Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

TÁC PHẨM: SÓNG (XUÂN QUỲNH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.06 KB, 32 trang )

TÁC PHẨM: SÓNG (XUÂN QUỲNH)
Người viết: Nguyễn Thị Thu Hương
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THPT Tam Dương II
Đối tượng bồi dưỡng: Học sinh lớp 12
Số tiết bồi dưỡng: 08 tiết
A. MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA CHUYÊN ĐỀ:
Giúp HS:
- Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
+ Cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn và niềm khát khao của người phụ nữ về một
tình yêu thủy chung, bất diệt.
+ Nắm được những nét đặc sắc về nghệ thuật kết cấu, xây dựng hình ảnh, nhịp
điệu và ngôn từ của bài thơ.
- Rèn luyện kỹ năng tái hiện kiến thức, kỹ năng phân tích, cảm nhận tác phẩm thơ
trữ tình, kỹ năng làm bài nghị luận so sánh... Nắm và phân biệt được các dạng đề,
từ đó biết cách xử lí các dạng đề.
- Thái độ : tôn trọng và gìn giữ tình yêu trong sáng, thuỷ chung.
- Định hướng phát triển năng lực:
+ Năng lực thu thập thông tin liên quan đến văn bản.
+ Năng lực giải quyết những vấn đề đặt ra trong văn bản.
+ Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về nội dung và nghệ thuật của tác
phẩm.
+ Năng lực sáng tạo qua những cách cảm nhận riêng, độc đáo về hình tượng, về
hình ảnh, ngôn từ của tác phẩm; có cách trình bày, diễn đạt giàu sắc thái cá nhân
trước những vấn đề đặt ra trong tác phẩm.
+ Năng lực liên hệ từ các vấn đề đặt ra trong tác phẩm đến những vấn đề đặt ra
trong đời sống. Biết hoàn thiện bản thân, hướng tới tình yêu lứa đôi chân chính.
B. NỘI DUNG:
I. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề:
- Kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, kiến thức về hoàn cảnh ra đời của tác
phẩm, nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, ...


- Kiến thức về tác phẩm qua các tài liệu tham khảo và hướng dẫn giảng dạy dành
cho giáo viên.
1


II. Hệ thống các dạng đề:
- Đề đọc hiểu văn bản.
- Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
- Cảm nhận về đoạn thơ trong tác phẩm.
- Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ.
- Nghị luận về ý kiến bàn về tác phẩm.
- Kiểu bài so sánh.
III. Hệ thống các phương pháp:
- Phân loại các dạng đề theo cấu trúc đề thi THPT Quốc gia năm học 2014-2015.
- Tổ chức hệ thống kiến thức cơ bản, ôn luyện và hướng dẫn làm một số dạng đề
thường gặp trong kỳ thi THPT Quốc gia.
- Vận dụng phương pháp đàm thoại, tổ chức, hướng dẫn học sinh cách làm các
dạng đề.
IV. Hệ thống các câu hỏi và dạng đề cụ thể:
* Hệ thống câu hỏi tạo tâm thế tiếp nhận, cảm nhận về bài thơ và cung cấp
kiến thức để học sinh viết bài văn:
Câu 1: Nêu những nét chính về tiểu sử, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Xuân
Quỳnh:
- Tiểu sử, cuộc đời:
+ Xuân Quỳnh (1942-1988). Tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh.
+ Sinh ở La Khê (một làng nghề dệt lụa nổi tiếng), thành phố Hà Đông, tỉnh Hà
Tây (nay thuộc Hà Nội) trong một gia đình công chức.
+ Xuân Quỳnh trải qua một tuổi thơ không hạnh phúc: mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà
nội đến năm 10 tuổi, bà nội cũng qua đời.
+ Xuân Quỳnh từng là diễn viên múa, sau chuyển sang làm công tác biên tập của

báo Văn nghệ và Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Xuân Quỳnh là Uỷ viên ban chấp
hành Hội nhà văn VN khóa III.
+ Xuân Quỳnh mất đột ngột cùng chồng - nhà viết kịch Lưu Quang Vũ vì tai nạn
giao thông tại Hải Dương ngày 29/4/1988.
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Xuân Quỳnh thuộc số những nhà thơ lớp đầu tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ
trẻ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, là một trong những
gương mặt tiêu biểu nhất của thơ ca VN hiện đại. Xuân Quỳnh được xem là một
trong số những thi sĩ viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau năm
1975.
2


+ Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn
nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh
phúc bình dị đời thường.
+ Tác phẩm chính: thơ Tơ tằm - Chồi biếc (1963), Hoa dọc chiến hào (1968), Gió
Lào cát trắng (1974), Lời ru trên mặt đất (1978), Tự hát (1984), Hoa cỏ may
(1989)....
* Giáo viên có thể đọc cho học sinh nghe một số đoạn thơ của Xuân Quỳnh để tạo
hứng thú tiếp nhận bài thơ Sóng:
... Ôi con trai thật là kì lạ
Tôi yêu tất cả mọi người mà chẳng yêu được riêng ai
Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu đươc một người
Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta yêu tôi nhiều lắm
Tôi sẽ yêu dẫu ngàn lần cay đắng...
Con gái chúng mình mang tiếng nhỏ nhen chật hẹp
Nhưng hơn bọn con trai cái đức biết hi sinh
Ta yêu người con trai không phải vì mình
Mà họ yêu ta vì họ yêu chính họ

Được yêu hai lần, họ cao lên một bậc
Ta không được yêu cảm thấy thấp dần đi
Vì chính ta cũng chẳng yêu ta
Chúng ta cam lòng với việc tần tảo nuôi con, việc đồng ruộng hậu phương là việc
phụ
Con trai cho rằng ra mặt trận, làm thơ là việc chính của đời kia
Nhưng họ đâu có biết rằng nếu không có chúng ta thì họ cũng chẳng đánh giặc
làm thơ
Không có chúng ta, chỉ họ sống với nhau thôi thì họ sẽ trở thành ngu ngốc
Và cả anh, anh yêu của riêng em
Khi anh nói yêu em, trái tim em đập chừng mạnh quá
Mạnh đến nỗi anh tưởng là nghe rõ
Tiếng tim anh đang đập vì em
Em yêu anh, yêu anh như điên
Em viết những bài thơ tình yêu, tưởng anh là ý, tứ ...
(Thơ viết cho mình và những người con gái khác)
... Anh thân yêu người vĩ đại của em
3


Anh là mặt trời, em chỉ là hạt muối
Một chút mặn mòi giữa đại dương vời vợi
Loài rong rêu chưa ai biết bao giờ
Em chỉ là ngọn cỏ dưới chân qua
Là hạt bụi vô tình trên áo
Nhưng nếu sớm nay em chẳng đong được gạo
Chắc chắn buổi chiều anh không có cơm ăn ...
(Thơ vui về phái yếu)
Câu 2: Trình bày hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ bài thơ Sóng
- Hoàn cảnh sáng tác: Sóng được sáng tác năm 1967 trong một chuyến Xuân

