Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ TUYẾT TRINH

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH

VÕ THỊ TUYẾT TRINH

HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ


Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Mã ngành: 60.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: TS.Lê Hồ An Châu

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2017


Tóm tắt
Trong nghiên cứu này, tác giả đo lường hiệu quả hoạt động của 28 ngân hàng thương
mại tại Việt Nam dựa trên cách tiếp cận chỉ số Malmquist. Phương pháp này bổ sung
cho các thước đo truyền thống phổ biến hiện tại như ROA và ROE. Kết quả nghiên
cứu cho thấy hiệu quả kỹ thuật bình quân của các NHTM trong giai đoạn 2011-2016
đạt 0,885. Hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng thời kỳ 2011-2016 giảm. Tiếp
đến, nghiên cứu đo lường các nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động thông qua mô
hình hồi quy Tobit. Kết quả ước lượng cho thấy các yếu tố quy mô, rủi ro tín dụng, sở
hữu nhà nước, chu kì kinh tế và mua bán sáp nhập có ảnh hưởng có ý nghĩa đến hiệu
quả hoạt động ngân hàng.
Lời cam đoan
Luận văn này chưa từng được trình nộp để lấy học vị thạc sĩ tại bất cứ một trường đại
học nào. Luận văn này là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả nghiên cứu
là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây hoặc các nội
dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong
luận văn.
Lời cám ơn
Tôi gửi lời cảm ơn chân thành tới TS.Lê Hồ An Châu - hướng dẫn khoa học, các thầy
cô giáo tại trường Đại học Ngân hàng TP.HCM là những người đã giúp đỡ, ủng hộ tôi
trong suốt thời gian thực hiện luận văn.



Mục lục
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ...........................................................................1
1.1. Bối cảnh nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài: ..............................................1
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu .........................................................................2
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .....................................................................3
1.4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................3
1.5. Những đóng góp của đề tài ................................................................................3
1.6. Kết cấu của đề tài ...............................................................................................3
CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ...4
2.1 Cơ sở lý thuyết về hiệu quả hoạt động của ngân hàng ......................................4
2.1.1 Khái niệm hiệu quả của ngân hàng thương mại .............................................4
2.1.2 Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại ..5
2.1.2.1 Phương pháp đánh giá truyền thống: ...........................................................5
2.1.2.2 Phương pháp phân tích hiệu quả biên: cách tiếp cận tham số (SFA) và phi
tham số (DEA) .........................................................................................................9
2.2 Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động và các yếu tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM ................................................................................................10
Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ..................................17
3.1 Dữ liệu nghiên cứu ...........................................................................................17
3.2 Phương pháp nghiên cứu .................................................................................17
3.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA ...................................................17
3.2.2 Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM
Việt Nam bằng hồi quy Tobit ................................................................................23
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................29
4.1 Khái quát chung về tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam....................................................................................................................29
4.2 Phân tích thực nghiệm các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các
NHTM Việt Nam .......................................................................................................35
4.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA ...................................................35

4.2.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam 42
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH .........................................47
5.1 Kết luận ............................................................................................................47
5.2 Hàm ý chính sách .............................................................................................47
5.2.1 Gợi ý đối với các ngân hàng thương mại ...................................................47
5.2.2 Gợi ý chính sách đối với Ngân hàng Nhà nước .........................................49
5.3 Hạn chế của đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..........................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................1


Danh mục chữ viết tắt
Viết tắt

Viết đầy đủ

AE

Hiệu quả phân bổ

ASSET

Quy mô

CRS

Hiệu quả không đổi theo quy mô

DEA

Phương pháp phân tích bao dữ liệu


DMU

Đơn vị ra quyết định

EE

Hiệu quả kinh tế tổng hợp

EFCH

Thay đổi hiệu quả kỹ thuật

FOREIGN

Sở hữu nước ngoài

GDPGR

Tốc độ tăng trưởng GDP thực

GOVERNMENT Sở hữu nhà nước
M&A

Mua bán và sáp nhập

NHTM

Ngân hàng thương mại


PECH

Thay đổi hiệu quả kỹ thuật thuần

Efficiency

Hiệu quả hoạt động của ngân hàng

PPF

Đường giới hạn khả năng sản xuất

RISK

Rủi ro tín dụng

SECH

Thay đổi hiệu quả quy mô

TCTD

Tổ chức tín dụng

TE

Hiệu quả kỹ thuật

TECHCH


Thay đổi công nghệ

TFPCH

Thay đổi năng suất nhân tố tổng hợp

VRS

Hiệu quả thay đổi theo quy mô


Danh mục bảng
Bảng 4.1: Mô tả thống kê các biến mô hình DEA ........................................... 35
Bảng 4.2 Hiệu quả kỹ thuật (TE) và hiệu quả kỹ thuật thuần (PE) của toàn bộ
mẫu và các nhóm ngân hàng thuộc các loại hình sở hữu khác nhau. .............. 36
Bảng 4.3: Hiệu quả chi phí thay đổi theo quy mô ........................................... 37
Bảng 4.4: Hiệu quả kỹ thuật không đổi theo quy mô, hiệu quả kỹ thuật thay
đổi theo quy mô và hiệu quả quy mô. .............................................................. 38
Bảng 4.5. Chỉ số Malmquist bình quân thời kỳ 2011-2016 ............................. 39
Bảng 4.6: Mô tả thống kê các yếu tố mô hình Tobit. ...................................... 42
Bảng 4.7. Kết quả ước lượng mô hình Tobit phân tích các yếu tố tác động đến
hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam ............................................. 42


Danh mục hình
Hình 3.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất ứng với hai hàng hóa H1 và H2
trường hợp tối đa hóa đầu ra. .......................................................................... 18
Hình 3.2: Đường PPF trong trường hợp tối thiểu hóa đầu vào. ..................... 18
Hình 3.3. Hiệu quả không đổi/thay đổi theo quy mô....................................... 19
Hình 3.4. Chỉ số Malmquist TFP đầu ra .......................................................... 21

Hình 4.1: Thị phần huy động và cho vay ước tính đến cuối năm 2016. .......... 29
Hình 4.2: Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế thể hiện tốc độ tăng giảm ........ 30
Hình 4.3: Tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm 2016-2017 ......................... 31
Hình 4.4: Tỷ giá USD/VND ............................................................................ 32
Hình 4.5: Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng theo quý ............................ 33


CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1. Bối cảnh nghiên cứu và tính cấp thiết của đề tài:
Trong những năm qua, hệ thống ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng vào
quá trình đổi mới và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngành Ngân hàng Việt Nam không
ngừng phát triển và từng bước đổi mới, hoàn thiện về mô hình tổ chức, cơ chế hoạt
động, cũng như công tác quản lý điều hành, công nghệ và dịch vụ ngân hàng; nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế trong hoạt động tiền tệ; hệ thống giám sát an toàn
ngày càng hoàn thiện; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng được mở rộng và phát
triển, góp phần thu hút các nguồn lực quốc tế để phát triển kinh tế đất nước, đóng góp
quan trọng vào việc kiểm soát lạm phát, “vàng hóa” và “đô la hóa”; ổn định kinh tế vĩ
mô, hỗ trợ phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng, đáp ứng hiệu quả các nhu cầu về vốn,
phục vụ sản xuất, kinh doanh; hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng có bước phát triển mạnh mẽ về quy mô và mạng
lưới, loại hình sở hữu, công nghệ, dịch vụ, ngày càng thực hiện tốt hơn vai trò huyết
mạch trong nền kinh tế, đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay vẫn còn nhiều tồn tại và trở
thành thách thức trong thời kỳ hội nhập. Với việc ngày càng hội nhập với nền kinh tế
thế giới, Việt Nam cam kết cho phép các tổ chức tài chính nước ngoài được cung cấp
dịch vụ tài chính, sức ép cạnh tranh từ các ngân hàng nước ngoài đã hiện diện tại Việt
Nam ngày càng lớn đặt ra vấn đề cần quan tâm về chất lượng hoạt động của hệ thống
ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động cần được nhận dạng và đánh giá nhằm tìm ra những giải pháp hoàn thiện và tăng
cường hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của hệ thống NHTM giúp cho ngành ngân

hàng Việt Nam phát triển nhanh chóng và bền vững, từng bước cạnh tranh và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các
NHTM, trong thời gian qua đã có một số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu về
vấn đề này. Nghiên cứu của Lê Hoàng Nga (2007) chỉ dừng lại ở phân tích định tính,
nghiên cứu định lượng của Võ Thành Danh và Liễu Thu Trúc (2012) chưa đề cập đến
các nhân tố tác động nào đến hiệu quả hoạt động và thời gian nghiên cứu khá ngắn từ
2006 – 2009. Nguyễn Quang Khải (2016) sử dụng phương pháp phân tích bao dữ liệu
(DEA) đánh giá hoạt động của các NHTM Việt Nam, tuy nhiên tác giả chưa đo lường
1


cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ hiệu quả. Phân tích
các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt Nam trong thời
kỳ hội nhập tài chính quốc tế của Trần Huy Hoàng và Nguyễn Hữu Huân (2016) chưa
đánh giá hiệu quả của việc mua bán và sáp nhập (M&A) lên hiệu quả hoạt động. Do
đó luận văn này đo lường cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến
mức độ hiệu quả có xem xét đến tác động của M&A và tác động phi tuyến của quy
mô.
Qua phân tích ở trên có thể nói, hiện nay việc xem xét một cách tổng thể về hiệu
quả hoạt động hiện tại và xác định những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của các NHTM ở Việt Nam là quan trọng và có giá trị cho các nhà hoạch định chính
sách, nhà quản trị ngân hàng và nhà đầu tư trong việc ra quyết định nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế, hiệu quả đầu tư. Xuất phát từ những đòi hỏi mang tính khoa học và
thực tiễn đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Hiệu quả hoạt động và các nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam’’ làm đề tài nghiên cứu.
1.2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
-


Đo lường hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam từ 2011-2016 và
so sánh sự khác biệt giữa các nhóm NHTM có hình thức sở hữu khác nhau.

-

Phân tích các yếu tố vĩ mô và đặc thù của ngân hàng tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016.

1.2.2 Câu hỏi nghiên cứu:
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu của luận văn, các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra
như sau:
-

Hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2011 – 2016 như
thế nào? Có sự khác biệt về hiệu quả hoạt động của các nhóm NHTM có
hình thức sở hữu khác nhau hay không?

-

Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt
Nam?

2


1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: hiệu quả hoạt động, thể hiện ở khả năng ngân hàng sử dụng
các yếu tố đầu vào để tạo đầu ra hiệu quả và các yếu tố vĩ mô và vi mô ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động này của các NHTM Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: 28 NHTM tại Việt Nam, gồm 3 NHTM nhà nước, 23 NHTM

cổ phần và 2 ngân hàng liên doanh trong giai đoạn nghiên cứu là 6 năm từ năm 2011
đến năm 2016.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Để phù hợp với nội dung, yêu cầu và mục đích mà luận văn đề ra, luận văn sử dụng
phương pháp phân tích định lượng gồm phương pháp DEA và mô hình Tobit để đánh
giá hiệu quả hoạt động và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
NHTM tại Việt Nam.
Dữ liệu của luận văn được thu thập thông qua báo cáo của NHNN và báo cáo
thường niên của 28 NHTM Việt Nam giai đoạn 2011-2016.
1.5. Những đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần bổ sung bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả hoạt động và các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu
có chọn lọc một số quan điểm cơ bản của các tác giả trên thế giới qua các công trình
nghiên cứu thực nghiệm. Điểm mới và khác biệt của luận văn này so với các nghiên
cứu trước ở Việt Nam là có xem xét đến yếu tố M&A và tác động phi tuyến của quy
mô đến hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Kết quả nghiên cứu của đề tài chỉ ra những yếu tố nào thật sự tác động đến hiệu
quả hoạt động ngân hàng của các NHTM Việt Nam, mức độ tác động của các yếu tố
đó, từ đó giúp các nhà quản trị ngân hàng đề ra các chính sách, chiến lược nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động tại các NHTM Việt Nam.
1.6. Kết cấu của đề tài
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương 2. Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm về hiệu quả hoạt động
của ngân hàng
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Chương 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5. Kết luận và hàm ý chính sách
3



CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC
NGHIỆM VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1 Cơ sở lý thuyết về hiệu quả hoạt động của ngân hàng
2.1.1 Khái niệm hiệu quả của ngân hàng thương mại
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực kinh tế,
kỹ thuật, xã hội. Theo Samerelson và Nordhaus thì: “hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã
hội không thể tăng sản lượng một loạt hàng hoá mà không cắt giảm một loạt sản lượng
hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của
nó”. Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các
nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất
trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao.
Một số quan điểm lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra để có được kết quả đó. Điển hình cho quan điểm này là
Manfred Kuhn, theo đó: “Tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo
đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh”. Đây là quan điểm được nhiều nhà kinh tế
và quản trị kinh doanh áp dụng vào tính hiệu quả kinh tế của các quá trình kinh tế.
Quan điểm này chỉ rõ trình độ sử dụng các nguồn lực sản xuất càng cao, doanh
nghiệp càng có khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc
độ tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào. Đây là
điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp đạt được mục tiêu lợi nhuận tối đa. Do đó xét
trên phương diện lý luận và thực tiễn, phạm trù hiệu quả sản xuất kinh doanh đóng vai
trò rất quan trọng trong việc đánh giá, so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải
pháp tối ưu nhất, đưa ra phương pháp đúng đắn nhất để đạt được mục tiêu lợi nhuận
tối đa. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm trù hiệu quả
không chỉ được sử dụng ở giác độ tổng hợp, đánh giá chung trình độ sử dụng tổng hợp
các nguồn lực đầu vào trong phạm vi hoạt động của toàn doanh nghiệp, mà còn sử
dụng để đánh giá trình độ sử dụng của từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận cấu thành của
doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả kinh doanh tức là đã nâng cao khả năng sử dụng các
nguồn lực có hạn trong sản xuất, đạt được sự lựa chọn tối ưu. Trong điều kiện khan

hiếm các nguồn lực sản xuất thì nâng cao hiệu quả kinh doanh là điều kiện không thể
không đặt ra đối với bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào.
4


Hai tác giả Whohe và Doring lại đưa ra hai khái niệm về hiệu quả kinh tế. Đó là
hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị giá trị.
Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. “Mối quan hệ tỷ lệ giữa sản
lượng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg...) và lượng các nhân tố đầu vào (giờ lao
động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu...) được gọi là tính hiệu quả có tính chất kỹ thuật
hay hiện vật”, “Mối quan hệ tỷ lệ giữa chi phí kinh doanh phải chỉ ra trong điều kiện
thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế phải chi ra được gọi là tính hiệu quả xét về
mặt giá trị” và “Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị người ta còn hình thành tỷ lệ
giữa sản lượng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào tính bằng tiền”. Khái niệm hiệu
quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật của hai ông chính là năng suất lao động, máy
móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tư, còn hiệu quả tính bằng giá trị là hiệu quả của
hoạt động quản trị chi phí.
Quan điểm về hiệu quả là đa dạng, tùy theo mục đích nghiên cứu có thể xét hiệu
quả theo những khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, xuất phát từ những hạn chế về thời
gian và nguồn số liệu, do vậy quan điểm về hiệu quả mà luận văn sử dụng để đánh giá
hiệu quả hoạt động của các NHTM là dựa trên tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế,
thể hiện là khả năng biến các đầu vào thành các đầu ra trong hoạt động kinh doanh của
NHTM.
2.1.2 Các phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động của ngân hàng
thương mại
2.1.2.1 Phương pháp đánh giá truyền thống:
a, Các chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lời: Các chỉ tiêu quan trọng nhất đo lường
khả năng sinh lời của ngân hàng được sử dụng hiện nay gồm tỷ lệ thu nhập trên vốn
chủ sở hữu (ROE), tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA), tỷ lệ thu nhập lãi cận biên
(NIM), tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NOM), tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên

(TNHĐB), hệ số thu nhập trên cổ phiếu (EPS).
Mỗi tỷ lệ đo lường khả năng sinh lời được sử dụng trong từng trường hợp khác
nhau. ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý, chỉ ra khả năng của ngân
hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Ngược lại,
ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, thể hiện
thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Tỷ lệ thu nhập hoạt
động cận biên, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên là các
5


thước đo tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời. Chúng chỉ ra năng lực trong việc
duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu là thu từ các khoản cho vay, đầu tư
và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi phí trả lãi cho tiền gửi,
những khoản vay trên thị trường tiền tệ, tiền lương nhân viên và phúc lợi). Tỷ lệ thu
nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân
hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo
đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo
lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch
vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa,
bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng).
Một biện pháp đo lường hiệu quả chỉ tiêu thu nhập truyền thống khác mà các nhà
quản lý sử dụng điều hành ngân hàng là chênh lệch lãi suất bình quân (hay chênh lệch
lãi suất đầu vào và đầu ra), được tính như sau:
Tỷ lệ chênh lệch lãi suất bình quân = Thu từ lãi/Tổng tài sản sinh lời – Tổng chi
phí trả lãi/Tổng nguồn vốn phải trả lãi.
Chỉ tiêu này đo lường hiệu quả đối với hoạt động trung gian của ngân hàng trong
quá trình huy động vốn và cho vay, đồng thời nó cũng đo lường cường độ cạnh tranh
trong thị trường ngân hàng. Sự cạnh tranh gay gắt có xu hướng thu hẹp mức chênh
lệch lãi suất bình quân.
Ngoài những chỉ tiêu trên còn có các chỉ tiêu khác như: thu nhập cận biên trước

những giao dịch đặc biệt (NRST), tỷ lệ tài sản sinh lời, tỷ lệ sinh lời hoạt động (NPM),
tỷ lệ hiệu quả sư dụng tài sản (AU)… Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh, các nhà
quản lý có thể vận dụng trong những trường hợp riêng cho phù hợp.
b, Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro: Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, rủi ro lãi suất…) bổ sung cho các chỉ tiêu phản ánh sinh lời nhằm phản
ánh đầy đủ kết quả kinh doanh của ngân hàng trong một thời kỳ như:
-

