Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN 2019 Thực trạng nợ công tại việt nam 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.39 KB, 18 trang )

Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

MỤC LỤC


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

PHẦN I: TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài chưa có điểm dừng, trong đó
có nguyên nhân quan trọng là một số nước EU đang thâm hụt ngân sách trầm
trọng. Cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu bùng nổ tiếp ngay sau khủng hoảng
tài chính toàn cầu xuất phát từ Mỹ (năm 2008) đã và đang gây tác động tiêu cực
cho nền kinh tế thế giới. Có thể nói Nợ công đang là vấn đề nóng bỏng không
chỉ ở các nước mà còn là vấn đề của Việt Nam. Đây là nguồn tài trợ hàng đầu
cho đầu tư phát triển của nền kinh tế thông qua ngân sách nhà nước (NSNN) và
là nguồn cung cấp vốn lớn đứng thứ hai của nền kinh tế với tỷ trọng 16 17%/tổng vốn đầu tư toàn xã hôi . Vì vậy, việc sử dụng nợ công hiệu quả sẽ thúc
đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội. Tuy nhiên, quy mô nợ công hiện nay đang
tiến gần ngưỡng kiểm soát do Quốc hôi đề ra và đặt ra thách thức trong việc
đảm bảo an toàn nợ công nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Với mục tiêu đánh giá thực trạng nợ công, vai trò của quản lý nợ công,
hiệu quả của quản lý công, tôi đã chọn đề tài “Thực trạng nợ công tại Việt
Nam giai đoạn 2011-2015” cho bài tiểu luận của mình.
Nội dụng đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở Khoa học
Chương 2: Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015
Chương 3: Giải pháp hạn chế nợ công, thúc đẩy kinh tế


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

PHẦN II: NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: NỢ CÔNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
1.1 Khái niệm
Nợ công là một khái niệm tương đối phức tạp, xung quanh khái niệm và
nội hàm của nợ công vẫn còn nhiều quan điểm chưa thống nhất. Theo Ngân
hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nợ công, theo nghĩa rộng, là
nghĩa vụ nợ của khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ của Chính phủ trung ương,
các cấp chính quyền địa phương, ngân hàng trung ương và các tổ chức độc lập
(nguồn vốn hoạt động do NSNN quyết định hay trên 50% vốn thuộc sở hữu nhà
nước và trong trường hợp vỡ nợ, nhà nước phải trả nợ thay). Theo nghĩa hẹp, nợ
công bao gồm nghĩa vụ nợ của Chính phủ trung ương, các cấp chính quyền địa
phương và nợ của các tổ chức độc lập được Chính phủ bảo lãnh thanh toán.
Hiện nay, tùy thuộc vào thể chế kinh tế - chính trị, quan niệm về nợ công
ở mỗi quốc gia cũng có sự khác biệt. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, nợ
công được hiểu bao gồm ba nhóm là: nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo
lãnh và nợ chính quyền địa phương. Trong đó:
- Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, ngoài
nước, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước hoặc các khoản vay khác do
Bộ Tài chính ký kết, phát hành, ủy quyền phát hành theo quy định của pháp luật.
Nợ Chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát
hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ;
- Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
- Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành.
Khái niệm về nợ công của Việt Nam được đánh giá là hẹp hơn so với
thông lệ quốc tế. Tại hầu hết các nước trên thế giới, Luật Quản lý nợ công đều
xác định: Nợ công gồm nợ của Chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh. Một