Quỳnh đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình).
- Xuất xứ: bài thơ được in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968)
Câu 3: Nêu nhận xét về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ Sóng? Âm điệu, nhịp
điệu đó được tạo nên bởi những yếu tố nào?
- Âm điệu là hiệu quả của chuỗi âm thanh có độ cao khác nhau, gây được một ấn
tượng, một cảm giác nào đó. Âm điệu của bài thơ là một trong những yếu tố quan
trọng hàng đầu của nghệ thuật thi ca, nó tạo ấn tượng trực tiếp, trước tiên đối với
người đọc. Trong tiếp nhận thi ca, nhiều khi người đọc bị cuốn hút, ám ảnh bởi độ
ngân vang của từ ngữ, của nhịp điệu câu thơ ngay cả khi chưa kịp hiểu nội dung, ý
nghĩa mà chúng muốn biểu đạt. Chi phối âm điệu thơ bao giờ cũng là cảm xúc của
thi sĩ.
- Âm điệu của bài thơ Sóng là âm điệu của những con sóng trên biển cả, và sâu xa
hơn, chính là nhịp của những con sóng lòng nhiều cung bậc, sắc thái cảm xúc trong
trái tim nữ sĩ. Âm điệu đó được tạo nên bởi hai yếu tố chính: thể thơ năm chữ cùng
với sự linh hoạt, phóng túng khi ngắt nhịp, phối âm đã gợi lên thật ấn tượng nhịp
sóng biển (và cả sóng lòng) khi dịu êm, khoan thai, khi dồn dập, dữ dội.
* Các dạng đề cụ thể:
1. Dạng đề đọc hiểu:
Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
4


Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

a. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ nào?
b. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn thơ.
c. Nêu ý chính của đoạn thơ.
d. Nêu hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ đối lập, nhân hóa, ẩn dụ trong
đoạn thơ.
e. Đoạn thơ thể hiện quan niệm gì về tình yêu của Xuân Quỳnh?
Hướng dẫn trả lời:
a. Đoạn thơ trên được viết theo thể thơ năm chữ.
b. Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong đoạn thơ là phương thức biểu
cảm.
c. Ý chính của đoạn thơ:
- Từ việc khám phá những trạng thái đối lập của sóng, tác giả diễn tả các cung
bậc cảm xúc của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm mới về tình
yêu: người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng không chịu chấp nhận sự tầm
thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao, cái cao rộng và bao dung…
- Mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng tình yêu
thường trực trong trái tim nhân loại muôn đời và mãnh liệt nhất là khát vọng tình
yêu của tuổi trẻ.
d. Hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ:
* Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn thơ:
- Đối lập: dữ dội hòa quyện với dịu êm, ồn ào đan xen với lặng lẽ; ngày xưa –
ngày sau
- Nhân hóa: Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể
- Ẩn dụ: sóng chính là hình tượng nhân vật trữ tình em
* Hiệu quả nghệ thuật của các biện pháp tu từ:
- Tình yêu tha thiết, chân thành không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp,
đơn điệu, một chiều mà nó phải là sự hòa hợp, đan xen của nhiều yếu tố, thậm chí
là những yếu tố đối cực nhau: vừa mâu thuẫn, vừa thống nhất, vừa xung đột vừa
hài hòa...


5


- Trong tình yêu, con người luôn khao khát vươn tới sự lớn lao, đích thực. Khẳng
định một điều có tính quy luật về sự tồn tại bất diệt của khát vọng tình yêu trong
trái tim người con gái.
e. Quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh qua đoạn thơ:
- Yêu là tự nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao ...
- Tình yêu mãi là khát vọng muôn đời của con người, nhất là đối với tuổi trẻ.
2. Dạng đề nghị luận văn học:
* Kiểu bài nghị luận về bài thơ, đoạn thơ:
Đề 1: Phân tích bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh.
Hướng dẫn:
I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là nhà thơ tiêu biểu cho lớp nhà thơ trẻ thời kì chống Mĩ, cũng là
gương mặt đáng chú ý của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh có một
bản sắc tươi tắn, hồn hậu và nồng nhiệt. Đó là tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó
thiết tha với cuộc đời, con người, khao khát tình yêu, trân trọng, nâng niu hạnh
phúc bình dị đời thường.
- Thơ tình yêu là một mảng đặc sắc trong các sáng tác của Xuân Quỳnh. Đó là
tiếng thơ bày tỏ trực tiếp những khát khao sôi nổi, mãnh liệt mà chân thành của
một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Một trong những bài thơ tình hay nhất của
Xuân Quỳnh là bài thơ Sóng.
II. Thân bài:
Khái quát chung:
Sóng là một hình tượng động, bất biến cũng như tình yêu muôn thuở / Có bao giờ
đứng yên. Vì vậy, sóng được các nhà thơ chọn làm thi liệu để biểu tượng cho tình
yêu. Nếu Xuân Diệu mượn sóng làm hình ảnh biểu tượng cho tình yêu:
Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt.
Thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng là biểu tượng cho những cung bậc tình cảm của
người phụ nữ trong tình yêu nhiều khao khát và biến động. Hai hình tượng sóng
6


và em luôn đi đôi sánh cặp với nhau. Sóng là em mà em cũng là sóng. Sóng và em
hòa quyện vào nhau, có lúc khiến ta không nhận ra đâu là em đâu là sóng nhưng
có lúc lại tách ra, soi chiếu vào nhau, tôn lên những vẻ đẹp vừa đa dạng lại vừa
phong phú. Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp
nhàng của bài thơ. Thể thơ năm chữ có tác dụng tạo ra những nhịp điệu của sóng.
Cả bài thơ là một đại dương, mỗi khổ thơ là một con sóng lớn, mỗi câu thơ là một
con sóng nhỏ. Tất cả đã tạo nên một âm hưởng mênh mang, dào dạt của những
con sóng lòng nhiều cung bậc.
Phân tích:
1. Hai khổ thơ đầu: Mượn sóng để diễn tả tâm hồn và khát vọng tình yêu
a. Khổ thơ đầu: nhà thơ mượn tính chất của sóng để nói về tâm hồn người
phụ nữ đang yêu:
- Mở đầu bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh đã sử dụng nghệ thuật đối song hành để nói
về tính chất của sóng, đem đến cho người đọc những khám phá thi vị:
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
+ Sóng luôn tồn tại những trạng thái tưởng chừng như đối lập: Dữ dội – dịu êm;
Ồn ào – lặng lẽ. Khi diễn tả tính chất của sóng, nhà thơ đã dùng từ và chứ không
dùng từ mà. Và chỉ sự tồn tại bổ sung cho nhau. Nghệ thuật đối đã làm hiện lên vẻ

đẹp của những con sóng biển ngàn đời đối cực. Những lúc biển động, bão tố
phong ba thì biển dữ dội ồn ào còn những giây phút sóng gió đi qua biển lại hiền
hòa trở về dịu êm, lặng lẽ.
+ Xuân Quỳnh đã mượn nhịp sóng để thể hiện nhịp lòng của chính mình trong
một tâm trạng bùng cháy ngọn lửa mãnh liệt của tình yêu, không chịu yên định
mà đầy biến động, khao khát Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên. Đúng
như vậy, tình yêu của người con gái nào bao giờ yên định bởi có lúc họ yêu mãnh
liệt hết mình với những nhớ nhung cả trong mơ còn thức, đôi khi ghen tuông giận
hờn vô cớ:
Nếu phải cách xa nhau
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chỉ còn bão tố
(Thuyền và Biển)
Nhưng cũng có lúc người con gái lại thu mình trở về với chất nữ tính đáng yêu, họ
lặng lẽ, dịu êm ngắm soi mình và lặng im chiêm nghiệm:
Có những tình yêu không thể nói bằng lời
7