Nợ có vấn đề/Dư nợ

-

Nợ quá hạn/Dư nợ

-

Nợ quá hạn /Vốn chủ sở hữu

-

Ngân quỹ/Nguồn ngắn hạn

-

Tài sản nhạy cảm/Nguồn vốn nhạy cảm

-

Nợ/Vốn chủ sở hữu
6



Nếu ngân hàng theo đuổi các khoản đầu tư mạo hiểm, có thể tỷ lệ sinh lời hiện tại
sẽ cao hơn. Tuy nhiên, nếu tổn thất xảy ra (thường qua một thời gian nhất định), sinh
lời của ngân hàng sẽ giảm sút, thậm chí có thể ngân hàng sẽ bị phá sản. Do vậy, thời
kỳ này rủi ro cao có thể gây ra tổn thất kỳ sau, làm giảm khả năng sinh lời kỳ sau. Tỷ
lệ Nợ/Vốn chủ sở hữu càng cao, tỷ lệ sinh lời ROE càng lớn, song khả năng chống đỡ
với những tổn thất của ngân hàng càng kém. Tỷ lệ Tài sản nhạy cảm/Nguồn vốn nhạy
cảm phản ánh rủi ro lãi suất khi lãi suất thay đổi theo hướng bất lợi cho ngân hàng.
Tuy nhiên, khi lãi suất thay đổi theo hướng có lợi hoặc không thay đổi, thu nhập của
ngân hàng sẽ gia tăng.
c, Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng: Điển hình của hoạt động trong ngân
hàng là hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
khác nhau và là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự
thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá
trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng được đánh giá theo một số chỉ tiêu cơ
bản sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn: là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở
một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm. Xét về mặt bản
chất, tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng hoàn trả của người vay) là
yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay
không được hoàn trả đúng hẹn như đã cam kết mà không có lý do chính đáng thì nó đã
vi phạm nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ
quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất thông thường. Trong nền kinh tế thị trường, rủi ro
trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn của NHTM là tất yếu.
Song, nếu một NHTM có nhiều khoản nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh
doanh vì sẽ có nguy cơ mất vốn, mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập. NHTM
nào có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp. Đây là chỉ
tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng tín dụng của
NHTM.

Cơ cấu vốn đầu tư: Một trong các chỉ tiêu khi xem xét và đánh giá chất lượng tín
dụng của các NHTM là chỉ tiêu cơ cấu vốn đầu tư. Việc phân tích cơ cấu vốn đầu tư
chính là việc xem xét đánh giá tỷ trọng cho vay đã phù hợp với khả năng đáp ứng của
bản thân ngân hàng cũng như đòi hỏi về vốn của nền kinh tế chưa. Trên cơ sở đó, các
7


NHTM có thể quyết định quy mô, tỷ trọng đầu tư vào các lĩnh vực một cách hợp lý để
vừa bảo đảm an toàn vốn cho vay vừa có thể thu lợi nhuận cao nhất.
Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay: Nếu xét về bản chất tín dụng, thì
nguồn trả nợ cho ngân hàng của người vay về nguyên tắc là được trích ra từ phần thu
nhập do hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Tuy vậy, có nhiều trường hợp
do sử dụng vốn kém hiệu quả, bị mất vốn (sản xuất kinh doanh thua lỗ, phá sản...) nên
người vay phải bán tài sản (có thể tự nguyện hoặc bắt buộc) để trả nợ ngân hàng. Số
tiền bán tài sản có thể đủ để trả nợ, nhưng cũng có thể chỉ trả được một phần nợ vay,
song trong trường hợp nào thì vẫn có thể đánh giá là chất lượng tín dụng thấp.
Vòng quay vốn tín dụng: đây là một chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán
hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng
trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa ba lợi ích: Nhà
nước, khách hàng và ngân hàng. Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín
dụng (thường là một năm). Hệ số này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý
vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao.
Phân loại tài sản Có: Trong thực tế, việc xem xét phân loại tài sản Có thường được
các NHTM rất chú ý quan tâm. Tài sản Có của ngân hàng là kết quả của việc sử dụng
vốn của ngân hàng đó, những tài sản Có đem lại thu nhập, tức là tài sản thu được lãi,
giúp cho ngân hàng tạo lợi nhuận. Mục đích của việc quản lý tài sản Có của ngân hàng
là nhằm để làm cực đại lợi nhuận của mình, một ngân hàng phải tìm kiếm những lợi
tức cao nhất có thể có của vốn cho vay và của chứng khoán. Đồng thời giảm đến tối
thiểu rủi ro và chuẩn bị đầy đủ cho trạng thái thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài
sản “lỏng”.

Tóm lại, trong phân tích hoạt động kinh doanh của các NHTM hiện nay, các tỷ số
tài chính vẫn được sử dụng khá phổ biến vì chúng khá đơn giản và tương đối dễ dàng
tính toán dựa trên thông tin được công bố. Sinkey (1983) cho rằng phương pháp đo
lường tốt nhất hiệu quả tổng thể của một công ty hoặc ngân hàng là tỷ số khả năng
sinh lời ROE và ROA. Mặc dù có lợi thế rõ ràng và được sử dụng rộng rãi, các tỷ số
khả năng sinh lời này không phải không có những hạn chế. Chỉ số ROA và ROE chỉ
dựa trên một thước đo duy nhất là lợi nhuận hoạt động trong khi đó các khoản chi phí
và các khoản thu không được xem xét đến. Ví dụ, các ngân hàng thực hiện các nhiệm
vụ đa chiều, phát sinh các loại chi phí khác nhau và tạo ra các khoản thu khác nhau. Vì
8


ROA và ROE đều dựa trên một thước đo duy nhất là lợi nhuận hoạt động, nên chúng
chỉ là thước đo một chiều. Do đó, có nguy cơ các tỷ số khả năng sinh lời đưa ra tín
hiệu sai lệch về năng lực tạo ra lợi nhuận. Ngoài ra, ROA và ROE đánh giá về lợi
nhuận hiện tại, nhưng chúng lại ít hiệu quả trong việc thể hiện hiệu quả của công tác
quản lý. Ví dụ, hiệu quả hoạt động trong tương lai sẽ được đánh giá tốt hơn nếu được
xem xét thông qua khả năng các ngân hàng nâng cao năng lực tạo ra lợi nhuận theo
thời gian so với việc chỉ xem xét mức lợi nhuận trong quá khứ.
Để khắc phục các nhược điểm trong phân tích của các hệ số tài chính này, các nhà
kinh tế đã ứng dụng phương pháp phân tích hiệu quả biên để đánh giá hiệu quả hoạt
động của các ngân hàng, đây là phương pháp hiện đại giúp chúng ta có thể nhìn thấy
một bức tranh tổng thể trong hoạt động của các ngân hàng. Phần tiếp theo sẽ trình bày
về phương pháp này.
2.1.2.2 Phương pháp phân tích hiệu quả biên: cách tiếp cận tham số
(SFA) và phi tham số (DEA)
Phương pháp phân tích hiệu quả biên có thể được chia làm hai nhóm gồm cách tiếp
cận tham số và cách tiếp cận phi tham số. Cách tiếp cận tham số (SFA) đòi hỏi phải
chỉ định một dạng hàm cụ thể đối với đường biên hiệu quả, và phân phối phi hiệu quả
hoặc sai số ngẫu nhiên. Nếu việc chỉ định dạng hàm sai thì kết quả tính toán sẽ ảnh

