Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận về kiềm chế lạm phát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.75 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh kinh tế đất nước đầu năm 2011, nói đến kinh tế vĩ mô là chúng ta nói đến lạm
phát, tăng trưởng, thâm hụt ngân sách, thâm hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán
cân thanh toán tổng thế, tỷ lệ giữa đầu tư và tích lũy, tỷ lệ thất nghiệp, biến động của tỷ giá và
dự trữ ngoại hối nhà nước, tỷ lệ nợ quốc gia, tỷ lệ nợ công…. Các chỉ số và tỷ lệ trong các lĩnh
vực nêu trên phụ thuộc lẫn nhau, tác động qua lại và đan xen lẫn nhau, và trong nhiều trường
hợp lại có tính triệt tiêu lẫn nhau (được chỉ tiêu này lại mất chỉ tiêu kia). Do vậy, tùy theo tình
hình, đặc điểm của mỗi nước trong từng giai đoạn mà người ta quyết định chỉ tiêu nào là chỉ
tiêu tiên quyết phải đạt được, các chỉ tiêu khác là các chỉ tiêu thỏa hiệp, sẵn sàng nhân nhượng,
hay nói một cách khác là sẵn sàng điều chỉnh để nhằm đạt được các chỉ tiêu tiên quyết.
Với đề tài: “Các giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát trong Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày
04/02/2011”, bài tiểu luận này sẽ phân tích các giải pháp kiềm chế lạm phát trong Nghị Quyết
số 11.


1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Khái niệm lạm phát
Lạm phát là hiện tượng tiền trong lưu thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất
giá, giá cả của hầu hết các loại hàng hóa tăng lên đồng loạt.
1.2 Các phép đo chủ yếu của chỉ số lạm phát
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ
thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào
phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao
gồm:
- Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh hoạt của một
cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả định một cách xấp xỉ.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu dùng thông
thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự thay đổi theo phần
trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường hay được nhắc tới.
- Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ
sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng


hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất
giống với PPI.
- Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong
trường họp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản
vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng
giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác
định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực).

Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội"
sáu tháng một lần của mình ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000,
Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về
lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.3 Phân loại lạm phát
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là sự tăng lên của giá cả hàng hóa, nên các nhà kinh tế
thường dựa vào tỷ lệ tăng giá để làm căn cứ phân loại lạm phát ra thành ba mức độ khác nhau:
- Lạm phát vừa phải: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng chậm ở mức độ một con
số hàng năm (dưới 10% một năm). Lạm phát vừa phải còn được gọi là lạm phát nước kiệu hay
lạm phát một con số. Loại lạm phát này thường được các nước duy trì như một chất xúc tác để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Lạm phát cao: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ hai con số hàng
năm (từ 10% - 100% một năm). Lạm phát cao còn được gọi là lạm phát phi mã. Lạm phát phi
mã gây ra nhiều tác hại đến sự phát triển kinh tế - xã hội.


- Siêu lạm phát: loại lạm phát này xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng ở mức độ ba con số hàng
năm trở lên. Siêu lạm phát còn được gọi là lạm phát siêu tốc. Không có điều gì là tốt khi nền
kinh tế rơi vào tình trạng siêu lạm phát.
Ngoài ra, người ta còn phân loại lạm phát dựa vào việc so sánh hai chỉ tiêu là tỷ lệ tăng giá và
tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Theo cách này lạm phát sẽ ở trong hai giai đoạn sau:

