Tải bản đầy đủ (.doc) (160 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ nguyễn quang thiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1010.88 KB, 160 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

LÝ THỊ NHIÊN

CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NGUYỄN QUANG THIỀU

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015


Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi
trong quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên
cứu. Tôi xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Lý Thị Nhiên

ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Lời cảm ơn!



Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới:
- Các thầy cô giáo: khoa Ngữ văn, khoa Sau đại học – Trường Đại học sư
phạm Thái Nguyên, Viện văn học – Trường Đại học sư phạm Hà Nội. Đã giảng
dạy, động viên và khích lệ em trong quá trình học tập.
- Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, người luôn quan tâm và giúp đỡ để em
hoàn thành luận văn này.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Hoàng Điệp, người đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn em trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận
văn này.
Em xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên và đồng hành
cùng em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.

Thái Nguyên, ngày 15 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Lý Thị Nhiên

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

MỤC LỤC
Lời cam đoan ................................................................................................... i
Lời cảm ơn ....................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề.................................................................................................. 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................
5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................
5
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................
5
7. Cấu trúc luận văn .............................................................................................
6
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA
NGUYỄN QUANG THIỀU ............................................................. 7
1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình” ....................................................... 7
1.1.1. Cái tôi......................................................................................................... 7
1.1.2. Cái tôi trữ tình............................................................................................
9
1.2. Sự vận động cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam. .......................................
11
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian....................................................
11
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong văn học trung đại ...................................................
12
1.2.3.Cái tôi trữ tình trong thơ hiện đại .............................................................
13
1.3. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Quang Thiều ......
15
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


/>

1.3.1. Khái quát về cuộc đời nhà thơ Nguyễn Quang Thiều .............................
15
1.3.2. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác..............................................
16
1.3.3. Quan niệm sáng tác và tư duy đổi mới thơ của Nguyễn Quang Thiều. ..
17
1.3.3.1. Quan niệm sáng tác của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. ......................
17
1.3.3.2. Nguyễn Quang Thiều và những đổi mới trong cảm hứng sáng tác .....
20
Chương 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
NGUYỄN QUANG THIỀU .............................................................................. 27
2.1. Cái tôi của những nỗi niềm muôn thuở ......................................................
27

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

2.1.1. Cái tôi đa cảm .......................................................................................... 27
2.1.2. Cái tôi của những đối cực ........................................................................ 36
2.2. Cái tôi của sự sáng tạo ................................................................................ 40
2.2.1. Cái tôi của khát vọng kiếm tìm................................................................ 41
2.2.2. Cái tôi của những miền tâm linh châu thổ............................................... 45
Chương 3: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ
NGUYỄN QUANG THIỀU .............................................................................. 53

3.1. Thể thơ ........................................................................................................ 53
3.1.1. Thơ tự do ................................................................................................. 53
3.1.2. Thơ văn xuôi ............................................................................................ 58
3.2. Ngôn ngữ .................................................................................................... 61
3.2.1. Ngôn ngữ tự nhiên ...................................................................................
62
3.2.2. Ngôn ngữ siêu thực, lạ hóa ......................................................................
65
3.3. Biểu tượng .................................................................................................. 68
3.3.1. Cánh đồng và dòng sông quê hương ....................................................... 69
3.3.2. Bóng tối và ánh sáng ............................................................................... 72
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 77

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhà thơ tiên phong trên hành
trình cách tân thơ Việt. Việc hiểu và khám phá thơ Nguyễn Quang Thiều không
phải là điều đơn giản, tuy nhiên những sáng tác của ông vẫn luôn giữ một vị trí
đặc biệt trong lòng độc giả yêu thơ. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Quang Thiều
không chỉ thể hiện qua những nội dung mà nhà thơ phản ánh về cuộc sống mà
còn thể hiện qua những hình thức nghệ thuật (những hình ảnh biểu tượng,
ngôn ngữ thơ) tạo nên một phong cách nghệ thuật riêng.
Nguyễn Quang Thiều là một trong những nhà thơ có bản lĩnh và tài năng
sáng tạo nghệ thuật. Ông đã có không ít tác phẩm ghi dấu những bước thành

