Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

So sánh từ láy trong tiếng việt và tiếng trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.17 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***-----------


Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)

SO SÁNH TỪ LÁY TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
~~~☆~~~

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)

SO SÁNH TỪ LÁY TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã Số: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Chính



Hà Nội - 2018


L Ờ I CẢM Ơ N
Trong hai năm học tập tại khoa Ngôn ngữ học – Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, nhận được sự giúp đỡ tận tình từ quý thầy cô và các bạn học
viên, cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, cuối cùng tôi đã hoàn thành bài luận
văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Chính- ngưỡi đã
tận tâm dạy dỗ và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Cảm ơn quý
thầy cô giáo, và các bạn học viên đã luôn động viên giúp đỡ tôi.
Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bố mẹ đã luôn động viên,
tiếp thêm nghị lực và dũng khí cho tôi phấn đấu trên con đường mình đã chọn.
Một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn tới qúy thầy cô giáo của khoa Ngôn
ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội, kính chúc các thầy các cô sức khỏe, thành công. Mặc dù đã cố gắng để thực
hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song do khả năng của bản thân có hạn nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận được sự góp ý
của quý thầy, cô giáo và các bạn học viên để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội , tháng 4 năm 2018
Học viên

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình

nghiên cứu nào khác.
Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Ban chủ nhiệm khoa Ngôn
ngữ học và Ban gián hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội.

Hà Nội , ngày 20 tháng 4 năm 2018
Học viên

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................................... 2
4. Ý nghĩa nghiên cứu......................................................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu.................................................................................................3
6. Bố cục luận văn............................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT..........................................................................................................4

1.1. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Việt............................................................................... 4
1.1.1. Về tên gọi...................................................................................................................................4
1.1.2. Cách phân loại từ láy................................................................................................................ 4
1.1.3.Những định nghĩa về từ láy........................................................................................................ 5
1.2. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Trung.......................................................................... 10
1.3. Phân biệt từ láy với từ ghép và các loại từ khác.........................................................................12
1.4 Phân biệt phương thức láy và phương thức lặp...........................................................................14

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG............... 18

2.1. Hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung..................................................................... 18
2.1.1. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt.....................................................................................................18
2.1.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Trung................................................................................................. 19
2.2. Đặc điểm từ láy trong tiếng Việt................................................................................................ 21
2.2.1. Phân loại từ láy về kết cấu...................................................................................................... 21
2.2.2. Quy luật ngữ âm của từ láy tiếng Việt.....................................................................................29
2.2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ láy tiếng Việt............................................................................... 33
2.3. Đặc điểm từ láy trong tiếng Trung............................................................................................. 39
2.3.1. Đặc điểm về kết cấu.................................................................................................................39
2.3.2. Đặc điểm ngữ âm và ngữ nghĩa của từ láy tiếng Trung..........................................................40
CHƯƠNG 3. SO SÁNH TỪ LÁY TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG TRÊN CÁC PHƯƠNG DIỆN
CẤU TẠO, NGỮ ÂM VÀ NGỮ NGHĨA.................................................................................................. 52

3.1. So sánh từ láy dạng AA trong tiếng Việt và tiếng Trung........................................................... 52
3.2. So sánh từ láy dạng ABB trong tiếng Việt và tiếng Trung.........................................................60
3.3. So sánh từ láy dạng AABB trong tiếng Việt và tiếng Trung......................................................67
3.4. So sánh từ láy dạng ABAB trong tiếng Việt và tiếng Trung......................................................71
3.5. Đặc trưng tư duy, văn hóa thể hiện qua từ láy............................................................................74
KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................... 79


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa tới nay, từ láy luôn xuất hiện trong mọi mặt của đời sống ngôn ngữ tiếng
Việt và tiếng Trung. Trong đời sống hàng ngày, người Việt và người Trung Quốc
thường sử dụng từ láy để tạo s hài hoà về ngữ âm, nhạc điệu của từng lời ăn tiếng
nói. Trong sáng tác thi ca hay văn chương cũng vậy, họ sử dụng những từ láy mang

giá trị gợi âm thanh, hình ảnh và giá trị biểu cảm, hòa phối về mặt ngữ âm để tạo
hiệu ứng mạnh về mặt ngữ nghĩa, để tạo nên những tác phẩm nổi tiếng đẹp như một
bức họa, êm như một bản nhạc.
Khác với nhiều ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Việt và tiếng Trung đều là ngôn
ngữ không biến hình, thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp,
vì thế các dạng thức biểu đạt của từ v ng trong hai ngôn ngữ này không phong phú
như những ngôn ngữ biến tố. Cũng chính vì đặc điểm này, vai trò của từ láy càng
được coi trọng hơn. Láy là một trong năm phương thức cấu tạo từ, nó làm cho hình
thức biểu đạt của ngôn ngữ trở nên phong phú và đa dạng hơn, có giá trị biểu trưng,
sắc thái hóa, chuyên biệt hóa, khả năng biểu thị của nó cũng góp phần làm cho ngôn
ngữ thêm linh động. Có thể nói, tuy chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ, nhưng nó mang giá trị ngữ nghĩa sâu sắc và đóng vai trò rất quan
trọng trong hai ngôn ngữ này.
Từ láy luôn là một mảng đề tài phong phú đa dạng được nhiều nhà ngôn ngữ
học quan tâm, nghiên cứu và khảo sát từ nhiều góc độ, phương diện và chức năng
khác nhau. Tuy nhiên, những thành quả nghiên cứu hầu hết tập trung vào mặt ngữ
pháp, cho đến nay cũng có rất ít công trình đi sâu nghiên cứu về mặt từ v ng của từ
láy trong cả hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Trung. Mặt khác, những tài liệu so
sánh đối chiếu s tương đồng và khác biệt chi tiết giữa từ láy của hai ngôn ngữ Việt
- Trung cũng ít được tìm thấy.
Xuất phát từ những lý do trên, cũng như nhu cầu cần thiết trong việc tìm hiểu
đặc điểm, s tương đồng và khác biệt giữa từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung,
d a trên cơ sở những tài liệu thu thập được về từ láy trong hai ngôn ngữ này và

1


tham khảo những thành t u nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi đã
chọn đề tài nghiên cứu: “So sánh đối chiếu từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung”.
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu khảo sát đặc điểm của các từ láy trong tiếng Việt

và tiếng Trung, nhằm tìm ra s tương đồng và khác biệt của nó.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các từ láy được sử dụng trong hai ngôn
ngữ tiếng Việt và tiếng Trung.
Có một số phương thức láy chỉ xuất hiện riêng trong tiếng Việt hoặc tiếng
Trung, có những đặc điểm riêng có thể nghiên cứu với phạm vi khá rộng. Tuy nhiên,
luận văn này sẽ tập trung vào nghiên cứu so sánh các hình thức AA, ABB, ABAB,
AABB của từ láy.