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia


số nước và vùng lãnh thổ, nợ công còn bao gồm cả nợ của chính quyền địa
phương (Đài Loan, Bungari, Rumani…), nợ của doanh nghiệp nhà nước phi lợi
nhuận (Thái Lan, Inđônêxia…).
Như vậy, một cách khái quát nhất, có thể hiểu “nợ công là tổng giá trị các
khoản tiền mà Chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm bù đắp cho các khoản thâm hụt ngân sách” và Chính phủ phải chịu trách
nhiệm trong việc chi trả khoản vay đó. Vì thế, nợ công nói cách khác là thâm hụt
ngân sách lũy kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ
Chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so
với GDP.
1.2. Phân loại nợ công
Có nhiều tiêu chí để phân loại nợ công, mỗi tiêu chí có một ý nghĩa khác
nhau trong việc quản lý và sử dụng nợ công. Tương ứng với mỗi loại nợ sẽ có
giải pháp quản lý bảo đảm quy mô nợ phù hợp, qua đó sẽ chủ động tăng hay
giảm nợ để tạo nguồn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Các tiêu chí để phân
loại nợ công hiện nay gồm:
1.2.1 Theo tiêu chí nguồn gốc địa lý của vốn vay:
Nợ công gồm có hai loại: Nợ trong nước và nợ nước ngoài. Nợ trong
nước là nợ mà bên cho vay là cá nhân, tổ chức trong nước. Nợ nước ngoài là nợ
công mà bên cho vay là Chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính
quốc tế, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Việc phân loại này giúp xác định chính
xác hơn tình hình cán cân thanh toán quốc tế. Việc quản lý nợ nước ngoài còn
nhằm đảm bảo an ninh tiền tệ, vì các khoản vay nước ngoài chủ yếu bằng ngoại
tệ tự do chuyển đổi hoặc các phương tiện thanh toán quốc tế khác.
1.2.2 Theo phương thức huy động vốn:
Nợ công có hai loại: Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp và Nợ công từ công
cụ nợ. Nợ công từ thỏa thuận trực tiếp là khoản nợ công xuất phát từ những thỏa
thuận vay trực tiếp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với cá nhân, tổ chức
cho vay. Phương thức huy động vốn này xuất phát từ những hợp đồng vay, hoặc



Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

ở tầm quốc gia là các hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước. Nợ công từ công
cụ nợ là khoản nợ công xuất phát từ việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phát
hành các công cụ nợ để vay vốn. Các công cụ nợ này có thời hạn ngắn hoặc dài,
thường có tính vô danh và khả năng chuyển nhượng trên thị trường tài chính.
1.2.3 Theo tính chất ưu đãi của khoản vay làm phát sinh nợ công:
Nợ công có ba loại: Nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi
và nợ thương mại thông thường.
1.2.4 Theo trách nhiệm đối với chủ nợ:
Nợ công được phân loại thành nợ công phải trả và nợ công bảo lãnh. Nợ
công phải trả là các khoản nợ mà chính phủ, chính quyền địa phương có nghĩa
vụ trả nợ. Nợ công bảo lãnh là khoản nợ mà Chính phủ có trách nhiệm bảo lãnh
cho người vay nợ, nếu bên vay không trả được nợ thì Chính phủ sẽ có nghĩa vụ
trả nợ.
1.2.5 Theo cấp quản lý nợ:
Nợ công được phân loại thành Nợ công của trung ương và Nợ công của
chính quyền địa phương. Nợ công của trung ương là các khoản nợ của Chính
phủ, nợ do Chính phủ bảo lãnh. Nợ công của địa phương là khoản nợ công mà
chính quyền địa phương là bên vay nợ và có nghĩa vụ trực tiếp trả nợ.


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2011 -2015
2.1. Thực trạng nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015
2.1.1 Quy mô nợ công gia tăng nhanh

Trong giai đoạn 2011- 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7
%/năm. Theo đó, cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đế n 2.608
nghìn tỷ đồng, gấp 1,9 1ần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng). Về số
tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát
65% của Quốc hội.