hưởng ngược chiều đến các chỉ số hiệu quả. Cách tiếp cận này đòi hỏi người sử dụng
phải có kiến thức nhất định về toán học.
Mặc dù phương pháp tham số được sử dụng phổ biến, nhưng các phương pháp phi
tham số cũng đang được sử dụng ngày càng nhiều khi chúng ta không xác định được
dạng hàm sản xuất. Điểm nổi bật của phương pháp tiếp cận phi tham số (DEA) là
không đòi hỏi phải xác định dạng hàm cụ thể đối với đường biên hiệu quả, các thành
phần bóc tách từ phần dư của ước lượng không nhất thiết phải tuân theo một phân phối
thống kê nào, cũng như các ràng buộc về phân phối của các nhân tố phi hiệu quả trong
số liệu như cách tiếp cận tham số, trừ ràng buộc các chỉ số hiệu quả phải nằm giữa 0
và 1, và giả sử không có sai số ngẫu nhiên hoặc sai số phép đo trong số liệu. Đường
giới hạn biên sản xuất được xây dựng trực tiếp từ dữ liệu quan sát thông qua hệ thống
phương trình tuyến tính vì thế có thể ứng dụng trong những nghiên cứu với số lượng
quan sát hạn chế. Hơn nữa, ước lượng biên sản xuất dựa trên kết quả hiện có sẽ cho
9


một đường biên gần với thực tế hơn. Có thể sử dụng trong trường hợp nhiều sản phẩm
đầu ra và nhiều yếu tố đầu vào. Có thể sử dụng để ước lượng riêng biệt các loại hiệu
quả sản xuất như hiệu quả kỹ thuật thuần, hiệu quả qui mô và hiệu quả phân bổ. Tuy
nhiên, phương pháp DEA cũng có những hạn chế của nó. Thứ nhất, kết quả ước lượng
(cho phần phi hiệu quả) hoàn toàn phụ thuộc vào đặc điểm thống kê của các quan sát.
Vì vậy, kiểm định thống kê không thể áp dụng được trong phương pháp này. Thứ hai,
như đã được Sengupta (2002) nêu ra, DEA chỉ xem xét phía cung mà không xem xét
phía cầu và những đặc trưng của thị trường. Cuối cùng là độ nhạy, Timmer (1971) lập
luận rằng DEA rất nhạy cảm với các quan sát cực trị. Tức là khi một doanh nghiệp
(hoặc một ngành) hoạt động hiệu quả hơn nhiều so với những doanh nghiệp khác,
DEA có thể ước lượng quá cao phần phi hiệu quả của nó. Dù có những hạn chế đó,
DEA đang ngày càng được sử dụng rộng rãi.
2.2 Các nghiên cứu về hiệu quả hoạt động và các yếu tố tác động đến hiệu quả
hoạt động của NHTM

Phương pháp DEA là một phương pháp cơ bản trong ước lượng hàm sản xuất và
hiệu quả kỹ thuật. DEA sử dụng mô hình toán tuyến tính và hàm khoảng cách. Phương
pháp này xuất phát từ Farell (1957) khi ông đưa ra ý tưởng áp dụng đường giới hạn
khả năng sản xuất (PPF) làm tiêu chí đánh giá hiệu quả tương đối giữa các công ty
trong cùng một ngành. Tuy nhiên thời điểm sau đó phương pháp này chưa nhận được
sự ủng hộ rộng rãi. Cho đến khi, Charnes, Cooper và Rhodes (1978) phát triển thước
đo hiệu quả ra quyết định dựa trên một tập hợp các đơn vị ra quyết định (DMU) với
các đầu vào và đầu ra, đưa ra khái niệm mới về hiệu quả, giới thiệu một dạng mới của
hàm sản xuất và phương pháp ước lượng mới, thì nó thực sự ngày càng được mở rộng
và cho đến nay đã trở thành một ứng dụng lớn trong phân tích kinh tế.
Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu áp dụng thành công phương pháp DEA để
ứng dụng vào phân tích hoạt động của các ngành sản xuất ở các nước phát triển và
đang phát triển. Trong lĩnh vực Ngân hàng - Tài chính, phương pháp DEA cũng đã
được sử dụng rộng rãi. Một số nghiên cứu áp dụng các chỉ số để kiểm tra những thay
đổi trong hiệu quả đầu vào - đầu ra của các tổ chức tài chính nói riêng.
Rangan và cộng sự (1988) kiểm tra hiệu quả kỹ thuật của 215 ngân hàng Mỹ có
tiền gửi dưới 400 triệu USD trong năm 1986. Sử dụng ba yếu tố đầu vào (lao động,
vốn, các quỹ mua lại) và năm yếu tố đầu ra (các khoản vay thương mại và công
10


nghiệp, tiêu dùng, bất động sản, nhu cầu và thời gian các khoản tiền gửi), họ tìm thấy
hiệu quả trung bình bằng 70%, ngụ ý rằng các ngân hàng có thể cho kết quả tương tự
với đầu vào ít hơn 30%. Phân tách tổng hiệu quả kỹ thuật thành hiệu quả kỹ thuật
thuần là 72% và hiệu quả quy mô là 97%, cho thấy rằng kỹ thuật thuần là không hiệu
quả. Một phân tích thứ hai cho thấy rằng kích thước ngân hàng ảnh hưởng tích cực đến
hiệu quả trong khi đa dạng hóa sản phẩm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả.
Ferrier và Lovel (1990) sử dụng cả phương pháp SFA và phương pháp DEA để
đánh giá hiệu quả hoạt động của 575 ngân hàng Mỹ trong năm 1984. Sử dụng ba yếu
tố đầu vào (tổng số nhân viên: chi phí thuê, trang thiết bị máy móc; và chi phí mua