Để đi sâu tìm hiểu s tương đồng và khác biệt giữa từ láy trong tiếng Việt và
tiếng Trung, chúng tôi lần lượt xem xét các phương diện: hình thức láy, kết cấu, ngữ
âm và ngữ nghĩa.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát và chỉ ra các đặc điểm, điểm giống và khác nhau
về mặt hình thức láy, kết cấu, ngữ âm, và ngữ nghĩa giữa từ láy tiếng Việt và từ láy
tiếng Trung.
Từ những điểm giống và khác nhau ấy, người đọc có thể nhìn ra các đặc trưng
văn hóa và tư duy dân tộc ẩn chứa trong ngữ nghĩa của các từ láy, thấy được s
khác nhau về tư duy văn hóa dân tộc giữa hai ngôn ngữ.
Ngoài ra, từ những kết quả so sánh chúng tôi nêu ra những điểm cần chú ý
trong quá trình giảng dạy, học tập và vận dụng từ láy tiếng Việt và tiếng Trung, từ
đó nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập, đồng thời phát triển tư duy sử dụng từ
láy của người học.
4. Ý nghĩa nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu từ láy trong hai ngôn ngữ Việt-Trung, chúng tôi hi
vọng có thể góp phần làm phong phú thêm kho tài liệu nghiên cứu về chủ đề "từ
láy", đồng thời cung cấp một số tài liệu tham khảo về so sánh từ láy trong tiếng Việt
và tiếng Trung cho những nghiên cứu sau này.

2



5. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh đối chiếu,
ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: miêu tả,
thống kê, phân tích quy nạp,...
Nguồn tư liệu của luận văn chủ yếu được trích từ các bài báo, tạp chí, truyện
ngắn, tác phẩm văn học hay từ th c tế giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, chúng tôi cũng
sử dụng một số tư liệu lấy từ các công trình nghiên cứu của một số người viết khác.
6. Bố cục luận văn
Các nội dung của luận văn được sắp xếp như sau:
Phần mở đầu, giới thiệu lý do l a chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
mục đích nhiệm vụ nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu mà luận văn đã sử
dụng. Ngoài ra còn nêu lên ý nghĩa nghiên cứu và những đóng góp đối với th c tiễn
của công trình nghiên cứu này.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trong chương này, chúng tôi bàn tới định nghĩa về từ láy trong tiếng Việt, đưa
ra một số quan điểm của các nhà ngôn ngữ học, Việt Nam, Trung Quốc về từ láy.
Đồng thời tiến hành phân biệt từ láy với từ ghép và các loại từ khác, phân biệt hình
thức láy và hình thức lặp.
Chương 2: Đặc điểm từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung
Giới thiệu hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung, phân loại và trình
bày đặc điểm về kết cấu, ngữ âm cũng như ngữ nghĩa của từ láy trong hai ngôn ngữ
này.
Chương 3: So sánh từ láy tiếng Việt và tiếng Trung trên các phương diện cấu
tạo, ngữ âm và ngữ nghĩa.
Chương này tập trung so sánh đối chiếu s tương đồng và khác biệt của từ láy
dạng AA, AAB, AABB và ABAB trong tiếng Việt và tiếng Trung.
Phần kết luận tổng hợp lại thành t u nghiên cứu và đưa ra nhận xét chung và
một số kiến nghị cho người học tiếng Việt và tiếng Trung.
Phần cuối cùng là danh sách những tài liệu đã tham khảo.


3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Việt
Trong toàn bộ hệ thống ngôn ngữ, có một bộ phận từ rất nhỏ luôn mang giá trị
gợi âm thanh, hình ảnh và giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ giao tiếp đời sống hàng
ngày và cả trong văn chương, đó là từ láy. Từ láy đã được quan tâm và đưa vào
nghiên cứu từ trước đến nay, và cho đến nay đã có không ít các nhà nghiên cứu về
ngôn ngữ đã đưa ra ý kiến và quan điểm khác nhau về tên gọi, cách phân loại cũng
như định nghĩa của từ láy.
1.1.1. Về tên gọi
Tên gọi của từ láy luôn được thay đổi theo thời gian và các nhà ngôn ngữ khác
nhau. Trước năm 1990 từ láy có những tên gọi như sau:
1962: Từ phản điệp (Đỗ Hữu Châu)
1963: Từ ghép (Trương Văn Chính, Nguyễn Hiến Lê)
1970: Từ lấp láy (Nguyễn Nguyên Trứ)
1970: Từ láy (Hoàng Văn Hành, Đào Thản)
1972: Từ ngữ kép phản phục (Lê Văn Lý)
1975: Từ láy âm (Nguyễn Tài Cẩn)
1976: Từ lấp láy (Hồ Lê)
1976: từ láy âm (Nguyễn Văn Tu)
1978 đến 1989: Từ láy (Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn
Thiện Giáp, Diệp Quang Ban,...)
Từ đó đến nay, "từ láy" trở thành tên gọi riêng của lớp từ này. Nhưng lý do vì
đâu mà trong lịch sử từ láy lại có nhiều tên gọi đến vậy? Đó là do cách nhìn nhận
khác nhau của các nhà ngôn ngữ học đối với từ láy. Có hai luồng quan điểm chủ yếu,
có người cho rằng láy là từ ghép, có người lại cho rằng láy là s hòa phối ngữ âm và

được tạo ra từ một phương thức cấu tạo từ đặc biệt.
1.1.2. Cách phân loại từ láy
Với số lượng âm đầu, vần và thanh điệu khá nhiều, số lượng từ láy tiếng Việt
được tạo ra là vô cùng phong phú, các loại hình từ láy cũng rất đa dạng.

4


-Trong cuốn “từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” tác giả đưa ra quan
điểm: căn cứ vào số lần tác động của phương thức láy, có thể phận biệt các kiểu từ
láy: từ láy đôi hay từ láy hai âm tiết (gọn gàng, vững vàng, đỏ đắn, khấp khểnh), từ
láy ba hay từ láy ba âm tiết (sạch sành sanh, téo tèo teo, dửng dừng dưng), từ láy tư
hay từ láy bốn âm tiết (nhi nha nhí nhảnh, kháp kha kháp khểnh, lam nham lở nhở,
vội vội vàng vàng, tẩn ngẩn tẩn ngẩn).
-Trong cuốn “cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, Mai Ngọc Chừ (1997) cho
rằng từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có
loại ba tiếng.
-Theo quan điểm của GS. Đỗ Hữu Châu: “ Căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm
có thể phân thành hai kiểu từ láy: từ láy bộ phận (chúm chím, đủng đỉnh, bập bồng),
từ láy toàn bộ (oe oe, ầm ầm, lăm lăm).
-Nguyễn Hữu Quỳnh (2001) cho rằng: từ láy có thể chia làm hai loại: từ láy
hoàn toàn và từ láy bộ phận.