(Nguồn số liệu: Báo cáo nợ công số 04 – Bộ Tài chính và Tổng cục thống kê)
Đáng 1ưu ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao
hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số
tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt. Cụ thể, nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam
dựa trên nguyên tắc: trách nhiệm thanh toán thuôc về chủ thể đi vay; còn nợ
công theo tiêu chuẩn quốc tế được xác định trên cơ sở: chủ sở hữu thực sự hay
pháp nhân đứng sau chủ thể đi vay phải có trách nhiệm thanh toán. Theo đó, nợ
công theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ bằng nợ công theo tiêu chuẩn Việt Nam cộng
với nợ của: Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), tổ chức bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội (ASXH) và một số địa


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

phương. Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và
cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.
Theo thông 1ệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là
động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triến là 90%,
các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%.
Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hôi đề ra 1à 65% 1à phù hợp với
thông 1ệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro .
2.1.2 Khó khăn trong quản lý nợ công về cơ cấu và kỳ hạn
Trước đây, nợ công hầu hết 1à nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi
suất từ 1% đến dưới 3%. Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu

nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần. Vì vậy, nợ công
dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm
2015. Cụ thể:
Về nợ nước ngoài: đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, tương đương 11% tổng

vốn đầu tư toàn xã hội hay 17% tổng vốn đầu tư từ NSNN. Việc quản lý nguồn
vốn này còn tồn tại và hạn chế như: (i) quy trình và thủ tục quản lý chương trình
và dự án ODA còn phức tạp; và (ii) nhiều dự án chậm tiến độ, trung bình trong
những năm qua, tỷ 1ệ giải ngân vốn ODA chỉ đạt khoảng 71% tổng vốn đã ký
kết.
Về nợ công trong nước: Thực hiện chủ yếu qua phát hành trái phiếu Chính

phủ (TPCP). Về quy mô, 1ượng phát hành giai đoạn 2011-2015 đã tăng gấp 2,5
lần giai đoạn 2006-2010. Về kỳ hạn, 3 năm đầu giai đoạn, TPCP kỳ hạn ngắn ( 13 năm) chiếm khoảng 77 % khối 1ượng phát hành hàng năm. Hệ quả là, từ năm
2014, một 1ượng lớn TPCP đến hạn thanh toán và Chính phủ đang phải liên tục
phát hành TPCP mới do NSNN không thể đáp ứng. Vì vậy, nhằm tránh rủi ro
trên, Quốc hội đưa ra quy định về kỳ hạn TPCP là trên 5 năm vào năm 2015,
theo đó, tỷ trọng TPCP kỳ hạn dài đã tăng lên 46%. Tuy nhiên, kỳ hạn của TPCP
gia tăng cũng gây ra bất cập cho: người mua chính có nguồn vốn huy động ngắn
hạn chiếm tỷ trọng 1ớn (khoảng 85% 1ượng phát hành 1à các ngân hàng thương


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

mại (NHTM)); chi phí vốn của nền kinh tế có xu hướng tăng theo 1ãi suất TPCP
dài hạn.
2.1.3 Việc sử dụng nợ công còn bất cập
Hiệu quả sử dụng không cao: Nền kinh tế có mô hình tăng trưởng theo
chiều rộng. Việc đầu tư dàn trải dẫn tới hiệu quả không cao, nhất 1à đầu tư công
và DNNN. Theo WB, ICOR của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2005 1à 4,88;