Chỉ hiểu nhau qua từng ánh mắt
Nhưng đó là tình yêu bền vững nhất
Bởi thứ ồn ào là thứ dễ lãng quên
(Đinh Thu Hiền)
- Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ trẻ trung, tiếng nói
của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt,
khao khát được sống hết mình và yêu hết mình. Vì thế, ở hai câu thơ sau nhà thơ
nói về khát vọng tự nhận thức của sóng:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

+ Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau: sông và bể
làm nên đời sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh
mang thăm thẳm. Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát
khao một không gian lớn lao. Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm
tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của chính mình. Sóng không cam chịu
một cuộc sống, đời sống chật hẹp, tù túng nên nó làm cuộc hành trình ra biển khơi
bao la để thỏa sức vẫy vùng. Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của
người phụ nữ cũng không thể đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn
lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp tầm thường để được sống với những tình yêu cao
cả, rộng lớn, bao dung. Đây là một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của
người phụ nữ thời đại. Ngày xưa, vì quan niệm tình yêu cổ hủ cha mẹ đặt đâu con
ngồi đó mà bao cô gái đã phải cất lên lời than thân ai oán:
Thân em như giếng giữa đàng
Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân.
Hoặc:
Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
+ Từ đó ta mới thấy hết được cái mới mẻ trong quan niệm tình yêu của Xuân
Quỳnh: Người phụ nữ khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục, cam
chịu nữa. Người phụ nữ ấy chủ động tìm đến với tình yêu cao đẹp để hiểu mình,
được sống là chính mình.
b. Khổ thơ thứ hai: Từ sự tồn tại vĩnh hằng của sóng, người phụ nữ đang yêu
nhận thức về khát vọng tình yêu của con người, nhất là khát vọng tình yêu
của tuổi trẻ:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
8


Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ
- Hai câu đầu: từ sự quan sát, suy ngẫm về sóng, nhân vật trữ tình bỗng nhận ra
quy luật tồn tại của sóng:
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
- Từ Ôi cảm thán như tiếng lòng thốt lên từ nỗi thổn thức của trái tim yêu. Nghệ
thuật đối lập ngày xưa – ngày sau càng làm tôn thêm nét đáng yêu của sóng. Sóng
là thế muôn đời vẫn thế vẫn dữ dội ồn ào vẫn dịu êm lặng lẽ. Nghĩa là sóng tồn tại
bất diệt với đại dương, biển vẫn ngàn năm cồn cào xáo động không ngừng nghỉ.
- Chính điều này khiến nhà thơ liên tưởng đến khát vọng tình yêu của con người:
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
- Mạch thơ chuyển đổi một cách bất ngờ từ thiên nhiên sang con người. Nếu sóng
tồn tại bất diệt với đại dương thì tình yêu tồn tại bất diệt với con người, đặc biệt là
người trẻ tuổi. Có nghĩa là tình yêu tồn tại vĩnh hằng. Nhà thơ nước Đức nổi tiếng
Hen- rích Hai- nơ có tứ thơ dí dỏm nhưng rất sâu sắc khẳng định sự bất diệt của
tình yêu:
Ta đem chôn tình yêu
Rồi trồng lên bia mộ
Lạy chúa thế là xong
Hai đứa thầm nói khẽ
Nhưng tình yêu vùng dậy
Trách móc nhìn chúng ta
Các ngươi nói gì vậy
Ta đang sống đây mà
Có lẽ vì thế mà ông hoàng thơ tình Xuân Diệu mới viết:
Hãy để cho trẻ con nói cái ngon của kẹo
Hãy để tuổi trẻ nói hộ tình yêu
Bởi tình yêu tuổi trẻ luôn khát vọng luôn khát khao và mơ ước. Nó làm ta bồi hồi
khát khao và nhung nhớ bởi Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không

thương một kẻ nào. Tình yêu làm điên đảo tuổi trẻ với những nhớ nhung giận hờn,
những cồn cào da diết như lời thơ Xuân Quỳnh đã từng viết Những ngày không
gặp nhau/Lòng thuyền đau rạn vỡ/ Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu
9


mong nhớ. Tình yêu là điểm sáng vĩnh cửu cho con người hướng tới. Vì thế, cảm
xúc bồi hồi trong ngực trẻ mãi là cảm xúc vĩnh hằng.
=> Hai khổ thơ đầu:
- Từ quy luật tự nhiên Xuân Quỳnh đã khám phá và biểu đạt một cách rất nghệ
thuật quy luật tâm hồn của con người: khi yêu, tâm hồn con người đầy biến động,
luôn khao khát tình yêu nhưng không bao giờ tự bằng lòng, luôn tìm cách lí giải
tình yêu để tự hoàn thiện mình...
- Giọng thơ hồn nhiên pha lẫn suy tư. Ngôn từ chọn lọc: sử dụng nhiều từ láy: Dữ
dội, ồn ào, lặng lẽ, bồi hồi; sử dụng thán từ ôi để bộc lộ cảm xúc. Sử dụng các
biện pháp nghệ thuật: tương phản đối lập, nhân hóa, ẩn dụ...
2. Hai khổ thơ 3 – 4: Qua sóng, tìm lời giải đáp cho câu hỏi khởi nguồn của
tình yêu:
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
- Đứng trước đại dương mênh mông, nhìn những con sóng biển xô bờ, Xuân
Quỳnh liên tưởng đến tình yêu, bộc bạch tâm hồn của người phụ nữ đang yêu. Có
lẽ, như vậy cũng không đủ để nhà thơ giãi bày khát vọng cho nên nữ thi sĩ đã bộc
lộ trực tiếp qua nhân vật trữ tình em. Em được đặt trong sự đối diện với muôn

trùng sóng bể, với cái vô biên của đất trời, của tình yêu.
- Khi đứng trước cõi vô biên, người ta thường hướng đến cái lớn lao. Đứng trước
biển lớn, người phụ nữ đang yêu suy nghĩ về tình yêu lớn của mình và suy nghĩ về
biển:
+ Cấu trúc em nghĩ về được điệp lại hai lần, thể hiện sự suy tư của nhân vật trữ
tình. Người con gái ấy muốn cắt nghĩa nguồn gốc tình yêu của mình. Tình yêu là
sóng, là gió. Và qua sóng, gió ấy, nhà thơ đã nói lên thật dễ thương cái nhu cầu tự
nhận thức, tự phân tích, lí giải, nhưng lại không thể cắt nghĩa nổi của tình yêu.
Tình yêu cũng như sóng biển, gió trời vậy thôi, nó tự nhiên, hồn nhiên như thiên
nhiên và cũng khó hiểu, nhiều bất ngờ như thiên nhiên.
+ Người phụ nữ băn khoăn về khởi nguồn của tình yêu và bộc bạch một cách hồn
nhiên, chân thành sự bất lực không lý giải được câu hỏi muôn đời ấy trong tình
10


yêu: Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau. Đây là một cách cắt nghĩa về
tình yêu rất Xuân Quỳnh, một cách cắt nghĩa rất nữ tính, rất trực cảm. Lí giải
được ngọn nguồn của sóng thì dễ bởi Sóng bắt đầu từ gió nhưng để hiểu Gió bắt
đầu từ đâu thì thi nhân lại ấp úng Em cũng không biết nữa. Cũng như tình yêu
của anh và em, nó đến rất bất ngờ và tự nhiên. Câu thơ Em cũng không biết nữa
như một cái lắc đầu nhè nhẹ, bâng khuâng và phân vân. Nhân vật trữ tình chợt
nhận ra rằng: lí trí con người không bao giờ cắt nghĩa được sự huyền diệu và bí ẩn
của tình yêu. Tình yêu là vậy, khó lí giải, khó định nghĩa. Xuân Diệu – ông hoàng
của thi ca tình yêu cũng đã từng băn khoăn khi định nghĩa về tình yêu Đố ai định
nghĩa được tình yêu/ Có khó gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng
nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu . Chính vì không thể lí giải rõ ngọn ngành nên
tình yêu vì thế mà trở nên đẹp và là cái đích để cho muôn người đi tìm và khám
phá. Tình yêu là bài toán chưa có lời giải đáp, tình yêu như bài thơ chưa có hồi
kết. Vì thế tình yêu luôn đẹp, luôn mới và hấp dẫn. Có lẽ vì thế mà thi sĩ đã lắc
đầu:

Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
=> Hai khổ thơ:
- Xuân Quỳnh đã phát hiện ra quy luật tình yêu bằng trực cảm và sự trải nghiệm
trong
lòng mình. Quy luật ấy là: tình yêu cũng bí ẩn như sóng biển, như gió trời, không
thể
cắt nghĩa được tình yêu.
- Giọng thơ tâm tình tha thiết. Sử dụng câu nghi vấn thể hiện những băn khoăn
của nhân vật trữ tình. Điệp cấu trúc ở câu thơ thứ hai và câu thơ thứ ba của khổ
thơ thứ ba ...
3. Khổ thơ thứ 5: nỗi nhớ trong tình yêu
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
- Trạng thái tình cảm thường trực trong tình yêu là nỗi nhớ. Xưa nay có tình yêu
nào lại không được đo bằng nỗi nhớ? Người xưa từng chiêm nghiệm: Nhất nhật
11


bất kiến như tam thu hề (Một ngày không gặp dài như ba năm). Đã có biết bao
vần thơ viết về nỗi nhớ, nỗi tương tư:
+ Nỗi nhớ người yêu được diễn tả thật cảm động trong ca dao:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than.
(Ca dao)
+ Hơn một ngàn năm về trước, người vợ trong thơ Vương Xương Linh nhớ chồng

đến hao gầy cả vành trăng:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vành sáng hao gầy đêm đêm.
+ Ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng thao thức bao đêm vì nhớ nhung:
Trời còn có bữa sao quên mọc
Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em
Hòa cùng những con sóng: sóng thơ, sóng lòng, ta tìm về cõi sâu kín của tâm hồn
thi sĩ. Bài thơ Sóng ra đời khi những con sóng lòng dâng lên dữ dội, những con
sóng nhớ thương, thao thức của một tâm hồn đang yêu. Cả bài thơ là những đợt
sóng nối nhau vỗ vào tâm hồn người đọc. Sóng và nhân vật em đan quyện vào
nhau để thì thầm những nỗi niềm, những tâm tư. Đây là một khổ thơ vô cùng đặc
biệt bởi trong bài thơ chỉ duy nó có sáu câu. Sáu câu thơ trải dài như nỗi thao
thức, băn khoăn của tâm hồn thi sĩ trong đêm. Bằng tình yêu mãnh liệt, chân
thành, người con gái đang yêu muốn bộc bạch nỗi nhớ của mình:
+ Mượn hình ảnh sóng nhớ bờ để diễn tả nỗi nhớ trong tình yêu của mình:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Hai câu thơ với hình thức lặp cấu trúc quyện hòa cùng nghệ thuật đối dưới lòng
sâu – trên mặt nước tạo nên sự điệp trùng của những con sóng với nhiều dạng
thức khác nhau. Có con sóng gầm gào trên mặt đại dương nhưng cũng có con
sóng cuộn trào trong lòng biển cả. Con sóng ngầm còn mãnh liệt hơn cả con sóng
trên mặt nước. Cả hai kết hợp với nhau làm nên sự đa dạng của sóng biển. Sóng là
em, em là sóng. Cũng như sóng kia, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp khó
hiểu. Lúc lặng lẽ, êm đềm khi nồng nàn dữ dội, nhưng thế nào đi nữa, em vẫn mãi
là em, vẫn mãi ôm trong lòng một nỗi nhớ thương không dứt. Cũng như sóng kia
thôi, dù dịu êm hay dữ dội thì:
12



Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn một hình tượng rất động để diễn ta nỗi
niềm của người phụ nữ khi yêu. Sóng muôn đời vẫn thế, có bao giờ thôi vỗ sóng,
có khi nào chẳng cồn cào, có khi nào thôi ngừng hành trình đến với bờ dù muôn
vời cách trở. Sóng chẳng còn là sóng nếu tĩnh yên, lặng lẽ. Vì vậy mà sóng đã
được Xuân Quỳnh diễn tả bằng một từ ngữ rất sáng tạo không ngủ được. Sóng là
vậy, dù lặng yên dưới lòng biển hay dữ dội trên mặt đại dương thì ngàn đời vẫn
khát khao tìm về bến bờ tĩnh tại. Chưa đến được bờ thì nhớ thương, thương nhớ,
thì thao thức một nỗi niềm. Vì nhớ bờ nên con sóng đã hành trình vượt qua không
gian bao la và thời gian xa thẳm. Nó bất chấp cả thời gian Ngày đêm không ngủ
được để quyết tâm hướng vào bờ cho thỏa nỗi niềm mong nhớ. Nỗi nhớ của người
con gái đang yêu cũng mãnh liệt như sóng nhớ bờ, nỗi nhớ sâu sắc đến mức choán
đầy tầng sâu, lấp phủ bề rộng, lĩnh trọn cả thời gian...
+ Tuy nhiên, với Xuân Quỳnh, như thế vẫn chưa đủ để diễn tả nỗi nhớ, nhà thơ đã
trực tiếp thổ lộ:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
. Xuân Quỳnh dùng chữ lòng rất tinh tế. Lòng là nơi sâu kín nhất của tâm hồn con
người. Nơi bí mật thẳm sâu của tình yêu và nỗi nhớ. Khi Xuân Quỳnh nói lòng
em nhớ nghĩa là nữ sĩ đã phơi bày tất cả gan ruột của mình để dốc hết yêu thương
mà gửi về người mình yêu. Nỗi nhớ không chỉ có mặt trong thời gian được ý thức
mà còn gắn với tiềm thức – thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào mê đắm của tình yêu
lan tỏa trong cách nói nghịch lí Cả trong mơ còn thức.
. Câu thơ Cả trong mơ còn thức lóe lên điểm sáng của nghệ thuật. Nó làm đảo lộn
nhịp sống bởi tình yêu luôn làm cho con người khó thức ngủ theo giấc giờ điều
độ. Nỗi nhớ không chỉ làm lòng em bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi
đống than nó còn làm cho em nhớ nhung, thao thức ngay cả trong giấc ngủ. Ta
cảm nhận được nỗi nhớ người yêu đến da diết, cháy bỏng, nhớ đến kiệt cùng tâm

linh: không chỉ ngự trị trong ý thức mà còn đi vào cả trạng thái vô thức. Có thể
nói, với câu thơ ấy, Xuân Quỳnh đã có thể được xem là thi sĩ tài năng bậc nhất của
thi ca hiện đại Việt Nam.
=> Khổ thơ đã khẳng định:
- Xuân Quỳnh là nhà thơ luôn sống trong tình yêu, sống bằng tình yêu. Qua nỗi
nhớ người đọc cảm nhận được tình yêu chân thành, tha thiết và sâu sắc của một
người phụ nữ suốt đời dồn hết tâm lực để gìn giữ hạnh phúc đời thường...
13


