Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh tăng cường khả năng ghi nhớ kiến thức và hứng thú hơn trong quá trình học môn sinh học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.89 KB, 24 trang )

I. Phần mở đầu
I.1 Lý do chọn đề tài
Thế kỷ XXI là thế kỷ của sự phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Yêu
cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước và những thách thức
bị tụt hậu trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi các nhà trường phải đào
tạo nên những con người lao động mới thông minh, sáng tạo. Là người thầy ai củng
muốn mình được mọi người tôn vinh, kính trọng; ai củng muốn mình là niềm tin là
chỗ dựa vững chắc cho học sinh của mình; ai củng muốn học sinh của mình đạt kết
quả cao, vận dụng tốt kiến thức bộ môn mình giảng dạy vào thực tiễn cuộc sống.
Để đạt được mục tiêu đó, hiện nay việc đổi mới chương trình và phương pháp dạy
học ở các trường phổ thông đã và đang được quan tâm rất lớn.
Tuy nhiên, đối với các môn khoa học tự nhiên nói chung và môn sinh học nói
riêng thì kiến thức, nội dung môn học thường khô khan, nên dễ gây nhàm chán và
học sinh rất khó tiếp thu và ghi nhớ kiến thức. Do đó mỗi tiết học, mỗi kiểu bài lên
lớp đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng và kết hợp nhiều phương pháp khác nhau
phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của bài dạy, làm sao phát huy được tính tích cực,
sáng tạo của học sinh.
Hiện nay, vấn đề dạy học môn sinh học ở trường trung học cơ sở là một vấn đề
có ý nghĩa và tầm quan trọng lớn đối với nghề nghiệp và tương lai của mỗi học sinh
và toàn xã hội. Trong chương trình sinh học trung học cơ sở thì môn sinh học 8
(môn cơ thể người và vệ sinh) là môn học rất cần thiết và bổ ích cho các em học
sinh. Vì môn học này sẽ cung cấp cho học sinh những hiểu biết khoa học về đặc
điểm cấu tạo và mọi hoạt động sống của con người. Trên cơ sở đó, đề ra các biện
pháp vệ sinh, rèn luyện thân thể, bảo vệ và tăng cường sức khoẻ, nâng cao năng
suất, hiệu quả trong học tập, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo những con người
lao động linh hoạt, năng động, sáng tạo đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội
1


của đất nước. Trong chương trình sinh học 8 con người là đối tượng nghiên cứu,
một đối tượng gần gũi với học sinh, là bản thân các em, là bạn bè xung quanh nên


các em có những hiểu biết thực tế liên quan đến đời sống và hoạt động hằng ngày
của mình. Từ những nhiệm vụ trên, chúng ta thấy rằng môn sinh học 8 là một đặc
biệt quan trọng, tuy nhiên, nội dung kiến thức của môn học dài và nặng, đôi khi còn
trừu tượng nên dẫn đến hiện tượng học sinh học vẹt (học thuộc nhưng không nắm
rõ bản chất) hoặc nhớ nhưng không kỹ, không sâu dẫn đến việc nắm và vận dụng
kiến thức vào thực tiễn chưa đạt kết quả cao. Bên cạnh đó là phương pháp giảng
dạy học và tổ chức của giáo viên chưa phù hợp, sự thiếu quan tâm của gia đình đã
dẫn đến hiện tượng học sinh lười học điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến công
tác giáo dục của nhà trường và ngành giáo dục.
Chính vì vậy qua nhiều năm công tác, trực tiếp giảng dạy môn sinh 8 ở trường
trung học cơ sở ......– Huyện ......– Tỉnh ...... với mong muốn giúp học sinh khắc
phục được những hiện tượng trên tôi mạnh dạn đưa ra “Một số giải pháp giúp học
sinh tăng cường khả năng ghi nhớ kiến thức và hứng thú hơn trong quá trình
học môn sinh học 8” .
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
* Mục tiêu:
Giúp học sinh hứng thú hơn trong quá trình học môn sinh học 8, đồng thời ghi
nhớ kiến thức môn học lâu và sâu hơn, tránh hiện tượng học vẹt, học tủ.
* Nhiệm vụ:
Tìm hiểu thực trạng của vấn đề học tập của học sinh hiện nay nói chung và học
sinh học môn sinh học nói riêng, kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân,
các tài liệu tham khảo. Từ đó đưa ra các giải pháp khắc phục.
I.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh các lớp khối 8 trường trung học cơ sở ......– Huyện ......– Tỉnh .......

2


I.4 Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
Do thời gian và điều kiện không cho phép nên tôi chỉ tiến hành áp dụng, điều tra

và khảo sát đối với học sinh khối 8 nơi ngôi trường THCS ......mà tôi đang công tác,
trong thời gian nghiên cứu từ đầu học kì I năm học ......đến hết học kì I năm
học .......
I.5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra
- Phương pháp trao đổi, phỏng vấn
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu

3


II. Phần nội dung
II.1. Cơ sở lý luận
Như chúng ta đã biết mục tiêu tổng quát phát triển nhân lực Việt Nam thời kì
2011- 2020 là đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất
để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội, nâng trình độ
năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức các nước tiên tiến trong khu vực
trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới. Chính vì thế
trong năm học 2011- 2012 ngành giáo dục đã đưa ra 7 nhiệm vụ trọng tâm là: nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động giáo dục; tiếp tục đổi mới công tác quản lí
giáo dục; chăm lo đầu tư phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục;
phát triển mạng lưới trường, lớp học và tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục;
tiếp tục đổi mới công tác quản lí tài chính giáo dục; tích cực xây dựng tổ chức
Đảng đoàn thể và tiếp tục đổi mới công tác xã hội hoá giáo dục.
Toàn ngành giáo dục và đào tạo quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tiếp tục triển khai có hiệu quả, sáng tạo cuộc
vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chỉ thị 06CT/ TW ngày 07/ 11/ 2006 của Bộ chính trị gắn với đặc thù của ngành là thực hiện
cuộc vận động “ Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo”
và phong trào thi đua “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Thực
hiện nghiêm túc quy định về đạo đức nhà giáo. Tiếp tục quán triệt và thực hiện chỉ

thị số 33/ 2006/ CT- TTg của thủ tướng chính phủ về chống tiêu cực và bệnh thành
tích trong giáo dục thông qua cuộc vận động “ Hai không” của ngành. Tăng cường
các giải pháp để khắc phục hiện tượng học sinh ngồi nhầm lớp, giảm học sinh yếu
kém và học sinh bỏ học, tăng học sinh khá giỏi.

