng hướng vào
những suy tư chứ không còn cất lên ở âm vực cao đầy hào sảng hay bay bổng lãng
mạn nữa. Sự khẳng định dân tộc, ngợi ca sức mạnh của nhân dân thường được thể
hiện qua những mất mát, hy sinh, nỗi đau thầm lặng của vô vàng con người và bao
nhiêu số phận. Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ đi qua cuộc chiến tranh được tô

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

6


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
đậm ở sự dấn thân tự nguyện đầy tỉnh táo chứ không còn là niềm say mê, háo hức
đầy chất lãng mạn như hồi đầu bước vào cuộc chiến tranh:
Chúng tôi đi không tiếc cuộc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc?
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc
(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)
Hay:

Tuổi trẻ biến trăm sông thành thác
Dập tắt lửa chiến tranh bằng máu đời mình
(Thu Bồn)
Đây là sự tổng kết những trải nghiệm và trưởng thành của thế hệ trẻ đi qua
cuộc chiến tranh với tư cách một thế hệ gánh trên vai sứ mạng của lịch sử, của dân
tộc, của đất nước. Vì thế chân dung tinh thần đi qua chiến tranh được tô đậm ở sự
lựa chọn, dấn thân, tự nguyện chứ không còn là niềm say mê, háo hức như hồi đầu
mới bước vào cuộc chiến. Hồi mới bước vào kháng chiến, sôi sục đầy quyết tâm, là
niềm say mê háo hức được góp sức cho Tổ quốc.
Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành
Sau chiến tranh con người trở về với cuộc sống đời thường, cũng có nghĩa là
trở lại với các quan hệ thế sự trong cuộc sống thường nhật nhiều bộn bề lo toan,
với những khát vọng về hạnh phúc và cả những trăn trở lựa chọn về cuộc sống. Ví
như Nguyễn Duy qua hình ảnh vầng trăng “im phăng phắc” giữa thành phố đầy
“bóng điện, cửa gương” để nhắc nhở về sự thủy chung với nhân dân, đất nước, với
những tháng năm gian lao vừa đi qua.
Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

7


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa
Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường
Chế Lan Viên ý thức rõ rệt về nhu cầu chuyển giọng của thơ:
Bao năm hát giọng cao
Giờ anh hát giọng trầm.
Các nhà thơ nữ như Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Dư Thị Hoan… là những người
nhạy cảm hơn cả với khát vọng hạnh phúc:
Em lo âu trước xa tắp đời mình
Trái tim đập bao điều không thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
(Xuân Quỳnh)
Có lối nhỏ vương đầy câ xấu hổ
Em sợ nó khép cánh
Biết làm sao bây giờ
Chính lối này đưa em tới anh….
(Dư THị Hoàn)
Giai đoạn này, “thơ đời thường” xuất hiện nhiều. Chưa bao giờ các nhà thơ
thấy nhiều bi kịch đến thế. Thậm chí, cảm giác bế tắc và chán nản là cảm giác khá
nổi bật trong tâm trạng nhiều người:
Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi
Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi
(Nguyễn Trọng Tạo - Tản mạn thời tôi sống).

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang

8



Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
“Từ xa” nhìn về Tổ Quốc, Nguyễn Duy đã thật lòng nói lên nỗi cay đắng
của mình khi nhìn thấy sự khổ nghèo và bất hạnh của con người trong cuộc sống
đầy khốn khó.
Nhắm mắt lại mà nhìn
thăm thẳm
yêu và đau
quằn quại bi hùng
Dù ở đâu vẫn Tổ Quốc trong lòng
cột biên giới đóng từ thương đến nhớ
(Nhìn từ xa…Tổ
quốc)
Lưu Quang Vũ cũng cay đắng nghẹn ngào khi nghĩ về Tổ quốc.
Người đau thương, tôi gắng gượng mỉm cười
Gắng tin tưởng nhưng lòng tôi có hạn
Chiều nay lạnh, tôi nghẹn ngào muốn khóc
Xin Người tha thứ, Việt Nam ơi.
( Việt Nam ơi)
Các hình tượng nghệ thuật mang tính huyền thoại hóa về một hiện thực kỳ vĩ
và cảm hứng sử thi không còn xuất hiện như là hiện tượng nổi bật của thơ ca giai
đoạn này. Trái lại, bằng cái nhìn tỉnh táo và giàu màu sắc chiêm nghiệm, nhiều thi
phẩm sau chiến tranh đã thể hiện một cách khá riết róng những mặt trái của đời
sống, những thay đổi các thang bậc giá trị và không né tránh việc nói đến những
bất công xã hội. Đây là những cảm hứng hiếm khi xuất hiện trong thơ 1945- 1975,
khi mà số phận dân tộc và số phận cá nhân hòa làm một, cái tôi và cái ta hoàn toàn
thống nhất. Cái nhìn nghệ thuật trong thơ sau 1975 là cái nhìn suồng sã, đối tượng
hiện lên như một sự thật không mang màu lý tưởng hóa. Theo đó, thể tài thế sự,
đời tư trở nên nổi bật và gắn liền với nó là chất giọng “tự thú” và chất giọng giễu
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17