- Giọng thơ vừa tha thiết vừa khắc khoải. Sáng tạo hình ảnh bờ để gián tiếp thể
hiện nỗi nhớ. Sử dụng các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc cú pháp, đối lập, nhân
hóa...
4. Khổ thơ thứ 6: khẳng định sự thủy chung trong tình yêu
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
- Nói về sự thủy chung thì đó là tứ thơ quen thuộc. Trong thơ truyền thống thường
dùng những hình ảnh quen thuộc như thuyền, bến, còn ở đây Xuân Quỳnh lại
mượn phương hướng đất trời để khẳng định lòng chung thủy thì có thể xem như là
một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Ở khổ thơ này, việc dùng hàng loạt những hình
ảnh đối lập: xuôi - ngược, bắc - nam kết hợp với cách nói ngược đã tạo nên hiệu
quả biểu đạt nội dung rõ nét. Bình thường, người ta nói ngược bắc, xuôi nam.
Xuân Quỳnh nói ngược lại: xuôi về phương bắc, ngược về phương nam. Phải
chăng sự cách xa trong tình yêu dù vì bất cứ lí do gì cũng là nghịch lí. Vì thế mà
ngược thành xuôi, xuôi thành ngược. Hay vì trong trái tim người con gái, đất trời
rộng lớn chỉ có duy nhất một phương – phương anh, nên dẫu bắc hay nam, xuôi
hay ngược cũng đều không còn có ý nghĩa gì nữa. Xuân Quỳnh buộc chặt bao sợi
nhớ, sợi thương về phương anh:

Chỉ riêng điều được sống cùng anh
Niềm mơ ước trong em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim đập chẳng vì anh
Thế mới biết tình yêu của Xuân Quỳnh nồng nàn, mãnh liệt thế nào. Hướng về
anh thì có thể thay đổi nhưng với lời khẳng định chắc nịch một phương thì nơi em
hướng về là bất di bất dịch. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật,
khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn. Cảm
thông cho cuộc đời Xuân Quỳnh, ta càng hiểu thêm tình cảm của nữ sĩ:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

Một nhà văn người Cô - lôm- bi - a từng đạt giải Nô- ben văn học đã nói:
Con bướm phải mất 180 triệu năm mới có thể cất cánh lên được và loài người
cũng mất ngần ấy năm mới biết khóc, biết cười cho tình yêu. Hóa ra, trong tình
14


yêu có một thứ được gọi là văn hóa và biểu hiện của văn hóa trong tình yêu đó là
phẩm chất thủy chung mà Xuân Quỳnh nói tới ở khổ thơ thứ sáu này. Sự thủy
chung mà nữ thi sĩ khẳng định khiến người đọc nhận ra quan niệm tình yêu của
Xuân Quỳnh mới mẻ, mạnh dạn nhưng rất truyền thống. Việc sử dụng các hình
ảnh đối lập, cách nói ngược là sáng tạo dộc đáo của Xuân Quỳnh, làm cho câu thơ
hàm súc, ý vị hơn, diễn tả thật sâu sắc nỗi nhớ và sự thủy chung trong tình yêu.
5. Khổ thơ thứ bảy: Niềm tin trong tình yêu
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở
- So sánh hành trình của những con sóng từ đại dương tới bờ, Xuân Quỳnh thấy
vững tin hơn vào tình yêu của chính mình. Con sóng tình yêu của Xuân Quỳnh
cũng như bao nhiêu con sóng khác, chắc chắn sẽ vượt qua muôn vời cách trở để
đến được với bờ. Lúc ấy, sóng mới thôi thao thức.
- Ở khổ thơ này, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật đảo ngữ một cách tinh tế. Nếu viết
theo trật tự thường đó là:
Dù muôn vời cách trở
Con nào chẳng tới bờ
Nhưng Xuân Quỳnh lại chọn kết cấu đảo:
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cách diễn đạt ấy khiến niềm tin sâu sắc mà vẫn mong manh lo sợ, niềm tin mãnh
liệt chân thành vào đích đến cuối cùng của tình yêu như có thêm dư vị đắng cay
của sự nếm trải. Niềm tin, nghị lực, quyết tâm ấy của Xuân Quỳnh ta nghe như
tiếng nói, sự đồng vọng của người xưa:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội
Thất bát đèo cũng qua
=> Khổ thơ thứ bảy:
- Thể hiện niềm tin mãnh liệt của Xuân Quỳnh vào tình yêu và hạnh phúc. Khi
viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã hai mươi lăm tuổi, đã nếm trải những đổ vỡ
trong tình yêu, nhưng điều đáng trân trọng là người phụ nữ ấy vẫn không bao giờ
hết tin tưởng vào tình yêu, bởi lẽ đó là một trái tim luôn yêu thương đến tận cùng
cảm xúc.
15


- Giọng thơ tha thiết, tin tưởng. Biện pháp đảo ngữ...
6. Hai khổ thơ cuối: Cảm nhận về sự hữu hạn của đời người và khát vọng

muốn hòa nhập tình yêu cá nhân vào tình yêu lớn của nhân loại để tình yêu
trường tồn mãi với thời gian:
- Khổ thơ thứ tám:
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Xuân Quỳnh qua khổ thơ trên đã phần nào cho người đọc nhận thức rõ về những
dự cảm và nỗi băn khoăn của nữ sĩ. Những từ tuy dài thế – vẫn đi qua – dẫu rộng
như chứa đựng ở trong nó ít nhiều nỗi âu lo. Tuy thế nhà thơ vẫn tin tưởng, tin
tưởng ở tấm lòng nhân hậu và tình yêu chân thành của mình sẽ vượt qua tất cả
như áng mây kia như năm tháng kia. Có thể nói Xuân Quỳnh yêu thương tha thiết,
mãnh liệt nhưng cũng tỉnh táo nhận thức dự cảm những trắc trở, thử thách trong
tình yêu; đồng thời cũng tin tưởng vào sức mạnh tình yêu sẽ giúp người phụ nữ
vượt qua thử thách đến vói bến bờ hạnh phúc. Cho nên, sóng sẽ đến bờ, năm
tháng sẽ đi qua thời gian dài đằng đẵng và đám mây nhỏ bé sẽ vượt qua biển rộng
để bay về xa. Một loạt hình ảnh thơ ẩn dụ được bố trí thành một hệ thống tương
phản, đối lập để nói lên dự cảm tỉnh táo, đúng đắn và niềm tin mãnh liệt của nhà
thơ vào sức mạnh của tình yêu.
- Khổ thơ cuối:
Yêu thương mãnh liệt nhưng cao thượng, vị tha. Khát vọng tình yêu thôi thúc nhà
thơ vượt qua những giới hạn của đời người để bất tử hóa tình yêu:
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
+ Nhân vật trữ tình khao khát hòa tình yêu con sóng nhỏ của mình vào biển lớn
tình yêu – tình yêu bao la, rộng lớn – để sống hết mình trong tình yêu, để tình yêu
riêng hoá thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.
+ Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn

cùng trăm con sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể
tách khỏi cộng đồng. Sóng không phải là biểu tượng của một cái tôi ngạo nghễ và
cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất
khiêm nhường: trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa những vẻ đẹp khác nhau để
16