giai đoạn 2006 - 2010 1ên đến 6,96 và sau 5 năm, vẫn ở mức 6,92 vào giai đoạn
2011 - 2014, chỉ đứng sau Ấn Độ 1à 7,31 tại Châu Á.
Mở rộng đầu tư công một cách ồ ạt nhưng không hiệu quả dẫn đến nợ
công tăng mạnh. Trong nhiều năm qua, Nhà nước đầu tư rất lớn cho các công
trình công cộng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng, cảng biển, sân bay, đặc khu kinh tế...
Các chuyên gia cho rằng, với tình hình tỉnh nào cũng lập kế hoạch xây dựng
cảng biển, đệ trình kế hoạch làm sân bay, tỉnh nào cũng xin làm đặc khu kinh tế,
thì đầu tư công dàn trải và lãng phí là điều tất yếu xảy ra. Theo Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, mỗi năm Việt Nam cần khoảng 25 tỷ USD để đầu tư cho cơ sở hạ tầng,
trong khi đó vốn huy động được hàng năm từ các nguồn của Nhà nước cũng như
của tư nhân chưa đến 16 tỷ USD, phần còn lại là phải vay nợ nước ngoài. Chi
tiêu và đầu tư nợ công kém hiệu quả đang đem lại những rủi ro đáng báo động
cho nền kinh tế. Nó khiến mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam luôn ở mức rất
cao trong khu vực, đồng thời khiến hiệu quả đầu tư trên một đồng vốn luôn ở
mức thấp.
Công tác quản lý nợ công có bước tiến nhưng vẫn còn hạn chế: Trong giai
đoạn này, công tác quản lý nợ công đã được cải thiện. Tuy nhiên, việc phân bổ
mang tính chủ quan, dàn trải, hiệu quả thấp, số liệu thống kê không đồng nhất,
thiếu tính kịp thời đặc biệt việc quản lý ODA còn khá phức tạp.
2.2. Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công
2.2.1. Thành tựu đạt được
Thứ nhất, thể chế chính sách về nợ đã có bước đột phá với việc Quốc hội
đó ban hành Luật quản lí nợ công và phê duyệt của Chính phủ về “Chiến lược


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020 và tầm nhìn năm
2030”. Nhằm khắc phục những nhược điểm về khung pháp lí quản lí nợ công
đang tồn tại, Luật Quản lí nợ công ra đời đã tạo ra những thay đổi rõ rệt. Lần

đầu tiên Việt Nam có luật điều chỉnh chuyên biệt về lĩnh vực nợ công, ghi nhận
một cách tổng thể các công cụ quản lí nợ công. Luật Quản lí nợ công qui định
nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lí nhà nước về nợ công từ vay, giám sát
sử dụng vốn vay đến trả nợ và đảm bảo an toàn nợ theo Chiến lược nợ dài hạn
và Chương trình quản lí nợ chung hạn. Cùng với đó, trong “Chiến lược nợ công
và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011– 2020 và tầm nhìn năm 2030” đã
đạt được bước tiến quan trọng khi quy định việc huy động vốn vay và trả nợ
phải nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn về nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước
ngoài của quốc gia và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia; chuyển
đổi cơ cấu vay theo hướng tăng dần huy động vốn vay trong nước, giảm dần
mức độ vay nước ngoài và hạn chế bảo lãnh Chính phủ đồng thời Chính phủ
thống nhất việc quản lí huy động, phân bổ, trả nợ và quản lí nợ công, nợ nước
ngoài an toàn hiệu quả.
Thứ hai, đáp ứng được nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển và cân
đối NSNN, nhiều dự án cơ sở hạ tầng, các chương trình xóa đói giảm nghèo, cải
thiện môi trường, giải quyết việc làm, an sinh xã hội, các dự án tăng trọng quốc
gia... đều được đầu tư bằng nguồn vốn vay công.
Thứ ba, các chỉ tiêu về nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia vẫn nằm
trong giới hạn an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Việc xử lí nợ quá
hạn các khoản nợ cũ thông qua Câu lạc bộ Paris, Luân Đôn…
là một thành công lớn, đưa tỷ lệ tổng số nợ nước ngoài từ mức rất cao, gần
150% GDP năm 1993 trở về mức an toàn 43,1% vào năm 2015; tạo điều kiện
khai thông quan hệ tài chính – tín dụng với các tổ chức quốc tế và các Chính phủ
nước ngoài.
Thứ tư, các hình thức huy động vốn vay ngày càng đa dạng, linh hoạt, tạo
tiền đề cho sự hình thành và phát triển đồng bộ thị trường tài chính. Bên cạnh