Trang

9


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
nhại. Cả hai đều tồn tại bình đẳng trong một thế giới không phải lúc nào cũng được
cắt nghĩa theo logic nhân quả. Bởi thế, gắn liền với giọng điệu thự thú là cảm hứng
phê phán và chất giọng hoài nghi. Chỉ có điều sự hoài nghi cần được nhìn nhận
trong mối quan hệ biện chứng, khi ta hoài nghi một giá trị có nghĩa là bắt đầu ta đã
nghiêng về một giá trị khác (hoặc ít nhất ta không còn ràng buộc mình trong giá trị
cũ). Đó là lý do ta hiểu vì sao cái tôi trong thơ sau 1975 là cái tôi đa diện, nhiều bất
an, giằng xé, hướng nội.
Bước sang giai đoạn những năm đầu thập kỉ 80, đất nước rơi vào cuộc
khủng hoảng kinh tế, xã hội ngày càng nặng nề, thực trạng xã hội được bộc lộ
nhiều mặt trái, nhiều vấn đề bức xúc. Nền văn học cũng chững lại và không ít
người lâm vào tình trạng bối rối, không tìm thấy phương hướng sáng tác.Ý thức
nghệ thuật của số đông người viết và công chúng chưa chuyển biến kịp thời với
thực tiễn xã hội, những quan niệm và cách tiếp cận hiện thực vốn quen thuộc trong
thời kì trước đã tỏ ra bất cập trước hiện thực mới và đòi hỏi của người đọc. Đây là
khoảng thời gian mà Nguyên Ngọc gọi là “khoảng chân không trong văn học”.
Nhưng cũng chính trong những năm này đã diễn ra sự vận động của chiều sâu của
đời sống văn học, với những trăn trở vật vã, tìm tòi thầm lặng mà quyết liệt ở một
số nhà văn có mẫn cảm với đòi hỏi của cuộc sống và có ý thức trách nhiệm cao về
ngòi bút của mình. Bằng cái nhìn tỉnh táo và ý thức trách nhiệm, thơ đã không né
tránh những sự thật đau lòng, những bất công ngang trái và cả những trì trệ ngủ
yên trong lối mòn tự mãn. Sự tự vấn, tự thú, thức tỉnh trở thành xu hướng ở nhiều
bài thơ, nhà thơ đối diện với hiện thực bằng tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật, nhất là khi không khí dân chủ đã được mở ra cùng với công cuộc đổi mới.

Chế Lan Viên xót xa nhìn lại mình và thơ mình giai đoạn trước:
Đã lâu ta không nghe hồn lau gọi nữa
Xa tiếng gió xạc xào
Xa mùi bùn,mauif trâu, mùi rơm rạ…
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 10


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Chỉ nghe danh vọng ầm ào
Vinh quang xí xố
Hoa Lư ở đâu?
Hoa Lau ở đâu?
Hồn Lau ở đâu?
Hồn ta ở đâu?
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
Trương Nam Hương thì Tạ lỗi cánh đồng:
Tôi ăn bao hạt mồ hôi
Mà sao thơ chẵng mặn mòi bao nhiêu
Cứ như nước ốc ao bèo
Thơ tôi ngại nói cái điều mẹ mong
Nhớ về cuộc đời đầy vất vả cay cực của bà ngoại, Nguyễn Duy ân hận:
Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn là một nấm cỏ khô
( Đò lèn – Nguyễn
Duy)
Hay bài Ánh trăng của Nguyễn Duy. Ông thuộc thế hệ nhà thơ quân đội,
trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thế hệ này trải qua bao thử thách
gian khổ, từng chứng kiến bao hy sinh lớn lao của nhân dân, của đồng đội trong

chiến tranh. Nhưng khi ra khỏi thời bom đạn, nước nhà thống nhất, được sống
trong hòa bình giữa những tiện nghi hiện đại, không phải ai cũng nhớ những gian
nan, những kỉ niệm của nghĩa tình đã qua. Bài thơ Ánh trăng là lời tự thú, là sự tự
vấn lương tâm của nhà thơ, đây còn là lời nhắc nhở, lời cảnh tỉnh không chỉ đối với
nhà thơ mà còn là đối với tất cả mọi người về thái độ, cách đối xử của mình với
quá khứ, với đất nước, dân tộc.