công trên văn đàn thi ca Việt Nam hiện đại sau năm 1975. Những tác phẩm
thơ của Nguyễn Quang Thiều vẫn là mảnh đất cần khám phá các tầng ý nghĩa
sâu xa nên đòi hỏi phải có niềm đam mê và sự nỗ lực lớn. Cái tôi trữ tình trong
thơ Nguyễn Quang Thiều có nhiều biểu hiện mới mẻ được ẩn dấu đằng sau
những lớp ngôn từ nghệ thuật. Trải qua chuyến hành trình dài gồm năm tập
thơ tiêu biểu, bắt đầu từ tập thơ Ngôi nhà tuổi 17 đến tập thơ Cây ánh sáng,
cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều cũng đã thực hiện chuyến một
hành trình đi tm những giá trị tinh thần chân chính. Chính vì vậy việc nghiên
cứu tm hiểu về“Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều”là
một việc cần thiết để làm cơ sở khoa học nhằm nhận diện, đánh giá những nét
đặc sắc, độc đáo của cái tôi trữ tình của nhà thơ. Đồng thời làm sáng tỏ hơn sự
đóng góp của nhà thơ đối với thi ca Việt Nam hiện đại qua những khắc họa rõ
nét, giáo dục sâu sắc.
Chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn
Quang Thiều”với mong muốn trau dồi thêm kiến thức về thơ hiện đại Việt
Nam sau 1975 nói chung và hiểu biết rõ hơn về thơ của Nguyễn Quang Thiều
nói riêng. Bên cạnh đó, đây sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích cho bạn yêu thơ và
giảng dạy văn thơ Nguyễn Quang Thiều.
2. Lịch sử vấn đề
Với sự xuất hiện của tập thơ Ngôi nhà tuổi 17 (1990) phong cách nghệ
1

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

thuật của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều cũng dần được định hình qua sự nỗ lực

2


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

nhằm tạo nên một thế giới nghệ thuật thơ độc đáo. Với những đóng góp
mới mẻ, cùng những cách tân nghệ thật độc đáo Nguyễn Quang Thiều đã trở
thành một “hiện tượng thơ”. Những cuộc tranh luận về hiện tượng thơ
Nguyễn Quang Thiều đã tạo thành hai xu hướng rõ rệt trên thi đàn và hình
thành nên nhóm bài viết khá khu biệt. Bên cạnh những đánh giá, phản ứng gay
gắt là hàng loạt những bài viết cổ vũ sự khám phá, tm tòi của nhà thơ. Năm
1992, tập thơ Sự mất ngủ của lửa ra đời đã gây làn sóng dư luận mạnh mẽ
về “Tài và tâm của người viết phê bình” [57]. Đã có không ít lời phê phán và
cho rằng đây là thứ thơ “ngoại nhập”. Nhà thơ Trần Mạnh Hảo cho rằng: “Thơ
Nguyễn Quang Thiều non kém về mặt nghệ thuật”, là thơ “lai căng”, thơ “dịch
sổi”, “Dịch tếng Việt sang tiếng ta”…[19, tr 82]. Tuy nhiên, đó chỉ là những
quan niệm phiến diện chứa đầy mâu thuẫn khi đánh giá về thơ Nguyễn
Quang Thiều. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình văn học dưới đây đã đánh giá
rất đúng về nhà
thơ:
Trần Vũ Khang khẳng định: “ Nguyễn Quang Thiều phải được xem như
là cái đỉnh bất ngờ nhô lên giữa những ngọn đồi (…) đây là giọng thơ lần mẽ
tới những cây bút thế hệ mới phía Bắc đến nỗi có thể vach một danh giới giữa
nhóm làm thơ theo Thiều với nhóm làm thơ khác Thiều” [26].
Trong bài viếtNgười đi qua cơn khát của sa mạc thơ, tác giả Nguyễn
Việt Chiến nhận xét: Nguyễn Quang Thiều là “nhà thơ đầu tên bằng những
lỗ lực vượt bậc và tài năng suất sắc của mình đã xác lập một giọng điệu mới
trong thơ Việt”, “thơ của anh như một bản giao hưởng của rất nhiều khái
niệm, cảm giác, ý tưởng và suy ngẫm cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ
lẫm. Nguyễn Quang Thiều đã âm thầm khắc họa bằng cảm xúc, bằng những
liên tưởng thơ để tm ra cách nói riêng bằng ngôn ngữ hình ảnh đặc thù mà chỉ