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia


việc huy động vốn ưu đãi ODA, vay thương mại nước ngoài, vay qua
phát hành trái phiếu Chính phủ trong nước là công cụ huy động vốn có hiệu quả
của nhà nước. Mặt khác, trong năm 2005, Chính phủ đã phát hành trái phiếu
quốc tế đợt 1 với tổng trị giá 750 triêu USD dành cho các dự án đóng tàu, đây là
hình thức tương đối mới ở Việt Nam. Ngoài việc trực tiếp phát hành nợ, trong
thời gian qua Chính phủ đã thực hiện cấp bảo lãnh Chính phủ cho các doanh
nghiệp vay vốn.
Thứ năm, cơ cấu đồng tiền vay đa dạng; đặc biệt những năm gần đây tỷ
giá đồng Việt Nam và đồng đô la tương đối ổn định; Nhật Bản nới lỏng chính
sách tiền tệ nên đồng yên yếu đi, chúng ta sẽ có lợi rất nhiều trong chính sách tỷ
giá, giảm thiểu rủi ro.
2.2.2.Hạn chế
Thứ nhất, chính sách sử dụng nợ công không hiệu quả. Các khoản vốn
vay chủ yếu được sử dụng trong khu vực đầu tư công, mặc dù được đầu tư vốn
rất lớn nhưng nó không mang lại hiệu quả biểu hiện bởi chỉ số ICOR rất cao. Sự
thiếu hiệu quả chủ yếu đến từ các doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt là khu vực
được Chính phủ bảo lãnh. Các doanh nghiệp Nhà nước thường đầu tư vào các
lĩnh vực rủi ro cao như tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán… mà
không chú trọng đầu tư vào lĩnh vực ngành nghề kinh doanh chính. Sự không
hiệu quả này đang đe dọa tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính và nền kinh
tế, bởi các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng của
các NHTM.
Thứ hai, chưa tận dụng tối đa nguồn lực từ thì trường chứng khoán. Thị
trường thứ cấp của trái phiếu Chính phủ dường như không phát triển, khối lượng
giao dịch rất ít. Ngay cả khi TTCK sôi động thì khối lượng giao dịch cũng chỉ
chiếm khoảng 3 – 4% tổng giá trị giao dịch thị trường và chiếm khoảng 6 – 7%
tổng giá trị trái phiếu được niêm yết trên TTCK. Do đó tính thanh khoản của trái
phiếu Chính phủ trở nên kém đi, mặc dù đây là loại công cụ tài chính có độ an



Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

toàn cao nhất nhưng nó chưa thực sự giữ vai trò chủ đạo trong các giao dịch
chứng khoán.
Thứ ba, quyền hạn của các cơ quan còn chồng chéo, phân tán. Chẳng hạn,
đối với cấp Bộ, ngành: Theo Luật Quản lý nợ công thì Bộ Tài chính
giúp Chính phủ thống nhất quản lý Nhà nước về nợ công (bao gồm tất cả các
khâu từ xây dựng mục tiêu, định hướng huy dộng, quản lý và sử dụng vốn vay
và quản lý nợ công). Nhưng trên thực tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại được Chính
phủ giao cho việc huy động vốn ODA và vốn đô la. Tuy nhiên khâu huy động lại
không gắn kết với nguồn trả nợ, không gắn với mục đích sử dụng... Mặt khác,
Bộ Tài chính là đơn vị chủ trì xây dựng hạn mức vay nước ngoài, bao gồm cả
hạn mức tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhưng điều hành cụ thể lại do NHNN.
Như vậy, rõ ràng từ kênh huy động, trả nợ, sử dụng vẫn còn chưa thống nhất với
nhau.