-Lê Trung Hoa (2002) cho rằng: trong tiếng Việt, số lượng từ láy khá nhiều.
Người ta thường chia từ láy ra làm hai loại lớn: từ láy hoàn toàn (như ba ba, chuồn
chuồn,...) và từ láy bộ phận (như đẹp đẽ,chờn vờn,...).
Bên cạnh đó còn có rất nhiều nhà ngôn ngữ học đưa ra quan điểm gần giống
nhau, căn cứ những quan điểm trình bày trên chúng ta có thể thấy rằng, các nhà Việt
ngữ học thống nhất chia từ láy theo hai cách:
Cách 1: Theo mức độ láy lại của ba bộ phận ngữ âm, có thể chia thành hai loại:
Láy hoàn toàn và láy bộ phận (láy không hoàn toàn).

Cách 2: Theo số lượng âm tiết của từ, có thể chia thành ba loại: Láy đôi (láy 2
âm tiết), láy ba (láy 3 âm tiết), láy bốn (láy 4 âm tiết).
Cách phân chia thứ nhất dễ nhận biết hơn và thường được sử dụng nhiều hơn.
Để tiện cho việc so sánh từ láy tiếng Việt với từ láy tiếng Trung, ở chương hai
chúng ta sẽ tìm hiểu các phân loại chi tiết, song song với việc này, chúng tôi sẽ chỉ
rõ đặc trưng và kết cấu của từng loại hình từ láy.
1.1.3.Những định nghĩa về từ láy
Từ xưa đã có rất nhiều định nghĩa về từ láy của các nhà nghiên cứu, song cho

5


đến tận bây giờ vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nó. Chúng tôi xin trích
dẫn những quan niệm về từ láy của một số nhà nghiên cứu:
- Quan niệm của GS. Nguyễn Tài Cẩn được trình bày trong cuốn “Ngữ pháp
tiếng Việt - Tiếng- Từ ghép - Đoản ngữ”: Từ láy âm là loại từ ghép trong đó, theo
con mắt nhìn của người Việt hiện nay có các thành tố tr c tiếp được kết hợp lại với
nhau chủ yếu theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ là các
thành tố tr c tiếp phải có s tương ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu âm
đoạn tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa vần
và âm cuối vần). Ví dụ ở từ láy đôi chúng ta thấy:
a) Về các yếu tố âm đoạn tính: các thành tố tr c tiếp phải tương ứng với nhau
hoặc ở phụ âm đầu: làm lụng, đất đai, mạnh mẽ,… hoặc ở vần: lảm nhảm, lưa thưa,
lác đác,… có khi các thành tố tr c tiếp tương ứng cả phụ âm đầu, cả ở vần, ví dụ:
chuồn chuồn, quốc quốc, đa đa,…
b) Về mặt yếu tố siêu âm đoạn tính các thành tố nói chung đều phải có thanh
thuộc cùng một âm v c: thuộc âm v c cao (thanh ngang, thanh hỏi, thanh sắc) hoặc
thuộc âm v c thấp (thanh huyền, ngã, nặng). Ví dụ:
+ Cùng thuộc âm v c cao: hay ho, méo mó, ngay ngắn, bảnh bao, lỏng lẻo, rẻ
rúng mê mẩn, sáng sủa.

+ Cùng thuộc âm v c thấp: lụng thụng, dày dạn, rầu rĩ, đẹp đẽ.
- Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, các tác giả đưa ra quan điểm:
Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi
là từ lấp láy, từ láy âm). Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là
bốn tiếng, và có cả từ láy ba tiếng. Một từ sẽ được gọi là từ láy khi các thành tố cấu
tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại, nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp)
vừa có biến đổi (gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn- điệp phần âm đầu, đối ở phần vần.
- Theo GS. Đỗ Hữu Châu: “ Từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là
phương thức hoà phối ngữ âm bằng cách lặp lại một bộ phận hay toàn bộ hình thức
ngữ âm của tiếng gốc, còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm, từ ghép láy, từ phản điệp. Các
từ láy có thể phân thành từng kiểu khác nhau căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm và
số lần tác động của phương thức láy. Căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm có thể phân

6


biệt hai kiểu từ láy: từ láy bộ phận (chúm chím, đủng đỉnh, bập bồng,...), từ láy toàn
bộ (oe oe, ầm ầm, lăm lăm,...). Từ láy bộ phận chia làm hai loại: lặp lại phụ âm đầu
(chắc chắn, chí choé, mát mẻ,...), lặp lại phần vần (lênh khênh, chót vót, lè tè,...).
Căn cứ vào số lần tác động của phương thức từ láy có thể phân biệt các kiểu từ láy:
từ láy đôi hay từ láy 2 âm tiết (gọn gàng, vững vàng, vuông vắn,...), từ láy ba hay từ
láy ba âm tiết (sạch sành sanh, tẻo tèo teo, dửng dừng dưng,...), từ láy bốn hay từ
láy bốn âm tiết (nhí nha nhí nhảnh, vội vội vàng vàng, lam nham lở nhở, tẩn ngẩn
tần ngần,...). Từ láy có những đặc trưng ngữ nghĩa riêng như giá trị biểu trưng, sắc
thái hoá, chuyên biệt hoá về nghĩa”.
- Nguyễn Văn Tu (1976) cho rằng: Những từ lấp láy gồm những âm tiết tương
quan với nhau hay giống nhau về ngữ âm. Trong tiếng Việt hiện đại, có những từ
gồm hai từ tố có quan hệ về ngữ âm thường gọi bằng tên lấp láy, từ trùng điệp, từ
láy âm hoặc từ láy…Th c ra trong số những từ kiểu này có những từ th c s là từ
láy âm và cũng có những từ láy âm ngẫu nhiên (đất đai, tuổi tác, hỏi han,...). Nhưng

hiện nay về mặt quan hệ ngữ âm, chúng ta cũng gọi chung chúng là những từ láy
âm. Sở dĩ chúng tôi gọi chung những từ láy âm là những từ ghép vì th c chất chúng
được tạo ra bởi một số từ tố với bản thân nó không bị biến âm hoặc bị biến âm. Từ
ghép láy “lâng lâng” gồm có hai từ hoàn toàn giống nhau về âm thanh. Và từ ghép
“máy móc” gồm từ tố máy kết hợp với móc là biến thể ngữ âm của máy. Từ láy âm
được tạo thành bằng việc ghép hai từ tố hoặc hai âm tiết có quan hệ về ngữ âm trên
cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản thân cái âm tiết chính hoặc cái từ tố
chính. Những từ láy âm có s tương ứng về những mặt sau:
a) Về mặt phụ âm đầu như:
- Bắt bớ, bàn bạc, bạc bẽo, bụi bặm,…
- Cau có, canh cánh, cào cào, cầm cập, cặm cụi,…
- Chăm chỉ, chắc chắn, chặt chẽ, chạy chọt, chết chóc,…
- Da dẻ, dần dà, dai dẳng,…
b) Về vần mà khác nhau về phụ âm đầu:
- Bảng lảng, là đà, lụng thụng,…
- Kè nhè, lè nhè, lè tè, lì xì,…

7


c) Tương ứng hoàn toàn :
- Chuồn chuồn, rầm rầm, lần lần,…
d) S tương ứng về thanh điệu
Các âm tiết trong từ lấp láy thường có những thanh điệu tương ứng với nhau.