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 11


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Lúc này, cảm hứng hào hùng và bi tráng khi nói về đất nước, nhân dân, về
thế hệ trẻ trong chiến tranh đã trở nên lạc lỏng, xa lạ, nhường chỗ dần cho những
cảm xúc đượm nỗi buồn, nỗi xót xa hay hoài nghi. Thơ nói nhiều đến nỗi buồn buồn nhân thế - buồn thân thế và cả nỗi buồn trước sự bất lực của thơ ca và vị thế
mới của nó. Nói như Chế Lan Viên:
Giờ là lúc xe cúp, tivi,phim màu ngũ sắc
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng
Tuy đã có không ít nhà thơ tỏ ra chới với, không bắt kịp được với bước
chuyển cuộc sống, không tìm được giọng điệu phù hợp với thời đại nhưng cũng
không ít nhà thơ bằng mẫn cảm nghệ sĩ đã tìm được những hướng đi mới, giọng
điệu mới.
Đến giai đoạn vào cuối những năm 80 cho đến nay khi đất nước trong công
cuộc đổi mới toàn diện cũng là sự trở lại dần dần của cái tôi riêng và cũng bắt đầu
bằng yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật,nói rõ sự thật của đại
hội VI Đảng cộng sản Việt Nam. Từ sự thực hiện phương châm đó mà làm chuyển
động cả một giai đoạn mới của văn học, của thơ ca. Khơi sâu vào cái tôi riêng,chú
trọng vai trò của các chủ thể sáng tạo, hướng về sự thật, tôn trọng sự thật và biểu
hiện của sự thật trong mọi dạng vẻ, mọi tần tiềm ẩn của nó, chủ đề thế sự xuất hiện

nhiều trong thơ, khát vọng dân chủ, ý thức tôn trọng sự thật, không ngại chậm đến
những vấn đề cốt lõi của thực tại.Cái nhìn của các nhà thơ trở nên hiện thực, gai
góc hơn so với cái nhìn thuần nhất, lý tưởng với phong cách ngợi ca quen thuộc
trước đây:
Có một thời ta mê hát đồng ca
Chân thành và say đắm
(Nguyễn Duy)
Cái thời sẵn lòng tin và dễ đồng lòng
Cái thời dễ nghe, hay khen,
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 12


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Cái thời quen nghĩ theo một chiều xuôi như nước chảy
(Phùng Khắc Bắc)
Hay xưa tôi hát mà bây giờ tôi tập nói
Chỉ nói thôi mới nói hết được đời
(Chế Lan Viên).
Thơ đụng đến những vấn đề đời thường, thấm thía hơn nỗi buồn sau chiến
tranh, nhà thơ tỏ ra nhạy cảm trước những biến động của cái thường nhật, hàng
ngày:
Đêm ngủ chỉ toàn lo vật giá
Xa dần truyện ngắn bớt vần thơ
(Chế Lan Viên)
Câu thơ thật đổi lấy đồng tiền giả
Vã mồ hôi nước mắt thắt lòng
(Nguyễn Duy)
Trong thơ hiện ra số phận đồng loại, người thân và thực trạng xã hội với các

thông tin nhức buốt về những tiêu cực, khiếm khuyết và băng giá của môi trường,
hoàn cảnh và nhân cách: Mười năm bấm đốt ngón tay,Đánh thức tiềm lực,Bán
vàng,Về làng (Nguyễn Duy); Ông lão bơm xe, Trên điểm tựa, Ngày hòa bình đầu
tiên (Phùng Khắc Bắc); Đưa bé thả diều trên cánh đồng và vắt cơm cúng mả mới
( Trần Vàng Sao); Bên đường I (Vân Long); Mười hai câu (Hữu Thỉnh); Những
người mất tích, Ngôi nhà của mẹ (Hoàng Đình Quang); Những ví dụ ( Nguyễn
Quang Thiều), Nghịch lý ( Nguyễn Thị Hồng Ngát); Chuyện không biết kể( Trịnh
Bích Ba); Chợt nghe( Bế Kiến Quốc); Chiều tháng năm( Đỗ Trung Quân); Mẹ tôi
hay lo, Bố tôi( Đỗ Minh Tuấn); Mẹ ơi ( Trần Quốc Thực); Bài thơ không định viết,
Trên sân bay quốc tế ( Trần Nhuận Minh)…có thể nói lương tâm và trách nhiệm