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HẠN CHẾ NỢ CÔNG, THÚC ĐẨY
KINH TẾ
3.1. Ổn định chính sách tài khóa, cân đối thu chi công, hạn chế vay
nợ nước ngoài và đảm bảo cho thâm hụt ngân sách ở mức hợp lý
3.1.1. Quản lý chặt chẽ chi tiêu công và thâm hụt ngân sách
Cần quan tâm thực hiện thắt chặt công khố, thực hành tiết kiệm và chi
tiêu công hợp lý, thận trọng trong những dự án đầu tư quy mô lớn tiêu tốn
một lượng lớn vốn từ những khoản nợ nước ngoài, bởi hiện nay, Việt Nam
đang có quá nhiều dự án quy mô lớn, như mở rộng đô thị, xây dựng nhà máy
điện hạt nhân, đường sắt cao tốc Bắc -Nam…
3.1.2. Cân đối đầu tư công

Vai trò của Nhà nước trong đầu tư cần tập trung tạo động lực cho phát
triển kinh tế thị trường, xây dựng thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng. Tuy
nhiên, trong phát triển hạ tầng, xu thế của các nước là rút dần các doanh
nghiệp công hữu trong các lĩnh vực độc quyền tự nhiên như giao thông vận
tải, bưu chính viễn thông, năng lượng... mà hướng đầu tư công sang phát
triển khoa học công nghệ, giáo dục, tạo đòn bẩy để chuyển dịch cơ cấu kinh
tế sang hướng tri thức, xanh, sạch, bền vững về môi trường và xã hội.
3.1.3. Đảm bảo minh bạch các hoạt động thu chi
Mối quan hệ giữa khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp công cũng
cần được minh bạch rõ ràng. Đặc biệt, cần có sự rõ ràng trong việc làm thế
nào lợi nhuận thu được từ các tổ chức sự nghiệp có thể đóng góp cho Chính
phủ. Những báo cáo tài chính hằng năm của các tổ chức này cần phải công
khai về lợi nhuận và phần sẽ đóng góp vào ngân sách nhà nước, thông tin này
cũng cần được ghi lại trong báo cáo hằng năm về ngân sách nhà nước.
Tương tự, các nguồn chi tiêu của Chính phủ nhằm phục vụ lợi ích của các tổ


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

chức công cần phải được công khai trong báo cáo về ngân sách nhà nước,
cũng như báo cáo tài chính hằng năm của các tổ chức này.
3.1.4. Cân đối mô hình phát triển kinh tế
Việt Nam là một nước đang phát triển, nên có tỷ lệ đầu tư cao,
thường xấp xỉ 40% GDP trong khi chỉ có 27% - 30% GDP là nguồn vốn tiết
kiệm trong nước, còn lại hơn 10% nguồn vốn bên ngoài (FDI, ODA, những
khoản vay khác). Đây là một tỷ lệ rất cao so với trung bình các nước trong
khu vực và trên thế giới. Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn
đầu tư bên ngoài sẽ dễ bị tổn thương nếu kinh tế thế giới ngưng trệ. Do đó,
giảm lượng vốn đầu tư từ bên ngoài trong cấu trúc vốn nhằm giảm sự phụ
thuộc vào nguồn vốn nước ngoài và thúc đẩy phát triển dựa trên đầu tư có

hiệu quả là cần thiết trong mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam.
3.2. Khắc phục tình trạng quan liêu, tình trạng trốn lậu thuế
3.2.1. Thúc đẩy vai trò độc lập của các cơ quan phụ trách về
quản lý an ninh tài chính và tiền tệ
Các cơ quan đó phải được quản trị một cách minh bạch, không được
phép phá vỡ các tiêu chí, nguyên tắc an toàn, và phải có tiếng nói với trọng
lượng đáng kể để không bị áp đặt bởi ý chí của người điều hành chính sách
tài khóa, vốn luôn chịu sức ảnh hưởng đáng kể từ các sức ép chính trị, ví dụ
như tư duy nhiệm kỳ, hay sự vận động từ các nhóm lợi ích (dù có thể không
nhất thiết gắn với ý nghĩa tiêu cực).
3.2.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, luật pháp
Cần tiếp tục xây dựng,hoàn thiện chính sách pháp luật thuế và các văn
bản pháp luật có liên quan,sao cho đảm bảo tính rõ ràng,minh bạch,chặt
chẽ,hạn chế tối đa các “kẽ hở” có thể trốn thuế,đồng thời phải phù hợp với
các yêu cầu hội nhập quốc tế. Hệ thống thuế cần được cải cách bảo đảm
các tiêu chí tạo nguồn thu bền vững, hiệu quả, công bằng và minh bạch. Gánh
nặng thuế cần phải được điều chỉnh giảm một cách hợp lý. Tuy nhiên, mức