Hai âm tiết của từ lấp láy đều thuộc về một thanh điệu: không, sắc, hỏi hoặc nhóm
huyền, ngã, nặng. Ví dụ:
- Nhóm 1: lâng lâng, máy móc, bắng nhắng, liểng xiểng, lỏng lẻo.
- Nhóm 2: làng nhàng, nhồm nhoàm, cũ kỹ, gượng gạo, sợ sệt.
Bên cạnh đó còn có quan điểm của nhiều nhà Việt ngữ khác. Theo quan điểm
của Nguyễn Hữu Quỳnh: “Trong tiếng Việt, từ ghép theo phương thức láy có một số

lượng đáng kể. Phương thức láy là phương thức cấu tạo từ và cụm từ đặc biệt trong
tiếng Việt. Từ ghép láy (hay còn gọi là từ ghép lấp láy, từ láy) là những từ ghép
gồm hai hình vị kết hợp với nhau chủ yếu là theo quan hệ ngữ âm. Các thành tố
của từ ghép láy có mối liên quan với nhau về thanh điệu hoặc về các bộ phận
ngữ âm tạo nên các thành tố đó, đồng thời chúng tạo nên một nội dung ngữ
nghĩa nhất định. Thí dụ: nhỏ nhắn, nhỏ nhoi, nhỏ nhỏ, nhỏ nhặt, nhỏ nhen,
chằm chằm, thao thao, tỉ mỉ”. Hay như trong cuốn ngữ pháp tiếng Việt, các tác
giả cho rằng: “Từ láy đều là từ hai tiếng. Phần lớn đó là từ gốc Việt. Có một
số những từ láy gốc Hán, nhưng có thể coi chúng là đã Việt hoá, đã hoà lộn vào
bộ phận từ láy gốc Việt. Ví dụ: phảng phất, linh lợi, bồi hồi…Từ láy được cấu
tạo theo phương thức phối hợp ngữ âm. Nói đến “s phối hợp ngữ âm” ở đây tức là
nói đến hiện tượng lặp và hiện tượng đối xứng”.
Tuy có rất nhiều ý kiến khác nhau về từ láy nhưng chúng ta vẫn thấy được một
điểm thống nhất, đó là tất cả các tác giả đều coi: từ láy được cấu tạo theo phương
thức láy. Các thành tố trong từ láy đều có quan hệ ngữ âm (với thanh điệu giữ
nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo
hai nhóm: nhóm cao: thanh ngang, thanh hỏi, thanh sắc và nhóm thấp: thanh huyền,
thanh ngã, thanh nặng). Từ láy bao gồm hai hình vị, đó là hình vị gốc và hình vị láy.
Chúng có quan hệ ngữ âm với nhau. Hình vị láy có thể lặp lại những phần trong cấu
trúc triết đoạn như âm đầu, vần hoặc lặp cả âm đầu và vần (láy hoàn toàn), đồng

8


thời có s tương hợp trong cấu trúc siêu đoạn (thanh điệu). Hầu hết các tác giả đều
đồng ý: trong tiếng Việt phần lớn là những từ láy đôi (nghĩa là có hai âm tiết) ngoài
ra còn có từ láy ba và từ láy tư. Tuy nhiên có thể nói từ láy ba và từ láy tư chủ yếu
được xây d ng trên cơ sơ láy đôi.
Ví dụ :
Lơ mơ


>

lơ tơ mơ

Đen sì

>

đen sì sì

Dửng dưng

>

dửng dừng dưng

Lôi thôi

>

lôi thôi lếch thếch

Lúng túng

>

lúng ta lúng túng

Hùng hổ


>

hùng hùng hổ hổ

Vấn đề hiện nay nhiều nhà Việt ngữ học còn tranh cãi đó là s phân biệt giữa
từ láy và các loại từ khác. Mỗi nhà nghiên cứu đưa ra những tiêu chí phân định khác
nhau.
Nói tóm lại, nếu xuất phát từ quan niệm coi láy là ghép, các nhà ngôn ngữ học
định nghĩa như sau:
- “Từ láy âm là từ ghép mà các thành tố kết hợp với nhau theo quan hệ ngữ âm
(Nguyễn Tài Cẩn, 1975).
- “Từ ghép láy âm được tạo thành bằng việc ghép hai từ tố hoặc hai âm tiết có
quan hệ ngữ âm trên cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản thân các âm tiết chính hoặc
các từ tố chính” (Nguyễn Văn Tu, 1976).
Xuất phát từ quan niệm coi láy là s hoà phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hoá,
những nhà nghiên cứu ủng hộ quan niệm này đều thừa nhận từ láy được tạo ra từ
một phương thức cấu tạo từ đặc biệt. Để tạo ra nhạc tính cho s hòa phối âm thanh
đối với một ngôn ngữ vốn giàu nhạc tính như tiếng Việt, s láy không đơn thuần là
s lặp lại âm, thanh của âm tiết ban đầu mà bao giờ cũng có s biến đổi âm, thanh
nhất định, dù là ít nhất, để tạo ra cái thế vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Từ đó có
các định nghĩa:
- “Từ láy là những từ đa tiết mà giữa các âm tiết có quan hệ ngữ âm” (Hoàng
Tuệ, 1978).

9


- “Từ láy là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những qui tắc
nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng vừa điệp vừa đối hài hoà với nhau về ngữ

âm có giá trị biểu trưng hoá” (Hoàng Văn Hành, 1991).
- “Từ láy là một kiểu từ phức (từ đa tiết) được tạo ra bằng phương thức hoà
phối ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa”(Diệp Quang Ban, 1989).
- “Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức
lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với thanh điệu giữ nguyên hay biến
đổi theo qui tắc biến thanh, tức là qui tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm: nhóm
cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh
nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” (Đỗ Hữu Châu, 1981, 2007).
- Từ láy là “những cụm từ cố định được hình thành do s lặp lại hoàn toàn hay
lặp lại có kèm theo s biến đổi về ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có s hài
hoà về ngữ âm, vừa có giá trị biểu cảm, gợi tả” (Nguyễn Thiện Giáp, 1985).
1.2. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Trung
Trong tiếng Trung, từ láy là một hiện tượng phong phú và phức tạp, nó biến
hóa đa dạng theo thời gian và truyền tải nhiều ý nghĩa sắc thái khác nhau, hơn nữa
nó là một phương pháp cấu tạo từ rất quan trọng, vì vậy được nhiều nhà ngôn ngữ
Trung Quốc coi trọng và đi sâu vào nghiên cứu.