4


Ngày 13 tháng 4 năm 2007 Bộ chính trị đã ban hành chỉ thi số 11 CT/TW “ Về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khuyến học, khuyến tài, xây
dựng xã hội học tập”.
Việt Nam là một đất nước ngàn năm văn hiến. Dân tộc Việt Nam vốn có truyền
thống hiếu học lâu đời. Người Việt Nam lấy sự học làm điều căn bản để thực hiện
đạo lý làm người, "nhân bất học bất tri lý". Do đó trong suốt mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước, qua mọi giai đoạn thăng trầm của lịch sử, giáo dục luôn là một
lĩnh vực được coi trọng và đề cao.Từ ngày có Đảng, nhất là từ sau khi Cách mạng
Tháng Tám thành công, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự học, xem học tập là nhu cầu
của cuộc sống đã được thể hiện một cách nhất quán trong đường lối, chủ trương
của Đảng và Nhà nước. Ngay từ ngày đầu mới giành được độc lập, khi vận mệnh
nước nhà đang như ngàn cân treo sợi tóc, Đảng và Bác Hồ đã chủ trương cùng một
lúc chống giặc đói, chống giặc dốt và chống giặc ngoại xâm, xem chống giặc dốt
cũng quan trọng, cũng cấp bách như chống giặc đói để dân được ấm no và chống
giặc ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập nước nhà. Trong suốt cuộc đời hy sinh cho
đất nước, cho dân tộc, Bác Hồ chỉ có một ham muốn, "ham muốn tột bậc là nước
nhà được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Như vậy bác xem sự học là nhu cầu thiết
yếu như cơm ăn, áo mặc hàng ngày.
Từ năm 1996 đến nay, với 10 năm tồn tại và phát triển, đặc biệt là từ khi có chỉ
thị 50 CT/TW năm 1999 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp
uỷ Đảng đối với Hội Khuyến học Việt Nam, Hội đã có một bước phát triển đột phá.

Hội đã được tổ chức ở tất cả 64 tỉnh, thành, hơn 99% huyện, thị, quận, khoảng 97%
xã phường, thị trấn trong cả nước. Hội còn lan toả đến tận thôn làng, bản phum,
sóc... đến cơ quan, doanh nghiệp, trường học, đơn vị lực lượng vũ trang... với tổng
số hội viên trên 5 triệu người. Phong trào khuyến học, khuyến tài do Hội phát động
đã nhanh chóng bao trùm hầu như toàn xã hội, trở thành một phong trào quần
5


chúng sâu rộng, thấm nhuần và thể hiện sinh động tinh thần xã hội hóa giáo dục.
Nhiều mô hình khơi dậy tinh thần hiếu học trong nhân dân như "Gia đình hiếu
học", "Dòng họ khuyến học", "Cụm dân cư khuyến học" đã được xây dựng và phát
triển rộng rãi. Hiện nay đã có gần 4 triệu gia đình đăng ký trong số đó gần 1,5 triệu
gia đình được công nhận là "Gia đình hiếu học", trên 5 vạn dòng họ được công
nhận là "Dòng họ khuyến học".Thời gian qua chính các mô hình tổ chức này đã
góp phần tích cực và có hiệu quả thực hiện cuộc vận động "Nói không với tiêu cực
trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục" do Bộ GD&ĐT phát động, góp phần
làm giảm tình trạng lưu ban, bỏ học, góp phần chống các biểu hiện tiêu cực, tạo
môi trường giáo dục lành mạnh trong nhà trường. Đó là chưa nói đến việc Hội
thông qua Quỹ khuyến học cấp học bổng cho hàng chục vạn trẻ em nghèo được đến
trường, xây dựng một số trường dạy nghề cho trẻ em khuyết tật, giúp đỡ nhiều trẻ
em học giỏi phát triển tài năng, giúp đỡ nhiều thầy cô giáo dạy tốt nhưng gặp khó
khăn trong cuộc sống.
Trong bối cảnh hiện nay ngành giáo dục đang hướng tới việc đào tạo ra những
con người toàn diện, hiểu biết về nhiều mặt do đó việc khai thác mối liên hệ giữa
các bộ môn càng cần phải được phát huy. Cần nhắc lại rằng sinh học không chỉ liên
quan mật thiết với các bộ môn thuộc khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa... mà
còn gắn bó với các bộ môn thuộc khoa học xã hội như Văn, Giáo dục công
dân...Vấn đề đặt ra là chúng ta cần khai thác mối liên hệ đó như thế nào, đảm bảo
tính tích hợp trong quá trình dạy học ra làm sao để nâng cao hiệu quả của từng tiết
dạy. Tuy nhiên khi học càng cao thì khối lượng kiến thức các môn học càng nhiều

và học nhiều môn, do đó việc ghi nhớ và khắc sâu kiến thức của các em gặp rất
nhiều khó khăn. Nên đòi hỏi người giáo viên bên cạnh việc lựa chọn, phối hợp các
phương pháp dạy học để khơi dậy sự hứng thú học tập cho học sinh thì giáo viên
cần phải hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự suy nghĩ và tự tìm tòi để phát
huy tính sáng tạo của các em.
6


Để có được điều đó thì phảỉ cần đến vai trò quan trọng của người thầy. Thầy
phải là người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có lòng nhiệt tình, tâm
huyết với nghề nghiệp, bên cạnh đó thầy phải biết vận dụng phù hợp các phương
pháp dạy – học với từng kiểu bài, từng nội dung kiến thức để giúp học sinh vận
dụng tốt kiến thức lí thuyết vào thực hành và thực tiễn trong cuộc sống. Đó là cơ sở
lý luận mà tôi chọn vấn đề này.
II.2. Thực trạng
a. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi:
- Trường mới đạt chuẩn quốc gia vào tháng 12 năm 2011 nên luôn được sự quan
tâm chỉ đạo thường xuyên và sâu sát của Phòng Giáo Dục – Đào Tạo ......, của
Đảng uỷ, UBND xã Ea Tân, hội cha mẹ học sinh, sự giúp đỡ của Ban giám hiệu
nhà trường .
- Đa số phụ huynh học sinh luôn quan tâm động viên các em trong quá trình học
tập.
- Lãnh đạo nhà trường và tổ trưởng chuyên môn luôn quan tâm đến chất lượng
giáo dục, thường xuyên kiểm tra, dự giờ để rút kinh nghiệm cho giáo viên.
- Đội ngũ giáo viên của nhà trường có trình độ chuyên môn đạt từ chuẩn trở lên, có
tinh thần đoàn kết, trẻ, khoẻ và nhiệt tình trong công tác giảng dạy,
- Giáo viên luôn đầu tư vào việc làm đồ dùng dạy học để nâng cao chất lượng giáo
dục.
- Đa số học sinh có tinh thần hiếu học, chăm ngoan, có ý thức phấn đấu vươn lên

trong học tập, chịu khó tìm tòi, ham học hỏi.