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 13


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
công dân của chủ thể trữ tình được xác định trên những cảm hứng thời thế,nhân
thế:
Đã đi với nhân dân
Thì thơ không thể khác
(Phùng Quán)
đã hướng tới một đạo đức xã hội, một nghĩa vụ đối với đồng loại thông qua những
chiêm nghiệm, suy ngẫm về nhân sinh trước bao va đập,tai biến của cuộc đời….Đó
chính là nguyên cớ sâu sa đưa đến những đổi mới của thơ ca, trong mặt được cơ
bản của nó, và trong cả những mặt yếu và những tồn tại phức tạp của nó.
Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại
làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn
nghệ, trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc
mắc, nhiều sự thật đau lòng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng được giải

phóng triệt để hơn. Không thể phủ nhận một thực tế là cơ chế kinh tế thị trường đã
làm cho cuộc sống khởi sắc hơn, nhưng mặt khác, con người dường như sống với
nhau lạnh lùng hơn, mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội lỏng lẻo hơn. Bối
cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến các nhà thơ
không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với những thay
đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã thúc đẩy tinh thần dân chủ và sự
phát triển mạnh mẽ ý thức cá nhân trong văn học. Thơ ở thời kì này thể hiện khát
vọng đào sâu vào bản ngã, vào bên trong con người, đặc biệt là thế giới tâm linh,
những vùng mờ của tiềm thức, vô thức. Nhiều xu hướng thơ được nảy nở, nhiều
thể nghiệm mạnh bạo được ra mắt công chúng. Quan niệm thơ có nhiều biến đổi và
ý thức cách tân thơ ngày càng mạnh mẽ. Khởi động cho những cách tân này lại là
một số nhà thơ ở thế hệ trước 1975. Sự xuất hiện một số tập thơ (mà nhiều bài
trong đó được viết trước 1975) của Hoàng Cầm như Về Kinh Bắc, Mưa Thuận
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 14


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
Thành, Lê Đạt với Bóng chữ, Trần Dần với Cổng tỉnh, Mùa sạc rồi Dương Tường,
Đặng Đình Hưng, Hoàng Hưng…đã đem lại nhiều cái mới từ quan niệm đến sự thể
nghiệm trên văn bản những xu hướng hện đại trong thơ, từ bóng dáng siêu thực
đến thứ “thợ vụt hiện”, thơ như trò chơi của ngôn từ… Như nhóm Sáng Tạo trong
miền Nam chủ trương đoạn tuyệt với thơ mới, thanh toán với các thế hệ nhà thơ
trước, thực hiện “sự xáo trộn ngôn ngữ”, mà trường phái siêu thực phương Tây đã
thực hiện giữa những thập niên cuối của thế kỷ, người đọc bỗng sững sờ trước
những câu thơ Di Cảo trữ tình mà Chế Lan Viên đau đáu muốn tìm một con đường
để thơ có thể đi giữa ý và nhạc, khai thác sự trăn trở siêu hình vào cấu tứ. Lê Đạt
vẫn kiên trì khắc phục tính đơn tuyến, tính đơn nghĩa và tính mục đích rõ ràng

trong thơ. Nhà thơ muốn thể hiện một ngôn từ thoát ra khỏi nghĩa tiêu dùng, nghĩa
tự vị…và tìm ở bóng chữ âm lượng độ vang vọng và sức gợi cảm…cũng không ít
nhà thơ hiên nay có xu hướng muốn tuyệt đối ranh giới giữa thơ và văn xuôi,tìm
tòi thơ ca theo hướng gợi và cảm thuần túy.
Dễ hiểu vì sao một số tập thơ đã gây nên hiện tượng dị ứng ngôn ngữ,có
người phản đối Nguyễn Quốc Chánh về lối dùng ngôn ngữ phúng dụ, tạo ra những
biểu tượng hai mặt trong tập Đêm mặt trời mọc. Có người diễu cợt thứ ngôn ngữ
ấn tượng mà Hoàng Hưng tìm kiếm đưa vào tập Người đi tìm mặt. Và có người dè
bỉu thứ ngôn ngữ tượng trưng trong Bóng chữ của Lê Đạt, như đứa con lai căng,
vong bản. Cũng nên xem đó là những hiện tượng văn học lành mạnh và bình
thường cần có. Hướng sáng tác này lúc đầu ít nhiều gây được sự chú ý của người
đọc,song chưa có dấu hiệu phát triển được độc giả.
Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực trữ tình cũng nảy sinh một xu hướng
lấy tính giải trí làm cảm hứng, một kiểu giải phóng cá nhân đối với sáng tác thi ca.
Đó là việc gia tăng sử dụng các chất liệu trào lộng, hài hước, ngụ ngôn, ẩn
dụ trong thơ trữ tình. Thơ Bùi Chí Vinh là thí dụ tiêu biểu cho sự gia tăng chất liệu
và ngôn ngữ trào phúng hài hước. Dù cũng là hình thức thể loại trữ tình, song lâu
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 15