Về cách phân loại từ láy, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều ý kiến khác nhau,
một số nhà ngôn ngữ học chia từ láy thành từ láy hoàn toàn và không hoàn toàn, từ
láy cấu từ và cấu hình, từ láy biến hình và không biến hình.
Ngoài ra, 朱 德 熙 (Chu Đức Hi)(1982) từng nhắc đến từ láy thuận và từ láy
ngược, 李宇明( Lý Vũ Minh)(1996) chia từ láy thành láy không từ, láy từ và láy
câu v.v, 孙景涛(Tôn Cảnh Thao)(2008) phân từ láy thành từ láy song hướng và từ
láy liệt biến, 刘丹青(Lưu Đan Thanh)(2012) chia từ láy thành từ láy nguyên sinh
và từ láy thứ sinh. Cách phân loại của 刘丹青(Lưu Đan Thanh) có thể nói có tính
sáng tạo đối với việc tìm hiểu nguồn gốc, bản chất hình thái và ý nghĩa ngữ pháp
của từ láy.
Từ thế kỷ 21 trở lại đây, những nghiên cứu về từ láy tiếng Trung thường tập

10



trung vào hai loại từ chính là tính từ và động từ, và nghiên cứu tổng hợp các hiện
tượng láy, những nghiên cứu về từ láy của các từ loại khác thường rất ít.
Nghiên cứu về từ láy động từ, giới học thuật đưa ra một số quan điểm sau: 李
人鉴( Lý Nhân Giám)(1964) cho rằng, từ láy động từ chỉ giới hạn dạng AA và bao
gồm dạng ABAB, hiện nay rất nhiều sách giảng dạy về ngữ pháp vẫn giữ quan điểm
này. 范方莲(Phạm Phương Liên)(1964), 刘月华(Lưu Nguyệt Hoa)(1984), 房玉清
( Phòng Ngọc Thanh)(1992) đều chia từ láy động từ thành bốn dạng: AA, A-A, A 了
A và A 了-A. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu khác như 张静(Trương Tĩnh)(1979),
常敬宇(Thường Kính Vũ)(1996), 李宇明(Lý Vũ Minh)(1996) lại cho rằng ngoài
các dạng láy AA, A-A, A 了 A và A 了-A, còn có thêm dạng A 着 A 着 và AABB.
Nghiên cứu về từ láy tính từ, 吕叔湘(Lã Thúc Tương)(1999) cho rằng tính từ
đơn âm tiết có thể láy theo các hình thức AA, ABB và AXYZ ( ví dụ: 黑不溜秋),
tính từ song âm tiết có các hình thức láy AABB, ABAB, A 里 AB. Tuy nhiên, một số
nhà ngôn ngữ học như 江蓝生( Giang Lam Sinh), 石鋟( Thạch Lược) phân từ láy
tính từ thành 5 loại: AA, AABB, ABB, ABAB và A 里 AB. 朱 德 熙 (Chu Đức
Hi)(1979) phân từ láy tiếng Trung thành hai loại: Từ láy hoàn toàn và từ láy không
hoàn toàn. Trong cuốn “语法讲义” (Giảng nghĩa ngữ pháp )(1982), 朱德熙(Chu
Đức Hi) lại chia từ láy tính từ thành các hình thức sau:
+ Từ gốc là tính từ đơn âm tiết A, hình thức láy là “AA 儿的”. Đối với dạng từ
láy này, âm tiết thứ hai luôn mang thanh bằng. Ví dụ: 好 好 儿 的 (Hǎohāor de),
trong đó “儿” và “的” là hậu tố thêm vào đằng sau từ láy.
+Từ gốc là tính từ song âm tiết, có hai hình thức láy là “AABB” và “A 里 AB”.
Trong hai loại từ láy này trọng âm luôn đặt ở âm tiết thứ nhất, âm tiết thứ hai đọc
thành thanh nhẹ, ví dụ: 大大咧咧(dà da liē liē), 慢慢悠悠(màn man yōu yōu).
+Từ gốc là tính từ trạng thái song âm tiết, có hình thức láy là “ABAB”, trọng
âm nằm ở âm tiết đầu tiên. Ví dụ như “通红/碧绿/冰凉” sau khi láy sẽ thành “通红

通红”, “碧绿碧绿”, “冰凉冰凉”.


11


+ Tính từ mang hậu tố láy, có hình thức láy ABB. Ví dụ: 绿油油, 亮晶晶, 香

馥馥, 金灿灿, 美滋滋.
Theo quan điểm của 张拱贵(Trương Củng Qúy)(1997), tiếng Trung có từ láy
âm tính từ như 圆圈圈, 黑点点, 树枝枝,..., có từ láy âm động từ như 尝尝 , 聊

聊天, 说说笑笑,..., cũng có từ láy âm lượng từ như 一朵朵, 一句句, 一串串,....
Xét về mặt ngữ nghĩa, trong cuốn “形 容词 重 叠的 感 情色 彩 ”(Sắc thái tình
cảm của từ láy tính từ)(1979), 朱德熙(Chu Đức Hi) viết rằng: “形容词重叠后的词
语跟原式的词汇意义上一样, 区别在于原式单纯表示属性, 而形容词重叠词带
着说话人的感情在里面, 有喜爱, 有憎恨, 有主观的评价” (Tính từ sau khi láy
và từ gốc có ý nghĩa từ v ng giống nhau, khác nhau ở chỗ từ gốc chỉ đơn thuần biểu
thị thuộc tính, còn tính từ láy mang cảm xúc tình cảm của người nói, có yêu thích,
có hận thù, có đánh giá chủ quan). Tác giả cũng cho rằng từ láy dạng AA khi làm vị
ngữ hoặc định ngữ, có mức độ giảm về mặt ngữ nghĩa so với tính từ gốc, nhưng khi
làm trạng ngữ hoặc bổ ngữ thường biểu thị mức độ tăng lên.
Về mặt ngữ âm, 赵元任(Triệu Nguyên Nhậm)(1968) cho rằng: “重叠作为一
种变化或一种语缀......”( Từ láy là một loại biến đổi hoặc một loại từ tố...). Tác giả
đưa ra các dẫn chứng như: âm tiết thứ hai trong từ láy đơn âm tiết đọc âm bình, âm
uốn lưỡi “儿”, âm tiết sau trong từ láy song âm tiết đọc âm bình. Như vậy có thể
thấy từ láy tiếng Trung cũng chịu s biến đổi về ngữ âm.
Ngoài ra, những nhà ngôn ngữ học nổi tiếng khác của Trung Quốc như 邵敬
敏(Thiệu Kính Mẫn), 李宇明(Lý Vũ Minh) cũng đưa ra các quan điểm về từ láy.
Họ chủ yếu tìm hiểu và phân tích từ láy từ phạm trù phân loại, ngữ âm, ngữ nghĩa
và ngữ pháp.