tạo thành biển lớn. Nhà thơ đã thể hiện một khát vọng mãnh liệt muốn làm trăm
con sóng để hòa mình vào đại dương bao la, hòa mình vào biển lớn tình yêu để
một đời vỗ muôn điệu yêu thương Người yêu người, sống để yêu nhau (Tố Hữu).
Phải chăng đó là khát vọng muốn bất tử hóa tình yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh? Đó
không chỉ là tinh thần của con người thời đại chống Mĩ mà còn là âm vang của
một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình yêu.
=> Trước Xuân Quỳnh, đã có không ít nhà thơ nữ viết về tình yêu nhưng hiếm có
ai dám bày tỏ trực tiếp và mãnh liệt như Xuân Quỳnh. Điều đó chứng tỏ nhà thơ
không chỉ có niềm tin vào cuộc đời mà còn vững tin ở chính mình. Con sóng
Xuân Quỳnh dẫu có tan ra thành trăm con sóng nhỏ giữa biển lớn tình yêu, giữa
biển lớn cuộc đời thì vẫn cứ là con sóng Xuân Quỳnh vỗ mãi đến ngàn năm. Xuân
Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân
miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những
cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên, có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng
thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu...
Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ:
- Thể thơ năm chữ với những câu thơ ngắn không ngắt nhịp rất phù hợp với việc
miêu tả hình tượng sóng. Nhịp thơ êm đềm du dương mang âm hưởng của nhịp
sóng thiên nhiên và nhịp điệu tâm hồn người phụ nữ đang yêu.
- Về hình tượng:
+ Mượn hình tượng sóng để cất lên tiếng lòng của nhân vật trữ tình em, tạo mối
liên hệ giữa sóng và em soi chiếu vào nhau để bộc lộ tình cảm, khát vọng của

nhân vật trữ tình.
+ Qua hình tượng sóng, ta lắng nghe được những rung động, bồi hồi trong tâm
hồn thi sĩ. Cấu trúc bài thơ được xác lập theo cách đan cài giữa hai cặp hình
tượng: sóng – bờ, em – anh.
- Về giọng điệu:
+ Giọng điệu tâm tình, trẻ trung, hồn nhiên, chân thật...
+ Giọng điệu thơ có lúc suy tư, có tính trải nghiệm, triết lí...
- Về ngôn ngữ: ngôn ngữ thơ bình dị với những so sánh liên tưởng gần gũi quen
thuộc nhưng lại chứa đựng tình cảm mãnh liệt, nồng nàn, da diết.
- Về biện pháp tu từ: sử dụng kết hợp nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân
hóa, ẩn dụ, đối lập, điệp từ, điệp cấu trúc câu...
III. Kết bài:

17


Qua bài thơ Sóng, người đọc cảm nhận được vẻ đẹp và sức sống tâm hồn của
người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo chủ động bày tỏ những
khát khao và rung động trong tâm hồn. Những người đang yêu ngày trước, bây
giờ và có thể cả mai sau sẽ tìm gặp được mình trong bài thơ Sóng của Xuân
Quỳnh. Sóng ra đời cách đây đã lâu nhưng dư ba và độ say nồng của nó vẫn còn
mãi mãi. Nói như cách nói của một nhà phê bình thơ: Sóng mãi mãi còn nổi sóng
và Xuân Quỳnh xứng đáng là nhà thơ nữ xuất sắc của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Đề 2: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Hướng dẫn:
I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh (1942 – 1988) là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu của thế hệ
các nhà thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
- Sóng là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh luôn luôn trăn trở, khao khát
được yêu thương gắn bó. Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968).
- Trong hai khổ thơ đầu, tác giả mượn hình tượng sóng để diễn tả thế giới nội tâm
đầy biến động và khát vọng tình yêu của người phụ nữ. (Trích dẫn hai khổ thơ
đầu).
II. Thân bài:
- Sóng là bài thơ tình yêu thời chiến và ở đó người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn
của nhân vật trữ tình – người phụ nữ Việt Nam khi yêu: chân thành, da diết, tận
tụy, thủy chung và tin tưởng ở tình yêu.
- Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ; là ẩn dụ cho tình yêu và khát vọng cao
đẹp trong tâm hồn người phụ nữ.
* Nội dung:
a. Bốn câu đầu: Khát vọng của một tình yêu cao đẹp
18


- Từ việc khám phá những trạng thái khác nhau của sóng, tác giả diễn tả các cung
bậc tình cảm của người phụ nữ đang yêu và thể hiện một quan niệm mới về tình
yêu – yêu là tự nhận thức, là vươn tới cái cao rộng, lớn lao.
- Mượn tính chất và quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng
tình yêu thường trực trong trái tim tuổi trẻ:
+ Cái dữ dội của sóng biển như sự mãnh liệt trong tình yêu con người.
+ Sự dịu êm của sóng như những phút giây êm đềm trong tình yêu.
+ Cái ồn ào của sóng như sự sôi nổi khi yêu.

+ Khi sóng lặng lẽ như sự suy tư trăn trở trong trái tim ngườ phụ nữ đang yêu.
- Biểu hiện của tình yêu cao đẹp:
+ Sông không hiểu nổi mình có nghĩa là không hiểu nổi sóng vì sự giới hạn chật
hẹp của sông, không đủ sức chứa hết những sác thái phong phú của sóng và như
một tất yếu, sóng tìm ra tận bể, bởi lẽ chỉ có đại dương bát ngát, bao la mới đủ
cho sóng phô diễn hết sắc thái và vẻ đẹp của mình.
+ Tình yêu của Xuân Quỳnh cũng vậy, tình yêu của người phụ nữ cũng không thể
đứng yên trong một tình yêu nhỏ hẹp mà phải vươn lên trên tất cả mọi sự nhỏ hẹp
tầm thường để được sống với những tình yêu cao cả, rộng lớn, bao dung. Đây là
một quan niệm tình yêu tiến bộ và mạnh mẽ của người phụ nữ thời đại.
b. Bốn câu tiếp theo:
- Nhà thơ không nói con sóng ngày xưa – ngày nay, mà nói ngày xưa – ngày sau
như khẳng định sự muôn đời và tình yêu cũng vậy sẽ mãi tồn tại với con người và
nhân
loại.
- Khám phá mới về sóng: tượng trưng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng
tình
yêu.
- Nhà thơ quan niệm tình yêu gắn liền với tuổi trẻ Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi
trong ngực trẻ. Mượn quy luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhưng thấm
thía về tình yêu và tuổi trẻ; còn tình yêu là khát vọng yêu thương mãi còn, tức là
con người mãi trẻ trung.
=> Hai khổ thơ đầu, với giọng thơ hồn nhiên, chân thật pha lẫn suy tư, nhà thơ đã
từ quy luật tự nhiên mà khám phá và biểu đạt một cách rất nghệ thuật quy luật tâm
hồn của con người: khi yêu, tâm hồn con người đầy biến động, luôn khao khát
tình yêu nhưng không bao giờ tự bằng lòng, luôn tìm cách lí giải tình yêu để tự
hoàn thiện mình...
* Nghệ thuật:
- Thể thơ năm chữ sáng tạo, sử dụng sáng tạo hình tượng sóng.
- Giọng thơ hồn nhiên pha lẫn suy tư.