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
nay ở Việt Nam nó không được hưởng sự bình đẳng, ưu ái với các thể thơ trữ tình
khác. Nó được coi như một thể loạichống tiêu cực,ít chất thơ,ít chất sửu thi. Hay
sau Những người đi tới biển và Những ngọn sóng mặt trời, Thanh Thảo đã lấy chất
liệu thuần túy đời thường để xây dựng trường ca Khối vuông ru-bích. Nhà thơ mô
phỏng sự biến hóa của khối ru-bích, làm cho cấu trúc tác phẩm biến đổi và không
định hình .Phùng Quán viết Trường ca trái cà với cảm hứng đối thoại. Trường ca
được chia làm năm chương, nhưng có chương chỉ vẻn vẹn hai dòng. Tính chất nhại

thể loại được toát lên từ sự so le giữa nội dung và hình thức.Việc đón đọc các
trường ca mới của Hữu Thỉnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Quang
Thiều, Lê Huy Quang,…sau giai đoạn cực thịnh của trường ca vào những năm
1975-1985, với người đọc đã không còn nguyên vẹn nữa.
Ở xu hướng này, các tác giả thường nhấn mạnh sự lộn trái mình để tự nhận
thức. Trong khi gây hứng thú tiêu khiển,tác giả thường coi nhẹ sự vươn tới cái
trang nhã, quá để tâm đến những sinh hoạt đời thường và quá cặn kẽ miêu tả cái
chân, nên dễ làm cho người đọc lầm tưởng nhà thơ đùa cợt với cái đẹp, cái cao cả.
Ở nửa đầu thập niên 90, những tìm tòi cách tân này đã tạo ra sự phản ứng rất
khác nhau trong sáng tác và công chúng, có cả những cuộc tranh luận gay gắt.
Nhưng dù thế nào cũng phải thấy được tác động tích cực của những xu hướng này:
nó đưa đến những quan niệm mới về thơ, cùng những khuynh hướng mới, kích
thích sự tìm tòi, thể nghiệm của nhiều nhà thơ, đặc biệt là thế hệ xuất hiện ở thời kì
đổi mới. Công cuộc đổi mới đã mở rộng cánh cửa giao lưu, hội nhập với thế giới,
và thơ ca, trước vận hội này, không thể nằm yên trong mô hình nghệ thuật cũ. Bắt
đầu xuất hiện những giọng thơ lạ, đậm chất “Tây”. Điều đó đã dẫn tới những cuộc
trạnh luận về “ta” và “tây” trong thơ kéo dài đến mấy năm và thơ của một số nhà
thơ khác như Lê Đạt, Dương Tường, Đặng Đình Hưng. Các cây bút này có ý thức
phá vỡ các chiều tuyến tính, tạo nên những dòng chảy đứt nối và gia tăng tính đồng
hiện của các hình ảnh thơ hoặc cố gắng tỉnh lược các mối quan hệ bề nổi, đặt
Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 16


Sơ lượt tiến trình vận động của thơ sau 1975
những hiện tượng khác nhau bên cạnh nhau và buộc người đọc tự xác lập mối lên
hệ giữa chúng.
Nhìn chung, thơ những năm 90 của thể kỉ trước và tiếp tục cho đến
những năm gần đây ở đầu thế kỉ XXI đã có sự đa dạng đáng kể, với nhiều hướng

tìm tòi, đặc biệt là có sự xuất hiện của một đội ngũ khá đông đảo các cây bút trẻ,
đem đến những tiếng nói mới trong thơ.

KẾT LUẬN
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, thơ sau 1975 đã vận động một cách
mạnh mẽ theo hướng hiện đại hóa. Tất nhiên, trong quá trình tìm tòi, đã xuất hiện
không ít trường hợp rơi vào cực đoan, tuy chưa tạo được những đỉnh cao nghệ
thuật như ta vẫn trông đợi, song với sự thay đổi về tư duy nghệ thuật, sự nhận thức
toàn diện hơn về bản chất thơ ca và cấu trúc thể loại, thơ Việt đã thực hiện một
cuộc tạo đà mạnh mẽ cho những kết tinh nghệ thuật trong chặng đường sắp tới.

Nhóm 1 – Lớp Cao học Văn học Việt Nam K17

Trang 17



×