nguyên, vật liệu) và năm yếu tố đầu ra (số lượng tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và có
kỳ hạn, số lượng các khoản cho vay bất động sản, vay trả góp và vay công nghiệp).
Theo phương pháp DEA thì phi hiệu quả kỹ thuật của các ngân hàng khoảng 21,6%,
còn theo phương pháp SFA thì phi hiệu quả kỹ thuật là 16,04%. Nghiên cứu này cũng
cho thấy các ngân hàng nhỏ với tổng tài sản dưới 25 triệu USD là những ngân hàng
hoạt động hiệu quả nhất.
Fukuyama (1993) áp dụng phương pháp DEA để ước tính hiệu quả 143 NHTM ở
Nhật bản vào năm 1991. Sử dụng ba đầu vào (lao động, vốn, quỹ từ khách hàng) và
hai đầu ra (thu từ cho vay, và thu từ các hoạt động khác). Fukuyama kết luận nguyên
nhân chính của phi hiệu quả kỹ thuật tổng thể là do phi hiệu quả kỹ thuật thuần.
Grabowski và cộng sự (1994) xem xét hiệu quả của một nhóm 670 ngân hàng trong
năm 1979, 1983 và 1987. Sử dụng ba yếu tố đầu vào (lao động, vốn và vốn vay) và
năm yếu tố đầu ra (các khoản vay thương mại và công nghiệp, tiêu dùng, bất động sản;
chứng khoán; và tiền gửi không kỳ hạn), kết luận rằng kỹ thuật thuần là nguyên nhân
chính của phi hiệu quả kỹ thuật. Các ngân hàng có tiền gửi vượt quá 1 tỷ USD có hiệu
quả kỹ thuật cao nhất.
Miller và Noulas (1996) ứng dụng phương pháp DEA để ước tính hiệu quả của 201
ngân hàng lớn của Mỹ trong giai đoạn 1984-1990 phát hiện, thứ nhất, phi hiệu quả
trung bình của 201 ngân hàng khá nhỏ, chỉ khoảng 5%. Thứ hai, những ngân hàng quá
lớn rơi vào vùng giảm hiệu quả theo quy mô. Thứ ba, những ngân hàng lớn hơn và lợi
nhuận nhiều hơn có phi hiệu quả kỹ thuật thuần thấp hơn.
Leightner và Lovell (1998) áp dụng chỉ số Malmquist để đánh giá những thay đổi
trong tổng năng suất của các ngân hàng Thái Lan trong giai đoạn 1989-1994. Theo
11


phát hiện của họ, đầu tiên, khi hiệu quả hoạt động ngân hàng được đo lường bằng hiệu
quả sản xuất, các ngân hàng lớn Thái Lan có xu hướng chiếm ưu thế. Thứ hai, khi hiệu
quả hoạt động ngân hàng được đo trong điều kiện tăng trưởng thực hiện tốt nhất, các
ngân hàng nhỏ nước ngoài chiếm ưu thế. Thứ ba, với bất cứ tiêu chuẩn đánh giá nào,

các ngân hàng nhỏ Thái Lan và các ngân hàng nhỏ nước ngoài tương đối kém. Thứ tư,
mặc dù có sự phân tán hiệu năng giữa các lớp ngân hàng, cả hiệu quả hoạt động hàng
năm và tăng trưởng của ngân hàng rất ấn tượng, vượt qua tốc độ tăng trưởng hàng năm
8% - 12% của nền kinh tế tổng thể, và góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế Thái
Lan trong giai đoạn này.
Hardy và Patti (2001) nghiên cứu 33 ngân hàng tại Pakistan giai đoạn 1981-1997.
Sử dụng hai yếu tố đầu vào (lãi và phí/khoản phải trả, chi phí ngoài lãi/khoản phải trả)
và một yếu tố đầu ra (thu nhập từ lãi và phí/tổng thu nhập), họ tìm thấy sự phi hiệu quả
ở những ngân hàng đại chúng so với mẫu tổng thể, ngoài ra không có sự khác biệt về
hiệu quả giữa ngân hàng nội địa và ngân hàng nước nước ngoài.
Isik và Hassan (2003) phân tích dựa trên chỉ số Malmquist về lĩnh vực ngân hàng
Thổ Nhĩ Kỳ từ 1981-1990. Bằng cách tách tăng trưởng năng suất thành thay đổi kỹ
thuật và thay đổi hiệu quả, họ xác định được tăng hiệu quả là nguồn chính của tăng
trưởng năng suất trong hệ thống ngân hàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Bonin, Hasan và Wachtel (2004) nghiên cứu 225 ngân hàng từ 11 quốc gia giai
đoạn 1996-2000, sử dụng phương pháp SFA với bốn nhân tố đầu ra (tổng tiền gửi,
tổng nợ, tổng tài sản thanh toán và đầu tư) và hai nhân tố đầu vào (chi phí ngoài
lãi/tổng tài sản cố định, chi phí lãi/tổng tiền gửi). Kết quả cho thấy các ngân hàng sở
hữu nước ngoài có hiệu quả chi phí cao hơn ngân hàng nội địa, không có sự khác biệt
giữa ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước.
Olena Havrylchyk (2006) sử dụng phương pháp DEA để ước lượng hiệu quả của
các ngân hàng Ba Lan từ năm 1998 - 2000. Các biến đầu vào được lựa chọn trong mô
hình là lao động, tài sản cố định và vốn huy động, biến đầu ra là dư nợ và các khoản
đầu tư trái phiếu. Kết quả chỉ ra rằng, hiệu quả của các ngân hàng không tăng trong
giai đoạn nghiên cứu. Các ngân hàng ngoài có hiệu quả tốt hơn các ngân hàng trong
nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng nước cho thấy chất lượng các khoản vay, trình độ
nhân viên và mức vốn hóa có ảnh hưởng lớn tới hiệu quả ngân hàng.