1.3. Phân biệt từ láy với từ ghép và các loại từ khác
Vấn đề nhận diện, phân biệt từ láy với các loại từ khác cũng trở thành mối

quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và đã có rất nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề
này.
Trong “Từ điển từ láy tiếng Việt” của NXBGD Hà Nội-1995 do Hoàng Văn

12


Hành chủ biên đã xếp những từ: “cào cào, dành dành, bìm bìm, chuồn chuồn, châu
chấu…vào mục từ láy. Những từ tương t như trên cũng xuất hiện trong từ điển mở
Wiktionary mục từ láy tiếng Việt. Tuy nhiên, tác giả Đỗ Hữu Châu trong cuốn “Từ
v ng ngữ nghĩa”-1999 lại cho rằng đây là hiện tượng trung gian giữa từ đơn đa âm
tiết và từ láy.
Trong th c tế, nếu căn cứ vào hình thức, ý nghĩa và sắc thái biểu cảm về cơ
bản chúng ta có thể xác định đúng đơn vị từ láy. Tham khảo quan điểm của giáo sư
Đỗ Hữu Châu - người viết cuốn “Đơn vị từ v ng - ngữ nghĩa tiếng Việt” NXBGD-1999, có những trường hợp từ có hình thức láy cần phân biệt như sau:
Có những trường hợp, ví dụ như từ “cào cào”, giống hệt nhau về “vỏ âm
thanh” nhưng khác nhau về từ loại (“danh từ” và “động từ”) và cũng khác nhau về
cấu tạo (“từ đơn đa âm tiết” và “từ láy”). Cần phân biệt rõ những trường hợp này để
có thể nhận diện từ láy một cách chính xác.
Ở đây chúng tôi chủ yếu tập trung phân loại từ ghép, từ láy là để làm rõ hơn
chức năng, phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt, từ đó có cái nhìn chính xác về các
dạng thức của từ tiếng Việt. Khi cần phân biệt từ láy với từ ghép có nghĩa là chúng
ta đã xác định láy không phải là ghép. Vậy, phương thức láy khác phương thức ghép
ở chỗ nào? Từ láy khác với từ ghép ra sao?
Từ láy và từ ghép có nhiều điểm tương đồng, nếu chúng ta chỉ căn cứ vào mặt
ngữ âm thì rất khó có thể phân biệt được. Vì vậy, để thấy được s khác biệt giữa từ
láy với từ ghép trong tiếng Việt, cần kết hợp đồng thời cả hai mặt ngữ âm và ngữ
nghĩa.
Trong công trình Ngữ pháp tiếng Việt của mình, GS. Nguyễn Tài Cẩn coi từ
láy âm “là loại từ ghép trong đó các thành tố tr c tiếp được kết hợp lại với nhau

chủ yếu là theo quan hệ ngữ âm”. Trong cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”(2001), tiến sĩ
ngôn ngữ học Nguyễn Hữu Quỳnh cho rằng “Từ ghép là những từ do hai hình vị trở
nên cấu tạo thành”, chẳng hạn như nước non, ngọt ngào,… Căn cứ vào phương thức
cấu tạo và quan hệ giữa các thành phần tạo nên từ ghép có thể phân chia từ ghép
thành ba loại lớn: từ ghép nghĩa, từ láy, và từ ghép t do. Để phân biệt từ ghép với
từ láy, chúng tôi l a chọn phân biệt từ ghép nghĩa và từ láy.

13


Từ ghép nghĩa là kiểu từ phổ biến nhất trong các từ ghép tiếng Việt. Nó là
những từ gồm hai hình vị trở lên kết hợp với nhau. Các thành tố tạo nên từ ghép
nghĩa phần lớn là các hình vị có ý nghĩa từ v ng và có khả năng hoạt động độc lập
(thí dụ: nhân dân, bờ bãi, vững chắc, chí khí, dẻo dai,…). Còn trong từ láy, một
thành tố có thể có ý nghĩa từ v ng và một thành tố không có ý nghĩa từ v ng, thành
tố có ý nghĩa từ v ng có thể đứng trước hoặc đứng sau (thí dụ: chim chóc, hay ho,
im lìm, ngậm ngùi, ngập ngừng, lập loè, nhấp nhô,…), hoặc cả hai thành tố đều
không có ý nghĩa từ v ng mà chỉ có ý nghĩa cấu tạo từ (thí dụ: đủng đỉnh, lon ton,
lóng lánh, phau phau, nhởn nhơ,…)
Như vậy về cơ bản chúng ta đã nhận thấy rằng từ láy và từ ghép không hẳn
hoàn toàn khác nhau, bởi vì chung quy loại, từ láy là một hình thức của từ ghép,
song vẫn có thể phân biệt được từ ghép và từ láy thông qua khả năng khu biệt nghĩa
và đăc điểm cấu tạo.
1.4 Phân biệt phương thức láy và phương thức lặp
Như đã nêu ở trên, chúng tôi nhận định từ láy là các từ tạo ra từ phương thức
láy, “là sản phẩm của phương thức láy, nó lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm
tiết với thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo qui tắc biến thanh, là những từ đa
tiết mà giữa các âm tiết có quan hệ ngữ âm”.
Có người cho rằng phương thức láy là phương thức lặp, bởi láy chính là
phương thức lặp lại một bộ phận hoặc lặp lại toàn bộ từ gốc để tạo ra một từ mới, ví

dụ như: tầng tầng, xanh xanh, nhè nhẹ. “Phương thức láy và phương thức lặp đều
được cấu tạo bằng cách lặp lại yếu tố gốc theo quy tắc kết hợp và biến đổi ngữ âm”.
Có nhà nghiên cứu cho rằng hiện tượng lặp và từ láy hoàn toàn có liên quan đến
nhau, bởi vậy thường có xu hướng không phân biệt rõ hai loại phương thức này.
Vậy, phương thức láy và phương thức lặp giống và khác nhau như thế nào?
Xét về mặt ý nghĩa, phương thức láy và phương thức lặp đều có ý nghĩa tương
đối giống nhau, phương thức láy có vai trò tạo những giá trị gợi âm thanh, hình ảnh
và giá trị biểu cảm, còn việc sử dụng phương thức lặp cũng làm câu văn trở nên có
nhịp điệu, tính nhạc và tính thơ.
Tuy nhiên xét về mặt cấu tạo, hai phương thức này lại hoàn toàn khác nhau:

14


Phương thức láy là việc lặp lại (1 hoặc 2 lần) một bộ phận hoặc toàn bộ từ gốc
( từ căn) nhằm thể hiện ý nghĩa ngữ pháp hoặc để tạo ra một đơn vị từ v ng khác.