thơ mới có được”[4].
2

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Nhà thơ Nguyễn Quyến nhận xét về những nỗ lực sáng tạo của nhà
thơ
Nguyễn Quang Thiều: “Nguyễn Quang Thiều đã có một cuộc vượt biển thực sự

3

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

trong tâm hồn mình khi ông xuất bản tập thơ “Sự mất ngủ của lửa”. Không cần
nhắc lại chúng ta cũng biết sự đóng góp vô cùng lớn lao của tập thơ này đối
với các trào lưu thơ ca hiện đại từ hình thức, ngôn ngữ đến ý tưởng hiện diện
trong đó. Nhưng tôi khẳng định rằng sự đóng góp lớn lao nhất của tập thơ “Sự
mất ngủ của lửa” không chỉ đối với thơ ca hiện đại nói riêng mà nó còn tác
động nhiều đến mỹ cảm của người Việt hiện đại…”[46].
Thành công bước đầu của Nguyễn Quang Thiều đã tạo ra tếng vang
mạnh mẽ, sức ngân vang ấy lan tỏa bởi cảm xúc chân thành mà nhà thơ
gửi gắm qua những thể nghiệm ngôn từ đầy sáng tạo. Cùng thế hệ những nhà
thơ trưởng thành trong sáng tác sau năm 1975, nhà thơ Mai Văn Phấn
nhận định:“Nguyễn Quang Thiều đã hoàn thành sứ mệnh của thi sĩ tiên phong
trong thời đại thi ca còn dày đặc sương mù (…) Ông đã đem đến cho thơ
Việt một cấu trúc thơ mới lạ, những hình ảnh rời, xa nhau trong những

kết dính mờ nhạt, tnh thần phản tỉnh mãnh liệt làm đổ vỡ những trật tự
cũ, tường minh từng góc sâu tăm tối trong ký ức mỗi người, tạo những góc
nhìn tỉnh táo, sắc lạnh vào đời sống hiện thực.” [42].
Trong bài viết Về biểu tượng lửa trong thơ Nguyễn Quang
ThiềuĐặng Vũ Hoàng đã khái quát chung về những cách tân trong thơ Nguyễn
Quang Thiều: “Là người được đánh giá là gặt hái được nhiều thành công
trong thế hệ thơ thứ ba, Nguyễn Quang Thiều đầy nhiệt huyết trong việc tìm
tòi và cách tân thơ ca. Về mặt ngôn ngữ, không phải là những cách nhào nặn,
sắp xếp kỳ khôi và rối rắm các con chữ kiểu Lê Đạt, Dương Tường, sự cách
tân ngôn ngữ thơ của Nguyễn Quang Thiều là sử dụng thuần thục thể thơ văn
xuôi để diễn đạt tân kỳ những câu thơ không vần điệu. Về nội dung, đó là góc
nhìn cận cảnh những mặt trái của xã hội trong thời kỳ đô thị hóa, là sự khai
thác những hình ảnh thơ, những biểu tượng độc đáo, mới lạ: những người
đàn bà góa, những con vật, lửa…” [22].
4

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Nghĩ về một số “Phản trường ca” Diêu Lan Phương còn ghi nhận nỗ
lực sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều khi ông và những nhà thơ khác đã mang