12



Chang-Sheng Liao (2009) ước lượng hiệu quả và sự thay đổi hiệu quả của các ngân
hàng Đài Loan giai đoạn 2002 - 2004 bằng phương pháp DEA. Tác giả sử dụng biến
đầu vào bao gồm chi phí hoạt động, chi phí trả lãi và biến đầu ra bao gồm dư nợ, thu
nhập lãi và đầu tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu suất thay đổi theo quy mô của
các ngân hàng trong nước có xu hướng giảm. Các ngân hàng nước ngoài, tuy không
hiệu quả hơn các ngân hàng nội địa nhưng sự tăng trưởng hiệu quả của họ tốt hơn các
ngân hàng nội địa. Bài nghiên cứu cũng hàm ý rằng, các ngân hàng kém hiệu quả có
thể sử dụng công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
Barth và cộng sự (2010) nghiên cứu 4.050 ngân hàng trên 72 quốc qua giai đoạn
1999-2007, sử dụng phương pháp DEA với bốn đầu vào (tổng tiền gửi và quỹ khác,
chi phí nhân công, tài sản cố định, dự phòng rủi ro) và ba đầu ra (tổng dư nợ, lãi từ đầu
tư chứng khoán, thu nhập ngoài lãi). Kết quả thu được hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng ở quốc gia phát triển cao hơn ở quốc gia thu nhập trung bình và quốc gia
kém phát triển, sở hữu nhà nước làm giảm hiệu quả hoạt động, những ngân hàng lớn
hơn có hiệu quả hoạt động cao hơn, Basel II không có tác động làm tăng hiệu quả và
sự minh bạch của thị trường tài chính có tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng.
Lee và Kim (2013) dùng chỉ số Malmquist phân tích về hiệu quả hoạt động của các
ngân hàng Hàn Quốc từ 2003-2009. Kết quả cho thấy cơ cấu sở hữu là một yếu tố
quyết định quan trọng của hiệu quả hoạt động ngân hàng tại Hàn Quốc. Các ngân hàng
thuộc sở hữu nhà nước tụt hậu rõ ràng so với các ngân hàng thuộc sở hữu tư nhân
trong việc thúc đẩy hiệu quả tạo ra lợi nhuận. Đồng thời tìm thấy hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng rất nhạy cảm với chu kỳ kinh doanh.
Gwahula Raphael (2013) đã sử dụng phương pháp DEA để đánh giá hiệu quả hoạt
động của các NHTM tại Tan ania trong giai đoạn 2005-2011. Tác giả lựa chọn các
biến đầu vào bao gồm: lao động, khấu hao, chi phí hoạt động, chi phí tài chính; biến
đầu ra là dư nợ và giá trị của các khoản đầu tư. Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả
chung của các ngân hàng ở mức thấp, chỉ đạt 53,2%, con số này khá thấp khi so sánh
với trung bình các ngân hàng trên thế giới. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, ở nhóm

các ngân hàng nghiên cứu có hiệu quả phân bổ nhỏ hơn hiệu quả kỹ thuật, điều này
hàm ý rằng các ngân hàng ở Tan ania đã phân bổ nguồn lực đầu vào chưa hợp lý.
Ngoài ra, kết quả cho thấy quy mô ngân hàng, thu nhập ngoài lãi, tỷ lệ an toàn vốn có
13


tương quan dương với hiệu quả hoạt động, ngược lại nợ xấu có tác động nghịch với
hiệu quả hoạt động.
Lensink và Meesters (2014) nghiên cứu 2.209 ngân hàng trên 110 quốc gia giai
đoạn 1998-2004, sử dụng phương pháp SFA với hai đầu ra (các khoản vay ngân hàng
phát hành và chứng khoán nắm giữ) và hai đầu vào (chi phí lãi/tổng tiền gửi và chi phí
nhân công/tổng tài sản). Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động được xem xét
gồm GDP đầu người, lãi suất danh nghĩa, mức độ tập trung, tín dụng cá nhân/GDP, dự
phòng rủi ro/tổng dư nợ, thu nhập hoạt động/tổng tài sản. Kết quả cho thấy ngân hàng
ở các nước phát triển có chi phí thấp hơn ở các nước kém phát triển, những ngân hàng
quy mô lớn đối mặt với chi phí lớn hơn, những thể chế tốt có hiệu quả kỹ thuật tốt nhờ
việc sử dụng công nghệ mới làm tăng hiệu quả hoạt động.
Một số tác giả trong nước quan tâm nghiên cứu về vấn đề này, như nghiên cứu của
Bùi Duy Phú (2002) đánh giá hiệu quả của NHTM qua hàm sản xuất và hàm chi phí,
tuy nhiên hạn chế của nghiên cứu này là chỉ đơn thuần xác định hàm chi phí và ước
lượng trực tiếp hàm chi phí này để tìm các tham số của mô hình, do vậy mà không thể
tách được phần phi hiệu quả trong hoạt động của ngân hàng.
Lê Hoàng Nga (2007) nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Việt
Nam chỉ dừng lại ở phân tích định tính.
Võ Thành Danh và Liễu Thu Trúc (2012) sử dụng hai phương pháp đo lường TFP
theo chỉ số Tornqvist và chỉ số Malmquist, phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh
của hệ thống NHTM cổ phần Việt Nam giai đoạn 2006 – 2009 với bốn đầu vào (lao
động, vốn, vốn kinh doanh và chi phí khác), hai đầu ra (thu nhập lãi và thu nhập ngoài
lãi). Kết quả cho thấy mức độ phi hiệu quả của các NHTM cổ phần còn tương đối cao,
khoảng 7,7%. Trong đó, các nhân tố hiệu quả kỹ thuật thuần đóng góp vào hiệu quả

hoạt động kinh doanh chung là lớn hơn so với hiệu quả quy mô. Tuy nhiên chưa đề
cập đến các nhân tố tác động nào đến hiệu quả hoạt động và thời gian nghiên cứu
tương đối ngắn.
Xây dựng mô hình DEA đánh giá hoạt động của các NHTM Việt Nam của Nguyễn
Quang Khải (2016), mẫu nghiên cứu gồm 20 NHTM trong nước cung cấp bằng chứng
chứng minh tính hiệu quả của phương pháp DEA trong nghiên cứu các NHTM tại Việt
Nam nhưng chưa đo lường cụ thể mức độ hiệu quả và các nhân tố nào ảnh hưởng đến
mức độ hiệu quả.
14


Phân tích các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống NHTM Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập tài chính quốc tế của Trần Huy Hoàng và Nguyễn Hữu
Huân (2016), nghiên cứu về các yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động của hệ thống
NHTM Việt Nam trong thời kỳ hội nhập 2005 - 2011 theo phương pháp SFA. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, hiệu quả hoạt động của các NHTM chịu ảnh hưởng bởi hai nhóm
nhân tố chính. Trong đó các nhân tố chủ quan tác động bao gồm: thị phần, rủi ro thanh
khoản, tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài và quy mô của ngân hàng. Các nhân tố
khách quan bao gồm: tổng thu nhập quốc nội và lạm phát của nền kinh tế. Các nhân tố
tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của các NHTM bao gồm: tỷ lệ nắm giữ của
nhà đầu tư nước ngoài, quy mô ngân hàng và thị phần của ngân hàng.
Trần Phương Thảo và Lê Nguyễn Quỳnh Hương (2016) nghiên cứu về mối quan
hệ giữa loại hình sở hữu và hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam. Theo đó
tác giả sử dụng phương pháp DEA và SFA trong việc đo lường hiệu quả hoạt động
NHTM và hồi quy Tobit 2 bước để tìm hiểu mối quan hệ giữa hiệu quả hoạt động và
loại hình sở hữu NHTM. Kết quả nghiên cứu về 22 NHTM tại Việt Nam trong giai
đoạn 2007-2014 phù hợp với lý thuyết về quản trị ngân hàng và minh chứng loại hình
sở hữu khác nhau có ảnh hưởng đến hiệu suất hoạt động của ngân hàng. Bên cạnh đó,
nghiên cứu kiểm định giả thuyết “lợi thế sân nhà” và “lợi thế nước ngoài” nhưng
không tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại các giả thuyết này trong lĩnh vực ngân hàng