7


* Khó khăn:
- Sinh học 8 là môn học rất khó trong chương trình sinh học bậc THCS nên việc
tiếp thu kiến thức của các em còn gặp nhiều hạn chế.
- Học sinh ở địa bàn rộng nên việc học tập, đi lại còn rất nhiều khó khăn.
- Một số phụ huynh ít quan tâm tới việc học tập của con em mình.
- Một bộ phận gia đình học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
- Học sinh dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao.
- Đa số giáo viên mới ra trường còn trẻ nên kinh nghiệm giảng dạy và công tác
kiêm nhiệm còn nhiều hạn chế.
- Việc sử dụng SGK, làm bài tập ở nhà của học sinh còn hạn chế.
- Trang thiết bị dạy học được cấp lâu nên nhiều đồ dùng không còn phù hợp với
việc đổi mới chương trình hiện nay.
- Một số thiết bị đã được trang bị nhưng chất lượng hạn chế, hiệu quả sử dụng
không cao.
b. Thành công – hạn chế
* Thành công:
- Số học sinh giỏi các môn văn hoá các cấp hàng năm nhiều, đứng thứ 2 toàn
huyện.
- Riêng môn sinh học hằng năm đều có học sinh giỏi huyện, năm học 2011 -2012
có học sinh giỏi tỉnh.
- Các giáo viên tham gia giảng dạy bộ môn sinh học đều đã đạt giáo viên dạy
giỏi cấp huyện, có một giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh.
* Hạn chế:
- Số học sinh đạt học sinh giỏi tỉnh môn sinh học còn hạn chế.
- Số giáo viên sinh học đạt giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh còn ít.


8


- Thời gian nghiên cứu đề tài còn hạn chế nên chỉ mới đánh giá được một bộ
phận học sinh.
c. Mặt mạnh – mặt yếu
* Mặt mạnh
- Hầu hết các giáo viên được đào tạo chính quy và chuyên sâu.
- Đa số học sinh có đạo đức tốt.
- Hồ sơ lưu trữ của nhà trường đầy đủ và được bảo quản cẩn thận.
- Được sự hợp tác nhiệt tình của đa số phụ huynh và học sinh trong quá trình
thực hiện đề tài.
* Mặt yếu:
- Một số học sinh có lực học yếu, lười học và chưa ngoan.
- Sự hợp tác của một bộ phận phụ huynh học sinh chưa được tốt.
d. Các nguyên nhân dẫn đến học sinh không hứng thú khi học và khó ghi nhớ
kiến thức.
- Do nội dung kiến thức của bài học dài và nặng, học sinh học nhiều môn.
- Giáo viên bộ môn tổ chức tiết học thiếu hấp dẫn chưa thu hút học sinh hoặc sử
dụng phương pháp giảng dạy chưa phù hợp .
e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
- Trường THCS ......nằm trên địa bàn xã Ea Tân là một xã vùng sâu, vùng xa của
huyện Krông Năng. Đồng bào dân tộc thiểu số chiếm tỉ lệ cao chiếm hơn 30% dân
số của xã, mặt khác đa số gia đình các em có điều kiện kinh còn khó khăn; nhà xa,
việc đi lại không thuận lợi cho nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc học của các
em.

9



- Nội dung chương trình bộ môn sinh học THCS nói chung và môn sinh học 8
nói riêng mặt dù đã được giảm tải tuy nhiên vẫn còn nhiều nội dung kiến thức khó
và dài bên cạnh đó đội ngũ giáo viên của nhà trường đa số mới ra trường nên kinh
nghiệm giảng dạy còn hạn chế, nên việc tổ chức cho học sinh lĩnh hội kiến thức của
môn học gặp không ít khó khăn.
- Ngày nay, khi xã hội ngày càng phát triển thì áp lực học tập cho các em học
sinh ngày càng lớn. Lượng kiến thức mà các em nhồi nhét vào trong một ngày quá
nhiều đã làm cho các em có thái độ có môn thì được coi trọng, có môn thì xem nhẹ
(nhất là các môn học bài) dẫn đến các em học đối phó, học vẹt, học tủ mà không
nắm rõ bản chất. Thậm chí còn không học bài cũ nếu thấy bài học của môn học đó
dài và khó.

10


II.3. Giải pháp, biện pháp
a. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Tìm hiểu nguyên nhân và thực trạng của vấn đề nghiên cứu từ đó đưa ra các
giải pháp giúp học sinh dễ ghi nhớ kiến thức và hứng thú hơn trong quá trình học
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
* Các giải pháp giúp học sinh dễ ghi nhớ kiến thức và hứng thú hơn trong quá
trình học:
Cách thứ nhất: Cô động kiến thức hoặc nội dung bài học thông qua câu ca dao,
tục ngữ hoặc thành ngữ.
Như chúng ta đã biết, khi học càng cao thì khối lượng kiến thức các môn học
càng nhiều và học nhiều môn, do đó việc ghi nhớ và khắc sâu kiến thức của các em
gặp rất nhiều khó khăn. Nên đòi hỏi người giáo viên bên cạnh việc lựa chọn, phối
hợp các phương pháp dạy học để khơi dậy sự hứng thú học tập cho học sinh thì
giáo viên cần phải hình thành cho học sinh thói quen tự học, tự suy nghĩ và tự tìm