5

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

tới cho thể loại trường ca sự đổi mới quí báu: “Nguyễn Quang Thiều là một

trong vài nhà thơ đương đại xuất sắc nhất. Thơ anh thể hiện một nội lực
dồi dào và đầy ám ảnh.Trong rất nhiều những thể nghiệm cách tân thì những
cách tân về thể loại trường ca là vô cùng ấn tượng” [59, Tr. 63].
Đỗ Minh Tuấn coi những nội dung mà nhà thơ Nguyễn Quang Thiều phản ánh
đã “Phát lộ tâm thức thời đại” [57].Qua những vần thơ mang đặc điểm thi pháp hiện
đại mới mẻ của Nguyễn Quang Thiều, nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Nguyễn
Quang Thiều đã phá bỏ lối đi quen, mở ra con đường mới chưa hề có” [60, Tr.171].
Mặc dù ủng hộ tinh thần đổi mới nhưng Trần Đăng Khoa và Đỗ Minh Tuấn chưa
khơi lên được mạch nguồn mỹ cảm mới mẻ, chưa nhất quán trong việc đánh giá đặc
trưng thơ Nguyễn Quang Thiều.

Có thể thấy, hầu như những bài viết này mới chỉ đưa ra những nhận định,
tm hiểu một cách khái quát về thơ Nguyễn Quang Thiều mà chưa đi sâu vào
việc phân tích những cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều một
cách hệ thống. Tuy nhiên, những đánh giá nhận xét của những người nghiên
cứu đi trước chính là con đường gợi mở vô cùng quý giá cho chúng tôi thực
hiện đề tài“Cái tôi trữ tnh trong thơ Nguyễn Quang Thiều”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Luận văn nghiên cứu những thành tựu trong sự nghiệp sáng
tác thơ ca của Nguyễn Quang Thiều. Đặc biệt, đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống và toàn diện cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang Thiều. Từ đó,
thấy
được giá trị của cái tôi trữ tnh, góp phần làm nên phong cách độc đáo trong
sự
nghiệp sáng tác của nhà
thơ.

6

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


/>

- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát quá trình sáng tác thơ của Nguyễn
Quang Thiều đã xuất bản đó là nghiên cứu tập thơ Châu thổ. Đây là tuyển tập
thơ gồm 6 tập thơ chính của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, gồm Ngôi nhà tuổi
17 (1990), Sự mất ngủ của lửa (1992), Những người đàn bà gánh nước sông
(1995), Nhịp điệu châu thổ mới(1997), Bài ca những con chim đêm (1999),

7

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Cây ánh sáng(2009). Bên cạnh đó còn tìm hiểu sáng tác ở các thể loại khác
của nhà thơ để hiểu rõ hơn hành trình sáng tạo của Nguyễn Quang Thiều.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu quan niệm và tư tưởng sáng tác của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều qua những phát ngôn, những bài viết, những tiểu luận… để hiểu được cái
tôi trữ tình mà tác giả thể hiện qua các tác phẩm thơ.
Qua những phân tích các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều giúp hiểu sâu sắc hơn nội dung để từ đó khái quát về cái tôi trữ tnh
trong thơ của ông. Đồng thời khẳng định được những đóng góp của nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều đối với nền thơ đương đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Phân tch, chứng minh, thẩm bình
để
thấy rõ cảm hứng chủ đạo làm nổi bật những nét độc đáo trong thơ Nguyễn
Quang

Thiều
- Phương pháp đối chiếu - so sánh: Đặt tác giả trong sự tương quan với
các nhà thơ khác để thấy rõ những yếu tố làm nên cái tôi trữ tình trong sáng
tác của Nguyễn Quang Thiều
- Phương pháp tểu sử: Nghiên cứu cái tôi trữ tnh tác giả làm nổi bật sự
độc đáo trong thế giới nghệ thuật thơ nên đòi hỏi phải có phương pháp tiếp
cận tác giả.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn chỉ ra sự khác biệt độc đáo cái tôi trữ tình của nhà thơ, là
tài liệu tham khảo hữu ích cho độc giả quan tâm, yêu thích thơ Nguyễn Quang
Thiều nói riêng và cho việc giảng dạy thơ Việt Nam hiện đại trong nhà trường
nói chung.
8

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được cấu tạo thành 3 chương:
Chương 1: Khái quát về cái tôi trữ tnh và sự nghiệp sáng tác của
Nguyễn Quang Thiều.
Chương 2: Sự thể hiện của cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Quang
Thiều.
Chương 3:Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn
Quang
Thiều.