19


- Ngôn từ chọn lọc: sử dụng nhiều từ láy: Dữ dội, ồn ào, lặng lẽ, bồi hồi; sử dụng
thán từ ôi để bộc lộ cảm xúc...
- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: tương phản đối lập, nhân hóa, ẩn dụ, điệp từ,
điệp cú pháp...
III. Kết bài:
- Trong đoạn thơ, Xuân Quỳnh đã thể hiện rất gợi cảm và sinh động những trạng
thái cảm xúc, những khao khát mãnh liệt của một người phụ nữ đang yêu.
- Đoạn thơ cũng như cả bài thơ rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân
Quỳnh ở giai đoạn đầu sáng tác.
Đề 3: Cảm nhận về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
I. Mở bài:
Văn hào Pháp Vích – to Huy – gô đã từng khẳng định Cuộc đời là bông hoa còn
tình yêu là mật ngọt. Bởi vậy, từ xưa đến nay, tình yêu mãi là đề tài vĩnh cửu cho
người nghệ sĩ sáng tạo. Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, nếu Xuân Diệu
được tuổi trẻ xưng tụng là ông hoàng của thơ tình thì có thể coi Xuân Quỳnh là nữ
hoàng của thơ tình yêu. Thơ Xuân quỳnh là tiếng nói của tâm hồn người phụ nữ
nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, chân thành vừa da diết về khát vọng hạnh phúc bình
dị đời thường. Bài thơ Sóng in trong tập Hoa dọc chiến hào là bài thơ đặc sắc viết
về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Trong bài thơ, nhân vật
trữ tình như đang trầm tư suy cảm trước từng con sóng biển, khám phá những
phẩm chất của sóng và gửi gắm vào từng khổ thơ. Những con sóng chính là hiện

thân của nỗi nhớ không bao giờ nguôi trong trái tim người phụ nữ. Và nỗi nhớ ấy
được thể hiện sâu sắc qua khổ thơ thứ năm:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
20


II. Thân bài:
* Nội dung:
- Bốn câu thơ đầu: Nhà thơ đã ngắm nhìn những con sóng mà liên tưởng đến nỗi
nhớ đang vỗ nhịp trong lòng mình:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
+ Thi sĩ đã đem tâm trạng khi yêu của mình để cảm nhận tâm trạng của đại dương.
+ Nhà thơ đã có phát hiện bất ngờ: sóng bắt đầu từ nỗi nhớ.
+ Xuân Quỳnh không cảm nhận sóng vô tri vô cảm. Sóng được nhân hóa: sóng
nhớ bờ da diết đến mức không ngủ được. Nhờ nhân hóa sóng, Xuân Quỳnh đã thể
hiện được sâu sắc nỗi nhớ trong tâm hồn mình: choán cả tầng sâu, lấp phủ bề
rộng, chiếm trọn thời gian ngày – đêm.
- Hai câu thơ cuối:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
+ Nếu sóng là sự sống của biển thì nhớ là sự sống của tình yêu. Tình yêu bao giờ
cũng đi liền với nỗi nhớ. Nhớ vừa là thuộc tính vừa là phẩm chất của tình yêu.

+ Cái hay của hai câu thơ là ở chỗ: nhà thơ vừa phát hiện sự tương giao giữa sóng
và em vừa mở rộng ý nghĩa của hình tượng. Nếu sóng nhớ bờ trong vòng quay
hữu hạn của ngày – đêm thì em nhớ anh vượt ra ngoài cõi giới hạn đó. Sóng chỉ
nhớ trong cõi thực, còn em thì nhớ đến kiệt cùng tâm thức, nhớ cả trong mơ, thao
thức giữa miền tiềm thức- vô thức. Câu thơ thứ sáu của đoạn thơ diễn tả thật hàm
súc tâm lí khi yêu. Câu thơ tưởng chừng phi lí nhưng lại chứa đựng một chân lí.
Chân lí ấy là: chỉ có tình yêu chân chính, chỉ những người biết trân trọng tình yêu
mới thao thức, nâng niu từng khoảnh khắc của tình yêu.
* Nghệ thuật:
- Giọng thơ vừa tha thiết vừa khắc khoải.
- Sáng tạo hình ảnh bờ để gián tiếp thể hiện nỗi nhớ.
- Sử dụng các biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc cú pháp, đối lập, nhân hóa...
III. Kết bài:
21


- Đánh giá khái quát nâng cao về đoạn thơ.
- Đánh giá về bài thơ, về những đóng góp của Xuân Quỳnh cho nền thơ ca hiện
đại Việt Nam...
* Dạng đề nghị luận về ý kiến bàn về bài thơ:
Đề 1: Về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Bài thơ thể hiện
quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu. Nhưng lại có ý
kiến khác cho rằng: Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền
thống.
Từ cảm nhận về bài thơ Sóng, hãy bình luận những ý kiến trên?
Hướng dẫn:
I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc
ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát

vọng về hạnh phúc đời thường.
- Bài thơ Sóng được sáng tác năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm
Điền (Thái Bình), lúc đó Xuân Quỳnh mới 25 tuổi, trẻ trung, yêu đời. Đây là một
bài thơ đặc sắc viết rất hay về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân
Quỳnh thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu hiện lên qua hình
tượng sóng: tình yêu thiết tha, nồng nàn, đầy khát vọng và sắt son chung thuỷ,
vượt lên mọi giới hạn của đời người.
- Giới thiệu và trích đẫn hai ý kiến.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất: Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân
Quỳnh về tình yêu.
Quan niệm mới mẻ, hiện đại là quan niệm ngày nay, quan niệm của những người
có đời sống văn hóa, tinh thần không bị ràng buộc bới ý thức hệ tư tưởng phong
kiến. Về tình yêu, sự mới mẻ, hiện đại thể hiện ở: chủ động bày tỏ những khát
khao yêu đương mãnh liệt, khát vọng mạnh mẽ táo bạo về những rung động rạo
rực cảm xúc trong lòng, tin vào sức mạnh của tình yêu.
- Ý kiến thứ hai: Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống
Quan niệm truyền thống là quan niệm có từ xa xưa, được bảo tồn trong đời sống
hiện đại. Trong tình yêu, nó được thể hiện ở những nét đẹp truyền thống: đằm
thắm, dịu dàng, thủy chung,…
22


=> Khẳng định: hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau làm nên vẻ đẹp
cảu bài thơ: bài thơ thể hiện quan niệm của Xuân Quỳnh về tình yêu rất mực mới
mẻ, hiện đại lại mang vẻ đẹp truyền thống.
2. Cảm nhận về quan niệm tình yêu trong bài thơ Sóng và bình luận hai ý
kiến:
a. Cảm nhận về quan niệm tình yêu trong bài thơ Sóng:

* Bài thơ thể hiện quan niệm mới mẻ hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu:
- Đó là một tình yêu với nhiều cung bậc phong phú, đa dạng: dữ dội, ồn ào, dịu
êm, lặng lẽ.
- Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và
rung động rạo rực trong lòng mình Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận
bể. So sánh: không còn sự thụ động, chờ đợi tình yêu mà chủ động, khao khát
kiếm tìm một tình yêu mãnh liệt.
- Người con gái dám sống hết mình cho tình yêu, hòa nhập tình yêu cá nhân vào
tình yêu rộng lớn của cuộc đời.
* Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống:
- Nỗi nhớ thương trong tình yêu được thể hiện qua hình tượng sóng và em: Ôi con
sóng nhớ bờ/ Ngày đêm không ngủ được/ Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn
thức. Nỗi nhớ thường trực, da diết, mãnh liệt suốt đêm ngày.
- Tình yêu gắn liền với sự chung thủy: Với em không chỉ có phương Bắc, phương
Nam mà còn có cả phương anh. Đó là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian
của tương tư.
- Tình yêu gắn với khát vọng về một mái ấm gia đình hạnh phúc: Cũng như sóng,
dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, người phụ nữ trên hành
trình đi tìm hạnh phúc cho dù lắm chông gai nhưng vẫn tin tưởng sẽ cập bến bờ
hạnh phúc.
* Nghệ thuật biểu hiện:
- Thể thơ năm chữ, nhịp điệu thơ đa dạng, linh hoạt tạo nên âm hưởng của những
con sóng: lúc dạt dào sôi nổi, lúc sâu lắng dịu êm rất phù hợp với việc gửi gắm
tâm tư sâu kín và những trạng thái tình cảm phức tạp của tâm hồn.
- Cấu trúc bài thơ được xác lập theo kiểu đan xen giữa hình tượng sóng - bờ, anh
- em cũng góp phần làm nên nét đặc sắc cho bài thơ.
b. Bình luận hai ý kiến:
- Hai ý kiến đều đúng, thể hiện những vẻ đẹp, những khía cạnh khác nhau trong
tâm hồn người phụ nữ khi yêu, thể hiện rõ những quan niệm mang tính mới mẻ,
hiện đại, thậm chí táo bạo, chân thực, mãnh liệt, nồng nàn, đắm say của Xuân

23


Quỳnh về tình yêu. Nhưng mặt khác, quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh có
cốt rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc vì thế thơ Xuân Quỳnh nói chung và bài
thơ Sóng nói riêng tạo sự đồng điệu trong nhiều thế hệ độc giả.
- Hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, giúp người đọc cảm nhận bài thơ
ở cả bề mặt, chiều sâu và có những phát hiện thú vị, mới mẻ trong mĩ cảm. Sóng
xứng đáng là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng và thơ
tình hiện đại Việt Nam nói chung.
III. Kết bài:
Đề 2: Bàn về đặc điểm cái tôi trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho
rằng: Đó là cái tôi có khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành mãnh liệt. Lại có
ý kiến khẳng định: Bài thơ đã thể hiện một cái tôi nhạy cảm, day dứt về giới hạn
của tình yêu và sự hữu hạn của kiếp người.
Từ cảm nhận về cái tôi trong bài thơ, anh/ chị hãy bình luận những ý kiến trên.
Hướng dẫn:
I. Mở bài:
- Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ
thời chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc
ẩn, vừa hồn nhiên tươi tắn vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát
vọng về hạnh phúc đời thường.
- Sóng là bài thơ tình đặc sắc được Xuân Quỳnh sáng tác nhân chuyến đi thực tế
về vùng biển Diêm Điền (Thái Bình). Bàn về đặc điểm cái tôi trong bài thơ này,
có ý kiến cho rằng: Đó là cái tôi có khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành
mãnh liệt. Lại có ý kiến khẳng định: Bài thơ đã thể hiện một cái tôi nhạy cảm,
day dứt về giới hạn của tình yêu và sự hữu hạn của kiếp người.
II. Thân bài:
1. Giải thích ý kiến:
– Cái tôi là cái bản ngã, là tâm trạng, cảm xúc, là thế giới tâm hồn riêng của nhà

thơ trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi, ta có thể thấy được những suy nghĩ,
thái độ, tư tưởng… của nhà thơ trước cuộc đời.
– Khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành mãnh liệt: là những mong muốn,
khát khao trong cuộc sống và tình yêu được đẩy lên đến cao độ, nồng nàn.
– Cái tôi nhạy cảm, day dứt về giới hạn của tình yêu và sự hữu hạn của kiếp
người: là cái tôi tinh tế trong cảm nhận, giàu trăn trở suy tư khi nhận ra sự ngắn
ngủi của tình yêu và sự mong manh của đời người.
2. Cảm nhận về cái tôi trong bài Sóng và bình luận hai ý kiến:
a. Cảm nhận về cái tôi trong bài Sóng
24


– Cái tôi có khát vọng sống, khát vọng yêu chân thành mãnh liệt
+ Cái tôi khát vọng được sống đúng với cá tính của mình, được thấu hiểu và được
yêu thương nên đã dấn thân vào hành trình gian truân tìm kiếm hạnh phúc. Cái tôi
còn khát vọng khám phá bản chất, nguồn gốc của tình yêu, để rồi nhận ra rằng
tình yêu là bí ẩn, thiêng liêng và không thể nào lí giải.
+ Cái tôi mang nỗi nhớ nồng nàn da diết, nỗi nhớ ấy vượt qua mọi khoảng cách
không gian, mọi giới hạn thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi
cả vào trong tiềm thức, xâm nhập cả vào những giấc mơ.
+ Cái tôi khát vọng và tin tưởng tình yêu chung thuỷ sẽ vượt qua những biến động
của cuộc sống, những thăng trầm của cuộc đời để đến được bến bờ hạnh phúc.
– Cái tôi nhạy cảm day dứt về giới hạn của tình yêu và sự hữu hạn của kiếp người
+ Bằng sự chiêm nghiệm của một trái tim đa cảm và sự từng trải, nhà thơ đã sớm
nhận ra nghịch lý: đời người là ngắn ngủi so với thời gian vô thuỷ vô chung; khát
vọng tình yêu là khôn cùng mà kiếp sống của mỗi người là hữu hạn.
+ Cái tôi tìm cách hoá giải nghịch lý và nỗi day dứt ấy bằng khát vọng hoá thân
vào sóng, hoà nhập vào biển lớn tình yêu để mãi mãi được yêu thương và dâng
hiến, để tình yêu vượt qua sự hữu hạn của phận người.
– Nghệ thuật thể hiện:

+ Cái tôi trong Sóng được thể hiện bằng thể thơ ngũ ngôn với nhịp thơ linh hoạt,
giọng điệu chân thành, da diết, riêng khổ 5 là khổ duy nhất trong bài gồm 6 câu
thơ, như một sự phá cách để thể hiện một trái tim yêu tha thiết, nồng nàn.
+ Ngôn ngữ bình dị với thủ pháp nhân hoá, ẩn dụ, các cặp từ tương phản, đối lập,
các điệp từ; cặp hình tượng sóng và em vừa sóng đôi, vừa bổ sung hoà quyện vào
nhau cùng diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của cái tôi thi sĩ.
b. Bình luận hai ý kiến:
– Hai ý kiến đề cập đến những đặc điểm khác nhau của cái tôi Xuân Quỳnh trong
bài thơ Sóng. Ý kiến thứ nhất nhất mạnh đến khát vọng sống, khát vọng yêu, ý
kiến thứ hai khẳng định sự nhạy cảm, nỗi day dứt của cái tôi về giới hạn tình yêu
và sự hữu hạn của kiếp người.
– Hai ý kiến tuy khác nhau nhưng không đối lập mà bổ sung cho nhau, hợp thành
sự nhìn nhận toàn diện về cái tôi của thi sĩ; giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và
thấu đáo hơn về vẻ đẹp của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu.
III. Kết bài:
* Dạng đề nghị luận so sánh:
Đề 1: Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:
Ta với mình, mình với ta
25


×