tòi để phát huy tính sáng tạo của các em. Bên cạnh đó người giáo viên phải linh
hoạt trong việc lồng ghép kiến thức các môn học, tìm cách dạy mới để học sinh
nắm và ghi nhớ kiến thức bài học tốt hơn. Về mặt khoa học, giáo viên chúng ta ai
cũng biết rằng tất cả các môn học trong nhà trường ít nhiều đều liên quan với nhau,
cùng hỗ trợ nhau trong việc phát triển kiến thức, kĩ năng cho học sinh. Trong bối
cảnh hiện nay ngành giáo dục đang hướng tới việc đào tạo ra những con người toàn
diện, hiểu biết về nhiều mặt do đó việc khai thác mối liên hệ giữa các bộ môn càng
cần phải được phát huy. Cần nhắc lại rằng sinh học không chỉ liên quan mật thiết
với các bộ môn thuộc khoa học tự nhiên như Toán, Lý, Hóa... mà còn gắn bó với
các bộ môn thuộc khoa học xã hội như Văn, Giáo dục công dân...Vấn đề đặt ra là
chúng ta cần khai thác mối liên hệ đó như thế nào, đảm bảo tính tích hợp trong quá
trình dạy học ra làm sao để nâng cao hiệu quả của từng tiết dạy. Qua thực tế giảng
11


dạy ở đơn vị tôi thấy, nếu giáo viên biết kết hợp giữa kiến thức bộ môn với những
câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ thì bài học sẽ hay hơn, sinh động hơn rất nhiều. Lý
do giải thích cho vấn đề này đó là những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ...ngoài
việc ôn lại cho học sinh kiến thức văn học còn giúp học sinh giải thích những kinh
nghiệm mà cha ông ta đã đúc kết qua nhiều thế hệ trên cơ sở khoa học. Hơn thế nữa
đó lại là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống thường ngày của học sinh nên
dễ tạo được cảm xúc, hứng thú để học tập. Trong quá trình giảng dạy của mình tôi
đã sử dụng lồng ghép các câu ca dao- tục ngữ và thành ngữ thường được sử dụng
trong môn văn học đưa vào giảng dạy hoặc củng kiến thức môn sinh học và bước
đầu mang lại những hiệu quả nhất định. Cụ thể như trong môn sinh học 8 ở chương
V. là chương mà giáo viên có thể sử dụng rất nhiều câu ca dao tục ngữ và thành ngữ
để tăng sự hứng thú tiếp thu kiến thức của học sinh và thông qua việc nhớ câu ca
dao ,tục ngữ và thành ngữ đó học sinh có thể ghi nhớ kiến thức tốt hơn.
Ví dụ: Khi giảng mục I, bài 24- “Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa” (Sinh học 8)
Chúng ta có thể sử dụng câu thành ngữ “ Có thực mới vực được đạo” để đạt vấn

đề. Sau khi nêu câu thành ngữ này giáo viên có thể hỏi: Em hiểu như thế nào về câu
thành ngữ này? Vấn đề sinh học nào được đề cập ở đây? Chắc chắn học sinh có thể
dễ dàng trả lời được câu hỏi này, sau đó giáo viên chốt lại vấn đề và nhấn mạnh vai
trò của việc ăn uống đối với sự sống của con người. Hoặc để tổng kết nội dung bài
bài 25- “Tiêu hóa ở khoang miệng”(sinh học 8). Giáo viên có thể cho học sinh trả
lời câu hỏi: Hãy giải thích nghĩa đen về mặt sinh học của câu thành ngữ “ Nhai kĩ
no lâu, cày sâu tốt lúa”, sau đó hướng học sinh vào nội dung câu trả lời: khi ăn,
nhai càng kĩ thì hiệu suất tiêu hóa càng cao, cơ thể hấp thu nhiều chất dinh dưỡng
hơn nên no lâu hơn. Hoặc đối với bài 26- sinh học lớp 8- giáo viên có thể đưa câu
tục ngữ “ Của không ngon nhà đông con cũng hết” vào để giúp học sinh nắm bắt
vấn đề cần truyền tải một cách dễ dàng hơn. Giáo viên đặt câu hỏi: Về khía cạnh
sinh học câu trên cho chúng ta biết điều gì? Giáo viên có thể gợi ý: Nhà đông con
thì kinh tế gia đình và vấn đề đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng thường như thế nào?
12


Việc quây quần, sum họp thường có tác dụng gì trong vấn đề ăn uống? Thông qua
đó giáo viên hướng dẫn học sinh đi đến kết luận: gia đình đông con thường gặp khó
khăn trong việc đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho các thành viên nên thường có nhu
cầu bổ sung thêm thức ăn. Hơn thế việc sum họp, quây quần thường có tác dụng
kích thích việc lấy thức ăn của các thành viên. Hoặc câu tục ngữ “ Trời đánh tránh
bữa ăn” giáo viên có thể hỏi: Câu tục ngữ nhắc ta điều gì? Vì sao lại như vậy? Rõ
ràng đây là câu hỏi khó và giáo viên buộc phải hướng dẫn thêm: Câu này khuyên ta
nên giữ tinh thần sảng khoái, vui vẽ trong bữa ăn bởi chỉ có như vậy thì mới đảm
bảo sự ngon miệng, quá trình tiêu hóa mới diễn ra thuận lợi.
Hoặc để giáo dục học sinh có ý thức bảo vệ hệ tiêu hoá ở bài 30 sinh học 8 “ Vệ
sinh tiêu hoá” chúng ta có thể sử dụng các câu thành ngữ và tục ngữ sau: “Ăn có
chừng, dùng có mực” “ Cái răng cái tóc là vóc con người” “ Nhà sạch thì mát,
bát sạch ngon cơm” “ Ăn chín uống sôi”,..
Để thu hút sự chú ý và tập trung của học sinh thì sự dẫn dắt của giáo viên rất là