9


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình”
1.1.1. Cái tôi
Cái tôi là một trong những khái niệm triết học cổ nhất đánh dấu ý thức
đẩu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình. Từ đó, con người nhận ra
mình là một cá thể độc lập.
Các nhà triết học duy tâm quan niệm về cái tôi như là phương diện trung
tâm của tâm hồn con người, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối
hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới:
Nhà triết học R. Đề các (1596 - 1650) quan niệm: “Tôi tư duy tức là tôi
tồn tại”. Ông cho rằng cái tôi thể hiện ra như một cái nhìn thuộc về thực
thể biết tư duy như càn nguyên của nhận thức duy lý, cái tôi mang tính độc lập.
Theo Kant (1724 - 1804), cái tôi bao gồm hai phương diện: Cái tôi với tư
cách chủ thể tư duy nhận thức thế giới và cái tôi với tư cách là khách thể của
chính nhận thức. Đồng thời ông cũng nhấn mạnh tuyệt đối khả năng nhận
thức của cái tôi: tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất
của nó mà trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi.
Hêghen (1770 – 1831) một mặt xem cái tôi như là sự tha hóa của “ý
thức tuyệt đối” một mặt nhấn mạnh vai trò to lớn của cái tôi.Cái tôi như là
trung tâm của sự tồn tại có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện
mình trong hiện
thực.
Becxong (1858 – 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi
nhấn mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, con người có hai cái

tôi: đó là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Trong đó, cái tôi bề mặt là các

10

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

quan hệ của con người đối với xã hội; còn cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm
của ý thức. Đó mới chính là đối tượng của nghệ thuật.

11

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

Đối lập với những quan điểm tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân, tách nó
ra khỏi các mối quan hệ hiện thực xã hội, triết học Mác – Lênin xác định giá
trị con người cá nhân từ bản thân con người với tư cách là chủ thể và khách
thể của các mối quan hệ xã hội. Theo chủ nghĩa Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa
như là một bộ mặt xã hội hóa, cá thể con người và cá nhân cùng tm thấy
mình trong xã hội. Lý tưởng về giải phóng cá nhân của triết học Mác là tự
do cho mỗi cá nhân trong tự do cho tất cả mọi người. Đồng thời vai trò của cái
tôi cũng được khẳng định: “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của
cá tính con người có quan hệ tích cực đối với thế giới và chính bản thân mình”.
Quan niệm về cái tôi trong triết học và khoa học nhân văn hoặc đóng vai
trò phạm trù, hoặc có mối liên hệ chi phối, quen thuộc với cái tôi trữ tình
trong thơ của các thời đại.
Trong văn học, người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và

cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, giúp con người
thể nghiệm ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi quan hệ có ý nghĩa muôn màu
muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh.Bởi vậy, tác phẩm văn học vừa
mang đậm tnh điển hình và mang đậm cá tnh tác giả khi vai trò của cá tnh
sáng tạo của “cái tôi” cá nhân được ý thức đầy đủ; đặc biệt là những tác phẩm
trữ tnh.
Nếu tác phẩm tự sự lấy bức tranh hiện thực mang đậm tnh khách
quan và điển hình làm đối tượng phản ánh thì tác phẩm trữ tnh lại chọn
bức tranh tâm trạng đậm tnh chủ quan và điển hình của chủ thể trữ tình làm
đối tượng thẩm mỹ của mình. Tác phẩm trữ tnh là sự thể hiện trực tiếp thế
giới chủ quan của con người: những cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ…làm sống
dậy trong chủ thể thế giới của hiện thực khách quan như một phương diện
năng động, sâu sắc, hấp dẫn của đời sống con người. Trong tác phẩm trữ tnh,
nội dung được thể hiện luôn gắn với hình tượng nhân vật trữ tnh. Tình cảm
12