Ví dụ: từ gốc “nhà” thông qua phương thức láy sẽ trở thành “nhà nhà”- lúc này nó
mang một ý nghĩa ngữ pháp mới là “nhiều nhà”, hay ví dụ từ “tím” thông qua
phương thức láy sẽ tạo thành “tim tím”, có nghĩa là “hơi tím”. Phương thức láy đã
giúp cho đơn vị từ trở nên sinh động, góp phần làm phong phú thêm vốn từ v ng, từ
một hình vị gốc, chúng ta có thể tạo ra nhiều từ mang sắc thái ý nghĩa khác nhau.
Phương thức lặp là việc lặp lại những yếu tố ngữ âm trong kết ngôn như: âm
tiết, số lượng âm tiết, phụ âm đầu, vần, thanh điệu..v.v đã có ở chủ ngôn, trong đó
yếu tố chủ và yếu tố lặp đều là những yếu tố ngữ âm. Phương thức lặp cũng có thể
là lặp lại từ ngữ pháp và cấu trúc ngữ pháp để tạo s liên kết giữa các phát ngôn.
Trong các tác phẩm thi ca, các tác giả thường sử dụng phương thức lặp ngữ âm
để tạo ra các thể thơ khác nhau. Ví dụ như đoạn thơ dưới đây đã sử dụng phương
pháp lặp số lượng âm tiết, lặp vần:
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
(Ca dao)
Hay :
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
( Đoàn Thị Điểm- Chinh phụ ngâm)
Hai câu thơ trên tác giả đã sử dụng phương thức lặp vần để tạo s liên kết giữa
các câu thơ. Đây là phương thức lặp rất phổ biến trong thơ ca, tuy nhiên các vần có
thể được lặp lại hoàn toàn, cũng có thể chỉ lặp một phần theo nguyên tắc về luật hài
âm.
Ngoài ra, để kết nối giữa hai phát ngôn khác nhau, người ta thường sử dụng
phương thức lặp từ ngữ pháp và lặp cấu trúc ngữ pháp (hai phương thức này gọi
chung là lặp ngữ pháp). Ví dụ:

15


“Từng ngày, mẹ thầm đoán con đã đi đến đâu. Từng giờ, mẹ thầm hỏi con
đang làm gì.”( Nguyễn Thị Như Trang- Tiếng mưa)
“Họ hào phóng, họ thương yêu, họ hiếu khách lạ lùng.
Họ sôi nổi và lạc quan lạ lùng.”
(Chu Cẩm Phong – Mặt biển, mặt trận)
Để tăng thêm tính liên kết giữa các câu văn hay các phát ngôn, người ta thường
kết hợp phương thức lặp ngữ pháp với lặp cấu trúc ngữ pháp, và tất nhiên cũng có
thể kết hợp cả phương thức lặp ngữ âm.
Từ những phân tích và các ví dụ trên, chúng ta có thể thấy rõ s khác nhau
giữa phương thức lặp và phương thức láy. Việc phân biệt hai phương thức này giúp
ta có cái nhìn chuẩn xác hơn về từ láy.
Tiểu kết:

Chương này đã nêu ra một số nghiên cứu về từ láy, về s biến đổi của tên gọi,
cách phân loại của từ láy cũng như định nghĩa từ láy của một số nhà ngôn ngữ học
trong tiếng Việt, đồng thời đưa ra một số quan điểm của các nhà ngôn ngữ học
Trung Quốc về từ láy. Họ đã đưa ra khá nhiều quan điểm khác nhau về từ láy. Tuy
nhiên, ngoài những điểm khác đó vẫn có những ý kiến thống nhất. Ngoài ra theo
Việt ngữ học, cơ sở cho việc phân định từ loại phải d a trên tiêu chuẩn về ý nghĩa,
về khả năng kết hợp và chức năng cú pháp. D a trên cơ sở đó chúng tôi đã tiến
hành phân biệt từ láy với từ ghép và một số loại từ khác, phân biệt hình thức láy với
hình thức lặp và tiến hành khảo sát và thống kê số lượng từ láy của cả hai ngôn ngữ
này.
Thông qua so sánh và tổng hợp những quan điểm của các nhà ngôn ngữ học
Việt Nam và Trung Quốc, chúng tôi lấy định nghĩa “Từ láy là những từ được cấu
tạo theo phương thức láy, là sản phẩm của phương thức láy, nó lặp lại toàn bộ hay
bộ phận hình thức âm tiết với thanh điệu giữ nguyên hay biến đổi theo qui tắc biến
thanh, là những từ đa tiết mà giữa các âm tiết có quan hệ ngữ âm, có giá trị biểu
trưng hóa và có tác dụng tạo nghĩa” để triển khai những nội dung trong luận văn .
Nhìn chung, những nghiên cứu về từ láy trong ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng

16


Trung đều khá đầy đủ, nhưng đa số tập trung vào mặt ngữ pháp, về mặt từ v ng của
từng ngôn ngữ. Những nghiên cứu so sánh điểm tương đồng và khác biệt giữa hai
ngôn ngữ hay có liên quan đến từ láy để phục vụ cho việc dạy và học cho người
Trung học tiếng Việt và cho người Việt học tiếng Trung cũng rất hiếm. Nghiên cứu
của những người đi trước sẽ cung cấp căn cứ lý luận quan trọng để chúng tôi tiến
hành so sánh về mặt kết cấu, ngữ âm và ngữ nghĩa của từ láy tiếng Việt và tiếng
Trung.

17



CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG
2.1. Hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung
Từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung là một bộ phận từ v ng phổ biến và
thường xuyên được sử dụng. Các kết cấu, loại hình, quy luật của từ láy tiếng Việt và
tiếng Trung đều phong phú đa dạng và khá phức tạp. Khi tạo câu, tạo lời, người
Việt và người Trung rất chú ý đến s hài hoà về ngữ âm, đến nhạc điệu của câu
văn. Vì vậy, để hiểu hơn về từ láy tiếng Việt và tiếng Trung, trước hết người viết
giới thiệu qua về hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung, để chúng tôi có
cái nhìn rõ hơn về nền tảng ngữ âm của từ láy.
2.1.1. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt
m tiết tiếng Việt gồm 3 bộ phận chính: phần đầu, phần sau và thanh điệu.
Phần đầu của âm tiết được xác định là

m đầu, vì ở vị trí này chỉ có một âm vị

tham gia cấu tạo. Phần sau của âm tiết được gọi là phần Vần.
2.1.1.1. m đầu
m đầu đứng vị trí đầu tiên trong âm tiết, có chức năng mở đầu âm tiết. Những
âm tiết mà chính tả không có âm đầu như an, ấm, im,... được mở đầu bằng động tác
khép kín khe thanh, sau đó mở ra đột ngột gây nên một tiếng bật. Động tác mở đầu
ấy có giá trị như một phụ âm và người ta gọi là âm tắc thanh hầu. Như vậy, âm tiết
trong tiếng Việt luôn luôn có mặt âm đầu (phụ âm đầu). Trong tiếng Việt có tổng
cộng có 22 phụ âm được thể hiện bằng láy từ và một phụ âm không có hình thức
biểu hiện (phụ âm tắc thanh hầu).