quan trọng. Vậy đối với bài 30 Vệ sinh tiêu hoá thì giáo viên có thể dẫn dắt như
sau: “Ăn có chừng, dùng có mực” Về mặt sinh học câu thành ngữ này có liên quan
đến vấn đề tiêu hóa mà bài 30- “Vệ sinh tiêu hóa” ( Sinh học 8) có đề cập đến.Khi
sử dụng câu thành ngữ này vào bài học giáo viên có thể đặt câu hỏi: Câu thành ngữ
trên muốn nói điều gì? Vấn đề sinh học nào được đưa ra ở đây? Học sinh có thể dễ
dàng dựa vào nội dung của chương nói về tiêu hóa để trả lời. Sau đó giáo viên có
thể chốt lại vấn đề: Sự hấp thụ chất dinh dưỡng của con người là có giới hạn và còn
phụ thuộc vào độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp...do đó việc ăn uống phải có điều độ,
không dè sẻn nhưng cũng không được xa hoa lảng phí. Hoặc khi dạy bài 30- “ Vệ
sinh tiêu hóa”(Sinh học 8) ở mục II “ Bảo vệ hệ tiêu hóa khỏi các tác nhân độc hại
và đảm bảo sự tiêu hóa có hiệu quả” , giáo viên có thể đưa câu thành ngữ “ Cái
răng cái tóc là vóc con người” vào và giải thích: Từ xa xưa ông cha ta đã nhận định
cái răng, cái tóc tạo nên vẽ đẹp của con người nhất là người phụ nữ. Vậy để có bộ
13


răng đẹp, khỏe thì chúng ta phải làm gì? Với câu hỏi này giáo viên sẽ dẫn dắt học
sinh đến các biện pháp vệ sinh răng miệng. Hoặc câu tục ngữ “ Nhà sạch thì mát,
bát sạch ngon cơm” . Đây là câu tục ngữ mà ta có thể đưa vào Bài 30- Sinh học 8.
Giáo viên dẫn dắt: Câu tục ngữ này muốn khuyên chúng ta điều gì? Sau đó hướng
dẫn học sinh đi đến kết luận: Nhà sạch tạo cảm giác mát mẽ, bát đũa sạch dễ tạo
cảm giác ngon miệng. Vì vậy rất cần thiết chúng ta phải chú ý đến việc chăm lo vệ
sinh nơi ăn chốn ở. Như vậy chỉ với câu tục ngữ chúng ta vừa giúp học sinh lĩnh
hội kiến thức bài học vừa giáo dục ý thức vệ sinh cho học sinh. Hoặc câu thành ngữ
“ Ăn chín uống sôi” Giáo viên đặt câu hỏi: “ Ăn chín uống sôi” có tác dụng gì? Học
sinh dễ dàng trả lời được rằng nó giúp hạn chế được tác hại của vi khuẩn, vi rút,
trứng giun sán xâm nhập và cơ thể và đây cũng là một trong những biện pháp vệ
sinh hệ tiêu hóa.
Đây chỉ là một số câu ca dao, tục ngữ và thành ngữ mà tôi đã sưu tầm để vận
dụng vào chương V. sinh học 8. Ngoài ra còn rất nhiều các câu ca dao, tục ngữ và

thành ngữ của Việt Nam có thể sử dụng lồng ghép vào quá trình giảng dạy môn
sinh học.
Qua quá trình thử nghiệm tôi nhận thấy rằng trong các bài dạy nếu có sử dụng
ca dao, tục ngữ, thành ngữ thì bài dạy trở nên sinh động hơn rất nhiều, tạo nên hứng
thú cho học sinh trong giờ học, đồng thời học sinh nhớ kiến thức được lâu hơn.
Cách thứ hai: Giúp học sinh ghi nhớ kiến thức bằng cách dạy học bằng sơ đồ hóa.
Vậy sơ đồ hóa là gì? Sơ đồ hoá là viết lại nội dung bài học, nội dung của một
chương… bằng các mũi tên, sơ đồ cành cây (khi giảng dạy bình thường) hoặc sử
dụng mảnh ghép (khi dạy giáo án điện tử). Chúng ta có thể sử dụng sơ đồ hóa để
vào bài, dạy các bài ôn tập, tổng kết chương trình hoặc trong các tiết học hằng ngày
sẽ giúp học sinh phát triển trí tuệ, rèn luyện trí nhớ tạo điều kiện cho học sinh học
tập sáng tạo tích cực. Đây là phương pháp dạy học khắc phục hiện tượng học vẹt
của học sinh, tuy nhiên vẫn chưa được áp dụng rộng rãi.
14


Trong quá trình giảng dạy môn sinh học 8 tôi đã thử nghiệm phương pháp này
đối với các bài : 2,3,4,6,7,8,9,11,13,14,15,16,20,21,22,24,25,27,28,30,…. Tiêu hoá
và các cơ quan tiêu hoá. Tôi nhận thấy rằng học sinh học hào hứng hơn, chủ động
hơn trong việc khai thác thông tin sách giáo khoa, có sự sáng tạo hơn trong cách
trình bày. Qua phương pháp này học sinh sẽ ít ghi bài hơn, và nắm được nội dung
chính của bài nhiều hơn. Từ những ý chính học sinh sẽ dễ diễn giải, phân tích ra
những ý phụ từ đó khắc phục được hiện tượng học vẹt của học sinh. Ví dụ như khi
giảng mục II ở bài 24 sinh 8. Giáo viên có thể tiến hành như sau: Yêu cầu học sinh
nghiên cứu thông tin và quan sát hình 24.3 sgk và cho biết các cơ quan của hệ tiêu
hóa. Sau khi học sinh trả lời giáo viên có thể hệ thống lại bằng sơ đồ hóa và hoàn
thiện kiến thức như sau:
Khoang miệng
Họng (hầu)
Hệ tiêu hóa


Ống tiêu hóa

Thực quản
Dạ dày
Ruột non
Ruột già
Hậu môn

Các tuyến tiêu hóa

Tuyến nước bọt
Tuyến vị
Tuyến gan
Tuyến mật
Tuyến ruột

Sau khi dẫn dắt học sinh hoàn thành sơ đồ giáo viên có thể gọi 1 đến 2 học sinh
nhìn vào sơ đồ và trình bày lại nội dung kiến thức vừa học, thì chắc chắn học sinh
15


sẽ trình bày lại được. Hoặc để phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh giáo
viên có thể định hướng cho học sinh từ đó các em có thể vẽ được sơ đồ nội dung
kiến thức, hứng thú hơn khi học và nhớ nội dung kiến thức lâu hơn. Ví dụ khi giảng
mục I bài 30. Vệ sinh tiêu hóa sinh học 8, vì nội dung kiến thức trong mục này
nhiều nên giáo viên có thể hướng dẫn học sinh nghiên cứu thông tin, thảo luận
nhóm và tìm ra những ý chính của mục và lập thành sơ đồ hóa. Từ đó có thể biết
được những tác nhân chính gây hại cho hệ tiêu hóa. Giáo viên gọi đại diện 1 nhóm
lên bảng viết lại sơ đồ. Giáo viên tổ chức điều khiển lớp nhận xét, bổ sung và hoàn

thiện nội dung kiến thức của mục I như sau:
Các vi sinh vật gây bệnh
Các tác nhân có hại
cho hệ tiêu hóa