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

riêng của nhân vật trữ tnh trong tác phẩm cụ thể luôn nồng cháy, trực tiếp và
mãnh liệt, vừa có ý nghĩa khái quát, điển hình và có khả năng tác động mạnh
mẽ. Tác phẩm trữ tình xuất hiện từ

13

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>


rất sớm trong lịch sử văn học nhưng chỉ thực sự là tác phẩm khi con người ý
thức về cá nhân, khi “cái tôi” cá nhân tự ý thức. Bởi vậy, “Cái tôi trữ tnh” là
nguồn gốc của thơ trữ tnh. Vậy “cái tôi trữ tnh” được hiểu như thế nào ?
1.1.2. Cái tôi trữ tình
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với
thế giới và con người thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ
tình, tạo ra một thế giới tnh thần độc đáo mang tnh thẩm mĩ nhằm truyền
đạt tinh thần đến người đọc.
Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố
hội tụ theo quy luật nghệ thuật bao gồm cả ba phương diện: bản chất chủ
quan cá nhân (đây là mối liên hệ giữa tác giả với cái tôi trữ tình thể hiện
trong tác phẩm); bản chất xã hội (là mối quan hệ của cái tôi trữ tình và cái ta
cộng đồng); bản chất thẩm mỹ (là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản). Cả
ba phương diện: Cá nhân, xã hội, thẩm mỹ đều nằm trong hình thức thể loại
trữ tnh.
Theo GS. Hà Minh Đức, “Thường thì cái tôi trữ tnh trong thơ dễ bộc lộ
trực tếp trong trường hợp viết về chính bản thân mình và trong những quan
hệ riêng tư. Với những loại đề tài này cái tôi trữ tnh trong thơ thường phổ
biến là cái tôi của tác giả.”, “Trường hợp thứ hai là cảnh ngộ, sự việc trong thơ
không phải là cảnh ngộ riêng của tác giả. Nhà thơ nói lên cảm nghĩ về những
sự kiện mà mình có dịp trải qua hoặc chứng kiến như một kỷ niệm, một quan
sát. (…) Cái tôi trữ tình là nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác.”, “Trường
hợp thứ ba là những bài thơ trữ tình viết về một loại nhân vật nào đó. (…) Đó
là nhân vật trữ tnh của sáng tác tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà
thơ.”[13,
tr.89].

14

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


/>

Cái tôi trữ tình là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình. Nếu
quan niệm một tác phẩm trữ tình là một hệ thống với các cấp độ, các yếu tố
thì có thể nói mọi thành tố cấu tạo nên bài thơ, từ các biện pháp tu từ cho đến
thể thơ, nhịp và vần điệu… đều nằm trong ảnh hưởng của một trung tâm quy
chiếu

15

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

là cái tôi trữ tình. Đó cũng là cơ sở để có thể nói đến các loại hình với tư cách
những đặc điểm hình thức têu biểu tương ứng với các kiểu cái tôi trữ tình.
Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân dung
tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra
những giá trị tinh thần mà còn là đối tượng miêu tả biểu hiện, chủ thể không
chỉ được xem như là một yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem
như là phương tiện bộc lộ nội dung của tác phẩm, là một thành tố của thế giới
nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo,
dấu ấn của chủ thể còn in đậm trong từng từ, từng hình ảnh, từng dòng thơ,
bài thơ.
Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tếp và thống nhất với cái tôi trữ
tình trong thơ. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi bao
quát trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động, tâm tình và kí ức
trong cuộc đời riêng cũng in đậm nét trong thơ. Cái tôi của nhà thơ có lúc
thể hiện trực tiếp qua những cảnh ngộ riêng, trực tếp giãi bày những nỗi niềm