Việt Nam.
Phan Thị Hằng Nga, Trần Phương Thanh (2017) nhằm đánh giá hiệu quả hoạt động
của NHTM Việt Nam sau sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Nghiên cứu áp dụng phương
pháp phân tích bao dữ liệu DEA để ước tính hiệu quả hoạt động các ngân hàng Việt
Nam sau sáp nhập, hợp nhất với các biến đầu vào: chi phí tiền lương, chi phí trả lãi,
các chi phí khác. Các biến đầu ra gồm: thu nhập lãi, các khoản thu nhập khác từ hoạt
động kinh doanh. Kết quả cho thấy, phi hiệu quả trung bình của các ngân hàng nghiên
cứu giai đoạn 2007 - 2014 khoảng 10,18%, đa số các ngân hàng sau sáp nhập đã tận
dụng được quy mô để tăng hiệu quả hoạt động, tuy nhiên các ngân hàng vẫn còn sử
dụng lãng phí nguồn lực như chi phí tiền lương, chi phí lãi và chi phí khác. Với kết
quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các khuyến nghị để các ngân hàng sau sáp nhập nâng
cao hiệu quả hoạt động trong thời gian tới.

15


Nhìn chung, các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra những yếu tố có tác động đến hiệu
quả hoạt động ngân hàng như quy mô, cơ cấu sở hữu, M&A, chu kỳ kinh tế, rủi ro
thanh khoản, thị phần. Qua thực tiễn tổng kết các nghiên cứu ở nước ngoài và trong
nước về phân tích các biến số ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM,
trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng phương pháp DEA dựa trên chỉ số Malmquist để
kiểm tra hiệu quả hoạt động của các NHTM tại Việt Nam trong giai đoạn 2011-2016.
Thước đo này kỳ vọng sẽ bổ sung cho các chỉ số tài chính truyền thống và giải quyết
các hạn chế của chúng. Phương pháp chỉ số Malmquist cho phép nhiều đầu vào và
nhiều đầu ra vì vậy các loại chi phí và nguồn thu khác nhau được tính đến, thay vì chỉ
đơn giản là được gộp lại với nhau trong đo lường hiệu quả tạo ra lợi nhuận của các
ngân hàng. Ngoài ra, thước đo nắm bắt các khía cạnh động của năng lực quản lý tạo ra
lợi nhuận vì chỉ số Malmquist đánh giá sự thay đổi hiệu quả qua thời gian. Điểm mới
của luận văn này so với các nghiên cứu trước ở Việt Nam là có xem xét đến yếu tố
M&A và tác động phi tuyến của quy mô đến hiệu quả hoạt động ngân hàng. Đề tài

giúp xác định những yếu tố nào thật sự tác động đến hiệu quả hoạt động ngân hàng của
các NHTM Việt Nam, mức độ tác động của các yếu tố đó. Từ đó giúp các nhà quản trị
ngân hàng đề ra các chính sách, chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tại các
NHTM Việt Nam.

16


Chương 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
3.1 Dữ liệu nghiên cứu
Tác giả sử dụng hai nguồn để tập hợp dữ liệu. Số liệu tài chính và thông tin ngân
hàng lấy từ báo cáo tài chính hợp nhất đã kiểm toán công bố của các NHTM, tốc độ
tăng trưởng GDP thực được lấy từ dữ liệu IMF.
Mẫu được dùng trong bài nghiên cứu là các NHTM tại Việt Nam, chuỗi dữ liệu từ
năm 2011-2016. Tác giả loại bỏ các ngân hàng không có sẵn thông tin trong giai đoạn
nghiên cứu. Cuối cùng, tác giả thu được một bảng gồm 28 NHTM, trong đó bao gồm 3
NHTM nhà nước, 23 NHTM cổ phần và 2 ngân hàng liên doanh.
3.2 Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 Đo lường hiệu quả hoạt động bằng DEA
Dựa theo Lee và Kim (2013), nghiên cứu xác định một tập hợp bốn yếu tố đầu vào
bao gồm chi phí lãi, chi phí hoạt động dịch vụ, chi phí hoạt động và chi phí dự phòng
rủi ro. Và hai đầu ra là thu nhập lãi và thu nhập hoạt động dịch vụ. Thước đo chỉ số
Malmquist tập trung vào khả năng điều hành trong NHTM.
Như vậy, đối với ước lượng đường biên hiệu quả, nghiên cứu sử dụng phương
pháp DEA với thước đo chỉ số Malmquist. Trong phương pháp DEA, đường biên hiệu
quả được ước tính bằng phương pháp lập trình tuyến tính phi tham số. Để tính toán các
chỉ số, nghiên cứu sử dụng phiên bản DEAP 2.1 (Coelli, 1996).
Phương pháp phân tích đường bao dữ liệu dùng để xây dựng đường giới hạn sản
xuất, được đề xuất đầu tiên bởi Farrell (1957). Farrell (1957) đưa ra ý tưởng đường
giới hạn khả năng sản xuất (PPF) để đánh giá hiệu quả tương đối giữa các công ty

trong cùng một ngành, các công ty đạt đến mức giới hạn sẽ được coi là hiệu quả và các
công ty không đạt đến đường PPF là kém hiệu quả so với các công ty kia, phân ra hiệu
quả thành hai loại, đó là hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bố.

17


Hình 3.1. Đường giới hạn khả năng sản xuất ứng với hai hàng hóa H1 và H2
trường hợp tối đa hóa đầu ra.

Nguồn: Farrell (1957)
Đường PPF cho trường hợp sử dụng 2 yếu tố đầu vào (x1, x2) để sản xuất ra 1 yếu
tố đầu ra (y) với giả định hiệu quả không đổi theo quy mô có thể được biểu diễn là
đường đẳng lượng SS’ như trong Hình 2.
Hình 3.2: Đường PPF trong trường hợp tối thiểu hóa đầu vào

Nguồn: Farrell (1957)
18


×