Các chất độc hại trong thức ăn, đồ uống
Ăn uống không đúng cách
Khẩu phần ăn không hợp lí

Trên đây là 2 ví dụ về sử dụng phương pháp sơ đồ hóa trong quá trình giảng
dạy môn sinh học 8. Ngoài ra phương pháp này có thể được sử dụng hiệu quả trong
quá trình ôn tập 1 bài học, một chương, ... và giúp ích rất nhiều cho học sinh trong
quá trình học bài, ghi nhớ thông tin và lĩnh hội tri thức mới. Tuy nhiên, khi sử dụng
phương pháp này cần phải chú ý một số vấn đề sau: Cần phải lập sơ đồ có hệ thống
và khoa học, sắp xếp các ý lần lượt thứ tự từ ngoài vào trong (hoặc từ trong ra
ngoài), từ trên xuống dưới (hoặc từ dưới lên trên), từ các ý chính đến các ý
phụ,..Thì phương pháp dạy học sẽ mang lại kết quả cao hơn.
Đối với phương pháp này không chỉ áp dụng cho sinh học 8 mà có thể áp dụng
cho tất cả các khối khác củng như các môn học khác, giúp khắc phục hiện tượng
học vẹt của học sinh và tạo không khí lớp học sôi nổi hơn và giúp các em ghi nhớ
kiến thức bài học lâu và sâu hơn.

16


Cách thứ ba: Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin kết hợp với sử dụng mô
hình và mẫu vật sống trong quá trình giảng dạy để phát huy tính tích cực, sáng tạo
và hứng thú học tập cho học sinh.
Như chúng ta đã biết, sự tiếp nhận tri thức của co người là từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng; và mặc khác người ta củng thường hay nói “ trăm nghe

không bằng một thấy”. Điều này cho thấy rằng phương tiện dạy học đóng vai trò rất
quan trọng trong quá trình lĩnh hội tri thức của học sinh củng như giảng dạy của
giáo viên. Cho nên trong quá trình dạy sinh học 8 bên cạnh những bài có kiến thức
gần gũi, dễ lĩnh hội thì củng có một số bài có nội dung kiến thức khó và trừu tượng
như các bài : 4,16,17,18,21,45,48,56,...Nếu trong quá trình giảng dạy giáo viên chỉ
sử dụng mô hình không thôi thì học sinh rất khó hiểu và lĩnh hội kiến thức một
cách mơ hồ, mặc khác việc truyền đạt kiến thức của giáo viên cho học sinh sẽ gặp
rất nhiều khó khăn do kiến thức mới và trừu tượng. Do đó cần tăng cường áp dụng
công nghệ thông tin trong quá trình dạy học. Ví dụ ở bài 16 mục I sinh 8. Nếu giáo
viên yêu cầu học sinh quan sát hình 16.1 sgk để mô tả đường đi của vòng tuần hoàn
lớn và vòng tuần hoàn nhỏ thì học sinh sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên nếu
giáo viên áp dụng công nghệ thông tin đưa hình ảnh 16.1 sgk vào đồng thời thiết kế
các chiều mũi tên trong các vòng tuần hoàn có màu khác nhau hoặc tách riêng từng
vòng tuần hoàn thì học sinh dễ lĩnh hội và nắm bắt kiến thức tốt hơn. Mặc khác sẽ
giúp học sinh hứng thú hơn, phát biểu xây dựng bài nhiều hơn. Từ đó lớp học sẽ sôi
nổi hơn. Bên cạnh đó những tiết học cần sử dụng mẫu vật thật như bài 8,9,12,...thì
nhất thiết phải có để chứng minh những kiến thức mà thầy cô đưa ra là hoàn toàn
đúng và có cơ sở và học sinh sẽ nhớ kiến thức bài học lâu và sâu hơn.
Tuy nhiên cho học sinh hứng thú hơn trong quá trình học thì về phía người dạy,
việc cần thiết là giáo viên phải trao dồi chuyên môn nghiệp vụ, đầu tư cho chất
lượng các bài giảng trước khi đến lớp, căn cứ vào từng tiết học, từng bài học cụ thể
giáo viên có thể vận dụng các phương pháp khác nhau để thu hút sự tò mò, hiếu kì ,
kích thích sự hứng thú của người học. Hệ thống câu hỏi củng phải hết sức chú ý
17


không nên dễ quá hoặc khó quá , củng không nên quá ngắn hoặc quá dài, câu hỏi
củng nên theo kiểu gợi mở gắn liền với đời sống thực tiễn. Mặt khác trước mỗi giờ
dạy, bằng khả năng nghiệp vụ của mình giáo viên có thể tạo ra một bầu không khí
gần gũi, thân thiện, cởi mở cho người học để rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò

như kể một câu chuyện vui có tính giáo dục, một tình huống pháp luật, một mẫu
chuyện nho nhỏ về các nhà khoa học trong và ngoài nước, một vấn đề thời sự, kinh
tế, chính trị mới mẽ của đất nước liên quan đến môn học nhằm giảm bớt căng
thẳng, áp lực cho các em, khuyến khích các em chăm học, chăm phát biểu để “ mỗi
thầy cô giáo thực sự là một tấm gương về tự học và sáng tạo”
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
- Để thực hiện được những giải pháp, biện pháp trong quá trình thực hiện cần
có những điều kiện sau:
+ Được sự quan tâm của Ban lãnh đạo nhà trường, các tổ chức đoàn thể, tổ
chuyên môn, đồng nghiệp nơi cơ quan công tác.
+ Sự hợp tác nhiệt tình của học sinh khối 8 tại ngôi trường công tác.
+ Sự quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện của các bậc phụ huynh.
+ Các số liệu thống kê về kết quả học tập của học sinh được nhà trường lưu
giữ.
d. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Các giải pháp trong đề tài nghiên cứu có mối quan hệ mật thiết và tác động qua
lại lẫn nhau. Nếu giáo viên sử dụng phương pháp dạy học hợp lý, linh hoạt và sáng
tạo thì học sinh sẽ tiếp thu bài học tốt hơn, hứng thú hơn trong quá trình học, giảm
được áp lực do khối lượng kiến thức dài và nặng của môn học, đồng thời chất
lượng dạy và học ngày càng nâng cao. Và ngược lại nếu học sinh tiếp thu bài học
sôi nổi sẽ là động lực giúp giáo viên sáng tạo hơn trong quá trình giảng dạy của
mình. Các phương pháp được đưa ra ở trên đều hướng đến mục đích đó là giúp cho
người học hứng thú hơn trong quá trình học tập, nhớ kiến thức sâu và lâu hơn.
18


e. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Qua quá trình khảo nghiệm đối với học sinh khối 8 trường trung học cơ
sở ......tôi nhận thấy rằng sau khi áp dụng một số giải pháp trên thì số lượng học
sinh giơ tay phát biểu bài trong giờ học nhiều hơn, số lượng học sinh không học bài

cũ giảm, các bài kiểm tra bài viết và kiểm tra định kì số lượng học sinh đạt từ điểm
trung bình trở lên chiếm tỉ lệ rất cao.
Mặt dù, ca dao, tục ngữ và thành ngữ được sử dụng nhiều đối với các môn xã
hội. Tuy nhiên đối với các môn tự nhiên nói chung và môn sinh học nói riêng thì
được giáo viên vận dụng vào quá trình giảng dạy còn rất hạn chế, đôi khi là không
có. Do đó giáo viên cần phải sưu tầm nhiều hơn nữa các câu ca dao, tục ngữ và
thành ngữ để vận dụng vào quá trình dạy học để tạo sự hứng thú và giúp các em
hiểu bài nhanh hơn, ghi nhớ kiến thức tốt hơn trong quá trình học.
Đối với phương pháp sơ đồ hóa sau khi nắm quy cách lập sơ đồ các em có thể
vận dụng và việc ghi bài, học bài, thảo luận nhóm,..sẽ giúp các ghi nhớ bài nhanh
hơn, đầy đủ và chi tiết hơn từ đó sẽ tránh được hiện tượng học vẹt, học tủ và đồng
thời phát huy tính sáng tạo của học sinh. Đối với phương pháp này không chỉ áp
dụng cho môn sinh học mà có thể áp dụng được cho rất nhiều môn học khác.
Về việc tăng cường áp dụng công nghệ thông tin kết hợp với sử dụng mô hình
và mẫu vật sống trong quá trình giảng dạy phương pháp dạy học thì đem lại hiệu
quả rất to lớn, do đó cần được nhân rộng vấn đề này. Mặc dù phương pháp dạy học
đã được tất cả giáo viên trao dồi trong các trường đại học, cao đẳng. Tuy nhiên, để
áp dụng như thế nào vào quá trình dạy học cho đạt hiệu quả cao thì không phải ai
củng làm được. Do đó người giáo viên phải không ngừng học hỏi, trao dồi, tự học
và sáng tạo để có thể giúp người học lĩnh hội kiến thức mà mình muốn truyền đạt
một cách dễ dàng và thuận lợi nhất.

19


II.4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Để kiểm tra kết quả của vấn đề nghiên cứu ngay từ đầu năm học ...... tôi đã
tiến hành áp dụng các giải pháp này đối với học sinh khối 8 trường THCS ....... Tôi
nhận thấy: Trong các bài dạy nếu có sử dụng ca dao, tục ngữ, thành ngữ; sơ đồ hóa
củng như áp dụng công nghệ thông tin kết hợp sử dụng mô hình với mẫu vật sống

thì bài dạy trở nên sinh động hơn rất nhiều, tạo nên hứng thú cho học sinh trong giờ
học.
Ngoài ra, để kiểm tra việc nắm kiến thức của học sinh củng như thái độ của các
em đối với việc giáo viên sử dụng lồng ghép các câu ca dao tục ngữ và thành ngữ
trong quá trình giảng dạy môn sinh học, củng như sử dụng sơ đồ hóa và ứng dụng
công nghệ thông tin vào quá trình giảng dạy tôi đã tiến hành điều tra khảo sát đối
với các lớp áp dụng bằng các cách sau:
Thứ nhất thông qua các bài kiểm tra 15 phút, 1 tiết và kiểm tra học kì, sau đó
chấm điểm và thống kê kết quả. Đồng thời so sánh với kết quả của năm học 2011 –
2012 để kiểm tra hiệu quả của việc ứng dụng các phương pháp của mình.

Thứ hai thông qua gặp gỡ khảo sát thái độ học tập của học sinh sau khi kết thúc
tiết học hoặc trong giờ ra chơi bằng các câu hỏi như:
Các em có thích giáo viên sử dụng lồng ghép các câu ca dao tục ngữ và thành
ngữ trong quá trình giảng dạy môn sinh học không?
Các em có thích thầy cô dạy học môn sinh học bằng sơ đồ hóa không?
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình dạy học môn sinh học có
cần thiết hay không ?....

20


Thì tôi nhận thấy rằng đa số các em rất hào hứng và ủng hộ nhiệt tình việc giáo
viên sử dụng lồng ghép các câu ca dao tục ngữ , thành ngữ và lược đồ tư duy trong
quá trình học môn sinh học và cho rằng đây là vấn đề học sinh rất cần.
Thứ ba tôi đã sử dụng phiếu điều tra để khảo sát thái độ học tập của học sinh bằng
một số câu hỏi trắc nghiệm nhanh như:
Câu 1. Có nên sử dụng lồng ghép các câu ca dao tục ngữ và thành ngữ trong
quá trình dạy học môn sinh học không?:
a. Nên

b. Không nên
Câu 2. Việc sử dụng sơ đồ hóa để giảng dạy môn sinh học là cần thiết hay
không?
a. Cần thiết
b. Không cần thiết
Câu 3. Viêc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy bộ môn sinh học là:
a. Không cần thiết
b. Rất cần thiết
Qua thống kê kết quả phiếu điều tra tôi nhận thấy rằng hơn 99% số học sinh
tham gia khảo sát cho rằng việc sử dụng lồng ghép các câu ca dao tục ngữ và thành
ngữ củng như sử dụng sơ đồ hóa và ứng dụng công nghệ thông tin để giảng dạy
môn sinh học là nên và cần thiết.
Với tinh thần ham học hỏi, và luôn trao dồi kinh nghiệm, củng như áp dụng linh
hoặc các phương pháp dạy học, trong quá trình giảng dạy học của mình tôi đã đạt
được những kết quả cao trong các kì thi giáo viên dạy giỏi cấp trường và cấp
huyện. Cụ thể như năm học ….. đạt giải ba cấp trường, đạt giải nhì cấp huyện môn
sinh học; năm học ….. đạt giải nhì cấp trường và đạt giải nhất cấp huyện môn sinh
học; năm học ….. được công nhận giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh môn sinh học bậc
trung học cơ sở.