thầm kín. Cái tôi của nhà thơ còn hiện diện qua các cách nhìn, cách nghĩ,
qua tnh cảm thái độ trước thế giới. Tuy nhiên cái tôi trữ tình trong thơ và cái
tôi của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm
trù xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ thuộc phạm trù nghệ thuật. Cái
tôi nhà thơ trong đời sống thực là sự hiện hữu của con người nhà thơ với dáng
vẻ, cử chỉ, điệu bộ và những mối quan hệ xã hội cụ thể. Cái tôi trữ tình là cái
tôi được nghệ thuật hóa theo quy luật sáng tạo nghệ thuật. Nó thể hiện tư
tưởng thẩm mỹ, quan niệm nhân sinh của nhà thơ về thế giới và nó có sự
thống nhất cao độ về tư
tưởng đối với chủ thể sáng tạo.
Cái tôi trữ tình được biểu hiện ở hai dạng: trực tiếp hoặc gián tếp thông
qua việc sử dụng những đại từ nhân xưng trong thơ. Cùng với sự tài tnh
16

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

của nhà thơ trong việc tổ chức hệ thống ngôn từ, hình ảnh, biện pháp tu từ…
Cái tôi trữ tình tạo nên giọng điệu riêng, góp phần thể hiện phong cách nghệ
thuật của các nhà thơ.

17

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

/>

1.2. Sự vận động cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam.
Lịch sử phát triển của thơ ca là lịch sử phát triển của cái tôi trữ tnh, là

sự thay đổi mô hình quan hệ giữa cái tôi trữ tình và đời sống.Trong thơ ca Việt
Nam, cái tôi ngay từ đầu đã được các nhà thơ quan tâm thể hiện nhưng
bối cảnh khác nhau nên quan niệm về cái tôi cũng vì thế mà thay đổi.Văn học
trung đại là văn học của những nhà nho nhằm thực hiện chức năng giáo huấn
những chuẩn mực đạo đức, lễ giáo phong kiến. Nó mang tính quy phạm và
tính “tôn sùng cổ nhân”, nó gò bó sự sáng tạo của cái tôi cá nhân. Cái tôi trữ
tình trong thơ trung đại chưa có điều kiện để bộc bạch những nỗi niềm riêng
của mình. Phải tới những năm đầu thế kỷ XX, cùng với sự thay đổi lớn lao về
môi trường xã hội – văn hóa thì cái tôi cá nhân mới có điều kiện để ca lên
những cung bậc cảm xúc của cõi lòng. Cái tôi cá nhân trong Thơ mới được
khẳng định, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên cả hai phương diện:
lịch sử và văn hóa. “Thơ mới khẳng định cái tôi như một bản lĩnh tích cực
trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu
tiên có một cái Tôi cá thể hóa trong cách cảm thụ thế giới và tâm hồn”[2,
tr.80]. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử thi ca Việt Nam có một thời đại mà
cái tôi cá nhân được cất cao tâm hồn trong “Cây đàn muôn điệu”, mở ra cuộc
cách tân trong văn học.
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian
Nói đến cái tôi trữ tình trong văn học dân gian là chủ yếu nói đến cái tôi
trữ tình trong ca dao, dân ca. Đó là cái tôi tm thấy tếng nói chung của tập
thể. Cái tôi ở đây không bộc lộ như một cá nhân riêng biệt, mà cơ thể chìm đi,
biểu hiên cái tôi xã hội, cái tôi của tập thể.Tác giả dân gian bắt nguồn cảm
hứng từ nhu cầu chia sẻ, giao hưởng và đồng vọng trong những cảnh ngộ
tương đồng. Nhân vật trữ tnh trong văn học dân gian chủ yếu là những người
lao động, là những người đang dãi nắng dầm mưa, là kẻ đang nhọc nhằn lên
đồng xuống truông. Không gian họ xuất hiện cũng gắn liền không gian lao động
sản xuất như: vườn chè, con đò, bến nước…
18

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


/>

×