2.1.1.2. Vần
Trong tiếng việt có 9 vần đơn, cụ thể có bao nhiêu vần phức thì tới giờ vẫn
chưa có ý kiến thống nhất. Theo thống kê của Hoàng Phê, tiếng Việt gồm 148 vần

phức, và 9 vần đơn, tổng cộng có 157 vần (Hoàng Phê 1996). Một vần phức hoàn
chỉnh bao gồm 3 phần là âm đệm, âm chính và âm cuối.

m đệm và âm chính đều

là nguyên âm, âm cuối có thể là bán nguyên âm cũng có thể là phụ âm. Trong tiếng
Trung chỉ có phụ âm đóng vai trò làm âm cuối là -n và -ng, nhưng trong tiếng Việt
lại có đến 8 phụ âm âm cuối là: -n, -ng, -m, -nh, -t, -c, -p, -ch.

18


2.1.1.3. Thanh điệu
Thanh điệu là một yếu tố thể hiện độ cao và s chuyển biến của độ cao trong
mỗi âm tiết. Mỗi âm tiết tiếng Việt nhất thiết phải được thể hiện với một thanh điệu.
Về vị trí, thanh điệu nằm trong cả quá trình phát âm của âm tiết (nằm trên toàn
bộ âm tiết). Dưới đây là hệ thống các thanh điệu trong tiếng Việt:
– Thanh 1: Thanh ngang (không được ghi trên chữ viết nên còn gọi là thanh
không dấu), xuất hiện trong tất cả các âm tiết, trừ âm tiết khép. Ví dụ: cây xanh,
mưa xuân, hoa lan. Trừ các âm tiết như: cach, bat, mac,...
– Thanh 2: Thanh huyền [ghi bằng dấu huyền ( ` ) ], thấp hơn thanh ngang một
bậc. Thanh này có thể xuất hiện trong các âm tiết không phải là âm tiết khép, ví dụ:
hoàn, bằng, nhà, tìm,...
– Thanh 3: Thanh ngã [ghi bằng dấu ngã ( ~ ) ] là thanh điệu thuộc âm v c cao
(bắt đầu thấp hơn và kết thúc cao hơn), có thêm động tắc nghẽn thanh hầu.Thanh
ngã không thể xuất hiện trong các âm tiết khép. Ví dụ: nhã, mãn nhãn, sừng sững,
lã chã,...
– Thanh 4: Thanh hỏi [ghi bằng dấu hỏi (

)] là thanh điệu thuộc âm v c thấp.


Khi phát âm, điểm bắt đầu và kết thúc thanh điệu đều ở âm v c thấp. Thanh này
xuất hiện trong tất cả các âm tiết không phải là âm tiết khép. Ví dụ: mỏi, chuyển
động, thủy sản,...
– Thanh 5: Thanh sắc [ghi bằng dấu sắc ( ´ )] là thanh điệu thuộc âm v c cao.
Khi phát âm, điểm xuất phát thấp hơn thanh ngang một chút và điểm kết thúc ở âm
v c cao. Ngoài ra, khi kết thúc còn phải có thêm động tác nghẽn thanh hầu. Thanh
này có thể xuất hiện trong tất cả các kiểu âm tiết. Ví dụ: chó má, nắn nót, chính thức,
sáng sớm,...
– Thanh 6: Thanh nặng [ghi bằng dấu nặng ( . )], là thanh điệu thuộc âm v c
thấp. Khi phát âm, điểm xuất phát gần với độ cao xuất phát của thanh huyền nhưng
kết thúc đột ngột ở độ cao thấp hơn. Thanh nặng xuất hiện ở tất cả các kiểu âm tiết.
Ví dụ: học tập, chợ xuân, lợi nhuận, nặng nhọc, trục trặc,...
2.1.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Trung
m tiết của tiếng Trung chủ yếu do ba bộ phận thanh mẫu, vận mẫu và thanh

19


điệu tạo nên. Thanh mẫu tiếng Trung được sắp xếp theo vị trí phát âm và cách phát
âm, nó đứng ở vị trí đầu tiên của một âm tiết, ở vị trí này chỉ có một âm vị tham gia
cấu tạo. Còn phần sau của thanh mẫu được coi là vận mẫu, trong một âm tiết có thể
vắng mặt thanh mẫu, nhưng nhất thiết phải có vận mẫu.
2.1.2.1. Thanh mẫu
Thanh mẫu đứng ở ví trí đầu tiên của một âm tiết, có chức năng mở đầu âm tiết.
Thanh mẫu thường do phụ âm đảm nhiệm, được gọi là phụ âm đầu, cũng giống như
những âm đầu trong tiếng Việt, tiếng Trung có những âm tiết chính tả không ghi âm
đầu hoặc ghi âm bằng bán nguyên âm như ai, an, en, yi, yu,... Những âm tiết vừa
nêu trên thì không được ghi lại trên chữ viết, vị trí xuất hiện của nó trong âm tiết là
ero, nó thể hiện bằng s vắng mặt của chữ viết, những thanh mẫu như thế này

chúng ta thường gọi là thanh mẫu không. Trong tiếng Trung có 21 thanh mẫu cơ
bản.
2.1.2.2. Vận mẫu
Vận mẫu là âm tố đứng sau thanh mẫu trong một âm tiết, nó có thể là một
nguyên âm, có thể là tổ hợp của nguyên âm, cũng có thể là s tổ hợp của nguyên âm
và phụ âm. Trong tiếng Trung tổng cộng có 35 vận mẫu, căn cứ vào cấu thành của
nó có thể chia các vận mẫu thành 4 nhóm: vận mẫu đơn, vận mẫu kép, vận mẫu đặc
biệt và vận mẫu mũi.
2.1.2.3. Thanh điệu
Thanh điệu trong tiếng Việt và tiếng Trung có tác dụng giống nhau, đều được
thể hiện cùng với toàn bộ âm tiết, nhưng khác nhau về số lượng và hình thức biểu
hiện cũng như đánh dấu. Tiếng Trung gồm có 4 thanh điệu chính là: âm bình( thanh
1), dương bình( thanh 2), thượng thanh(thanh 3) và khứ thanh( thanh 4).
-Thanh 1: còn gọi là "âm bình", ký hiệu trong bính âm là " ¯ ". Nó là thanh cao,
rất đều, trong quá trình kéo dài không có biến đổi. Ví dụ: yī, yā, yīn, xiān, xīng,
shēng, huāng,...
-Thanh 2: còn gọi là "dương bình", ký hiệu trong bính âm là " ´ ". Nó là thanh
cao, đều, từ thấp lên cao. Ví dụ: qí, xué, jiá, chá, quán, xiáng,...
-Thanh 3: còn gọi là "thượng thanh", ký hiệu trong bính âm là " ˇ ". Nó là

20


×