21


Trong những năm công tác tại trường THCS ......thông qua dự giờ của các đồng
chí tổ viên trong tổ nói riêng và các đồng chí thuộc tổ tự nhiên nói chung thì tôi
nhận thấy rằng việc sử dụng ca dao, tục ngữ và thành ngữ , củng như sử dụng sơ đồ
hóa và ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy còn rất hạn chế
do đó đã làm cho các tiết học rất là khô khan và việc nhớ, khắc sâu kiến thức của
học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Một số giáo viên mới ra trường kết hợp các
phương pháp dạy học chưa được tốt, hệ thống các câu hỏi để học sinh trả lời còn

dài và chưa logic, cách truyền thụ kiến thức còn đơn điệu dễ gây nhàm chán cho
học sinh.
Vì thế, tôi hy vọng rằng thông qua những câu ca dao, tục ngữ ,thành ngữ và cách
áp dụng cho từng bài trong quá trình giảng dạy bộ môn sinh học 8 bậc trung học cơ
sở mà tôi đưa ra thì các đồng chí, đồng nghiệp có thể tham khảo và áp dụng vào
quá trình giảng dạy bộ môn sinh học để cho tiết học và bài giảng trở nên sinh động
hơn, học sinh học hứng thú và khắc sâu kiến thức hơn. Đồng thời đối với phương
pháp sơ đồ hóa sau khi nắm quy cách lập sơ đồ các em có thể vận dụng và việc ghi
bài, học bài, thảo luận nhóm,..sẽ giúp các ghi nhớ bài nhanh hơn, đầy đủ và chi tiết
hơn từ đó sẽ tránh được hiện tượng học vẹt, học tủ và đồng thời phát huy tính sáng
tạo của học sinh.

III. Kết luận và kiến nghị
III.1. Kết luận
Qua quá trình thực hiện đề tài tôi mạnh dạn rút ra một số kết luận sau:
- Trong quá trình giảng dạy môn sinh học nói chung và sinh học 8 nói riêng giáo
viên cần phải kích thích, hướng các em đến với sự yêu thích môn sinh học để kết
quả học tập cao hơn.
22


- Việc đưa ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào bộ môn sinh học ngoài việc gây hứng
thú cho học sinh thì xét về mặt xã hội đây còn là biện pháp góp phần gìn giữ và
phát huy một di sản văn hóa mà ông cha ta để lại.
- Việc đưa phương pháp sơ đồ hóa vào giảng dạy môn sinh học là nên và cần thiết
vì nó giúp ích cho học sinh rất nhiều như ghi nhớ kiến thức tốt hơn, phát huy tính
sáng tạo và tránh được hiện tượng học vẹt, học tủ.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin kết hợp với sử dụng mô hình và mẫu vật sống
vào quá trình giảng dạy sinh học là rất cần thiết sẽ giúp cho học sinh lĩnh hội kiến
thức nhanh hơn, sâu và nhớ lâu hơn.

- Sự sinh động của bộ môn phụ thuộc rất nhiều đến sự linh động của giáo viên.
Nếu thực sự đầu tư và biết cách đầu tư cho từng tiết dạy học thì sinh học không
phải là bộ môn khô khan, nhàm chán như nhiều người vẫn nghĩ.
Trên đây là một vài vấn đề liên quan đến kinh nghiệm dạy học bộ môn mà
tôi mạnh dạn trình bày với mục đích không có gì hơn là được cùng quý thầy cô
cùng bạn bè, đồng nghiệp trao đổi, tìm giải pháp nâng cao chất lượng dạy học bộ
môn. Mặc dù đã rất cố gắng song do trình độ còn có phần hạn chế cũng như vốn
kinh nghiệm còn ít ỏi chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót cần được khắc
phục. Rất mong nhận được ý kiến phê bình của quý thầy cô để đề tài có sức thuyết
phục hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

III.2. Kiến nghị
- Để sử dụng lồng ghép ca dao, tục ngữ, thành ngữ củng như sử dụng sơ đồ hóa và
ứng dụng công nghệ thông tin vào các bài dạy đạt hiệu quả cao thì đối với giáo
viên giảng dạy môn sinh học cần chú ý một số điểm:

23


+ Việc lựa chọn các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ củng như sơ đồ hóa phải
phù hợp với nội dung từng bài học, từng chương, từng phần,... Tránh lạm dụng
để có thể dẫn tới sự lan man, không chủ đích.
+ Về cách sử dụng, giáo viên có thể lồng ghép vào nội dung của bài học hoặc có
thể sử dụng trong phần cũng cố bài học. tất nhiên nếu thời gian không đảm bảo
chúng ta có thể đưa vào phần hướng dẫn học sinh làm bài tập về nhà.
+ Không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ để kết hợp
các phương pháp một cách linh hoạt vào quá dạy học.
+ Cần quan tâm nhiều đến học sinh, thường xuyên trao dồi chuyên môn nghiệp
vụ, phương pháp, tổ chức tiết dạy hấp dẫn gây hứng thú cho học sinh.

- Đối với Ban giám hiệu nhà trường: Cần phải đầu tư mua sắm thêm nhiều đầu sách
tham khảo môn sinh học nói riêng và các môn học khác nói chung để các em được
đọc nhiều hơn. Củng như bổ sung thêm các thiết bị hỗ trợ dạy học hiện đại đáp ứng
với nhu cầu của xã hội hiện nay.
- Đối với giáo viên chủ nhiệm: Cần quan tâm nhiều đến học sinh, tìm hiểu hoàn
cảnh cụ thể của học sinh, từ đó có biện pháp thích hợp trong giáo dục học sinh.
- Đối với phụ huynh học sinh cần quan tâm đến việc học của các em, cần tạo điều
kiện về thời gian để các em học tốt hơn.
- Đối với học sinh cần phải chăm chỉ, siêng năng trong học tập, biết tìm tòi tự học,
tự rèn luyện để đạt được kết quả cao.

24



×