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

độ hợp lý này phụ thuộc rất nhiều vào quá trình cắt giảm chi tiêu công. Gánh
nặng thuế quá cao sẽ khiến cho hệ thống thuế kém hiệu quả do nó khuyến
khích việc trốn thuế và bóp méo sự phân bổ nguồn lực. Hệ thống thuế và phí
cần được rà soát tránh sự chồng lên nhau. Các sắc thuế cần được điều chỉnh
nhằm

bảo

đảm


an

sinh xã hội cho người thu nhập thấp, khuyến khích tiết kiệm và hạn chế tiêu
dùng, đặc biệt là hàng tiêu dùng xa xỉ nhập khẩu.
3.3. Đảm bảo sự phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ giữa chính sách
tài khóa và chính sách tiền tệ
Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ chính sách tài khóa và chính sách tiền
tệ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Phối hợp giữa CSTK và CSTT cần được
hiểu là phải đảm bảo giải quyết các tác động của hai chính sách tới mục tiêu
tăng trưởng kinh tế vĩ mô trong ngắn hạn và dài hạn. Trong ngắn hạn, hai
chính sách phải phối hợp nhằm đạt được các mục tiêu của từng chính sách
một cách có trật tự, bao gồm cả ổn định giá.
Trong dài hạn, hai chính sách phải phối hợp để đảm bảo được lợi ích
cân bằng giữa mục tiêu của từng chính sách với mục tiêu tăng trưởng kinh tế
bền vững, kiềm chế lạm phát.
3.4. Thực hiện tốt chính sách nợ công
Cần nêu rõ cơ quan quyết định chính sách, nội dung cơ bản của chính
sách là gì và chính sách đó được xây dựng dựa trên những cơ sở khoa học
nào. Cần bổ sung quy định để định nghĩa chiến lược nợ theo những khuyến
nghị của các chuyên gia WB và IMF, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế
Việt Nam hiện nay. Đồng thời, phải quản lý chặt chẽ, công khai, minh bạch
các khoản nợ của các ngân hàng thương mại, nhằm không chỉ khai thông tín
dụng mà còn tránh rủi ro làm gia tăng nợ công như những diễn biến hiện nay
ở EU.


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

3.5. Cần có cái nhìn đánh giá chính xác kịp thời về tính hình nợ

công
Mức nợ công, nhất là nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới
hạn chịu đựng của nền kinh tế so với khả năng trả nợ, vì rõ rằng đã ở chấp
chới dưới mức cảnh báo an toàn của WB như trên đã nêu; vấn đề càng nhạy
cảm hơn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang bao phủ toàn cầu và đe
dọa nhấn chìm nền kinh tế thế giới vào vòng xoáy khủng hoảng tồi tệ mới
vô tiền khoáng hậu… Cần nhận thức rõ rằng, nếu khủng hoảng nợ công xảy
ra, Việt Nam sẽ phải tự mình vượt qua mà khó trông cậy vào sự cứu trợ từ
các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế như
chuyện của EU hiện tại. Cùng với đó, Việt Nam cần nhanh chóng chuẩn hóa
hệ thống thống kê nợ công theo thông lệ quốc tế để nắm bắt được thực
chất vấn đề nợ công hiện nay và chiều hướng sắp tới; tăng cường thể chế
quản lý và giám sát nợ công, hình thành cơ quan quản lý nợ công thống nhất;
về trung và dài hạn, tăng cường tính bền vững của nợ công phải gắn với quá
trình tái cơ cấu đầu tư công, tài chính công và tái cấu trúc khu vực doanh
nghiệp nhà nước để giảm bớt gánh nặng ngân sách; thay đổi quan điểm tiếp
cận tính bền vững nợ công theo hướng chất lượng chính sách và thể chế phát
triển sẽ quyết định năng lực trả nợ của một quốc gia; thay đổi cơ cấu nợ
công theo hướng bền vững; phát triển nội lực nền kinh tế.
3.6. Thực hiện hiệu quả quản lý nợ công
Để đánh giá chính xác thực trạng và đề xuất được các chiến lược
quản lý nợ phù hợp, việc hạch toán ngân sách và nợ công phải được thực
hiện một cách minh bạch theo chuẩn quốc tế. Các khoản chi để ngoại bảng
phải được tuyệt đối tránh. Các thước đo thâm hụt ngân sách loại trừ những
khoản thu kém bền vững và thu từ bán tài sản cũng cần được tính toán thêm
để có thể đánh giá được chính xác thực trạng tài khóa hiện tại. Ngoài ra, các
gánh nặng ngân sách phát sinh trong tương lai, ví dụ như chi trả lương hưu


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia


hay bảo hiểm y tế, cũng cần được đưa vào các dự báo về thâm hụt ngân
sách nhằm có được bức tranh chính xác hơn về triển vọng nợ công trong
trung và dài hạn. Do rủi ro tiềm ẩn của nó đối với nợ công, nợ của khu vực
doanh nghiệp nhà nước cũng cần phải được tính toán, phân tích và báo cáo
đầy đủ bên cạnh định nghĩa nợ công hiện nay ở Việt Nam. Việc phân tích và
đánh giá nợ của doanh nghiệp nhà nước nên được coi là một phần không thể
tách rời trong các báo cáo về nợ công của Việt Nam.


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia

PHẦN III: KẾT LUẬN
Trong những năm gần đây, nợ công Việt Nam luôn là chủ đề nóng được
bàn luận trên báo chí, trong các kỳ họp của Chính Phủ, Quốc Hội đặc biệt là
trong năm 2015, nợ công gần chạm ngưỡng Quốc Hội kiểm soát. Cuộc khủng
hoàng nợ công ở Hy Lạp đã khiến nhiều chuyên gia, người dân liên tưởng lo
lắng hơn. Sự khác biệt về cách tính toán nợ công của Việt Nam với các nước thế
giới dẫn đến những nghi ngờ về ngưỡng an toàn của nợ công.
Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đê tài đã làm rõ khái niệm nợ công
và các vấn đề liên quan: cách phân loại, đặc điểm, bản chất,…chỉ ra thực trạng
của nợ công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015, những thành tựu đạt được và
những hạn chế việc quản lý nợ công. Từ đó, đề tài đã đề xuất một số giải pháp
nhằm hạn chế nợ công, quản lý nợ công đạt hiệu quả cao để từ đó thúc đẩy nền
kinh tế phát triển tốt hơn.
Do thời hạn có hạn nên đề tài chưa có đủ điều kiện để nghiên cứu sâu hơn
về nợ công như phân tích cơ cấu nợ công, các rủi ro do nợ công gây ra,…


Bài tiểu luận môn Chính sách Tài chính Quốc Gia


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trung tâm Nghiên cứu BIDV, 2016, Báo cáo Đánh giá thực trạng nợ
công tại Việt Nam giai đoạn 2011-2015 và đề xuất cho giai đoạn 20162020.
2. Bộ Tài chính, 2016, Bản tin Nợ công số 4
3. Phòng Nghiên cứu VEPR, Bài thảo luận Chính sách CS 10 Những đặc
điểm của Nợ công ở Việt Nam
4. Nguyễn Tuấn Tú, 2012, Nợ công: Thực trạng và giải pháp
5. Nguồn số liệu từ Các website: www.vietnamnet.vn; www.vneconomy.vn;
www.gso.gov.vn; …
6.



×