- Giai đoạn 1: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá nhỏ hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Một bộ phận của
khối tiền gia tăng về cơ bản đáp ứng nhu cầu lưu thông tiền tệ của nền kinh tế. Theo các nhà
kinh tế, lạm phát nằm ở giai đoạn này có thể chấp nhận được và thậm chí còn cho rằng lạm phát
khi đó còn là liều thuốc để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Giai đoạn 2: Ở giai đoạn này tỷ lệ tăng giá lớn hơn tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ. Sở dĩ như vậy là
do lạm phát với tỷ lệ cao kéo dài đã làm cho kinh tế suy thoái. Hệ quả là khối lượng tiền phát
hành vượt mức khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông. Trong trường họp này lạm phát gây
nguy hiểm trầm trọng cho nền kinh tế.
1.4 Nguyên nhân của lạm phát
Khi nghiên cứu nguyên nhân của lạm phát, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm khác nhau do
tiếp cận nó ở nhiều góc độ. Tuy vậy, tựu trung lại có các quan điểm sau:
- Lạm phát do cầu kéo:
Khi nền kinh tế đạt tới hay vượt quá sản lượng tiềm năng, việc tăng tổng mức cầu dẫn tới lạm
phát được gọi là lạm phát do cầu kéo hay lạm phát nhu cầu.
Số cầu tăng là do tổng khối lượng tiền lưu hàng (M) tăng hoặc do tốc độ lưu thông tiền tệ (V)
tăng. số lượng tiền tệ tăng do nhiều yếu tố, trong đó quan trọng hơn hết và thường xảy ra hơn
hết là do thiếu hụt ngân sách nhà nước. Thiếu hụt này được tài trợ bằng nhiều cách: phát hành
trái phiếu, vay mượn ở nước ngoài và nay mượn ở ngân hàng trung ương.
- Lạm phát do chi phí đẩy:
Khi chi phí sản xuất kinh doanh tăng sẽ đẩy giá cả tăng lên ngay cả khi các yếu tố sản xuất
chưa được sử dụng đầy đủ, chúng ta gọi đó là lạm phát do chi phí đẩy. vấn đề đặt ra là tại sao
chi phí tăng lên? Nhiều nhà kinh tế cho rằng tiền lương tăng lên là một nguyên nhân đẩy chi phí
tăng lên khi tốc độ tăng tiền ltrong cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Một số nhà kinh tế
cho rằng việc đẩy chi phí tiền ltrong tăng lên là do các công đoàn gây sức ép. Tuy nhiên một số
nhà kinh tế khác lại cho rằng chính công đoàn đã đóng vai trò quan trọng trong việc làm giảm
tốc độ tăng của lạm phát và giữ cho lạm phát không giảm xuống quá nhanh vì các họp đồng
ltrong của công đoàn thường là dài hạn và khó thay đổi. Ngoài ra, các cuộc khủng hoảng về
nhiên liệu, nguyên vật liệu cơ bản như dầu mỏ, sắt thép... cũng làm cho giá cả của nó tăng lên
và đẩy chi phí sản xuất tăng lên, dẫn đến sức ép đòi tăng giá bán.
- Lạm phát do những nguyên nhân liên quan đến sự thiếu hụt mức cung:

Khi nền kinh tế đạt đến mức toàn dụng, nghĩa là các yếu tố sản xuất: nhân công, nguyên vật
liệu, máy móc thiết bị... gần như đã được khai thác tối ưu. Khi đó, mức cung hàng hóa và dịch
vụ trên thị trường có khuynh hướng giảm dần. Bên cạnh đó, tình trạng tắt nghẽn của thị trường
cũng làm giới hạn mức cung hàng hóa. Đó là tình trạng mất cân đối các yếu tố sản xuất giữa
các khu vực nhưng thị trường lại không tạo ra cơ chế điều phối có hiệu quả, khiến cho khối
lượng hàng hóa không đáp ứng tốt nhu cầu tăng lên của thị trường. Hàng hóa khan hiếm làm
cho giá cả tăng lên, đó là hậu quả tất yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ngay lúc nền kinh tế chưa đạt
tới mức toàn dụng nhưng nếu cơ cấu kinh tế tổ chức bất họp lý thì cũng không cho phép tạo ra


khối lượng hàng hóa và dịch vụ đầy đủ để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường.
Trường họp này cũng làm nảy sinh hiện tượng lạm phát.
- Những nguyên nhân chủ quan, khách quan khác:
Nguyên nhân chủ quan: chính sách quản lý kinh tế không phù họp của nhà nước như chính
sách cơ cấu kinh tế, chính sách lãi suất... làm cho nền kinh tế quốc dân bị mất cân đối, kinh tế
tăng trưởng chậm ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm
hụt thì điều tất yếu là nhà nước phải tăng chỉ số phát hành tiền. Đặc biệt đối với một số quốc
gia, trong những điều kiện nhất định, nhà nước chủ trương dùng lạm phát như một công cụ để
thực thi chính sách phát triển kinh tế.
+ Nguyên nhân khách quan: thiên tai, chiến tranh, tình hình biến động của thị trường nguyên
vật liệu, nhiên liệu trên thế giới...
2. CÁC BIỆN PHÁP KIỀM CHẾ LẠM PHÁT
2.1 Thực trạng và ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế năm 2010 - 2011
Đối với trong nước, như đã trình bày ở trên, mặc dù nước ta đã bước vào ngưỡng đầu của các
nước có mức thu nhập trung bình, nhưng kết cấu cơ sở hạ tầng của nền kinh tế còn nhiều bất
cập và yếu kém. Kinh nghiệm phát triển kinh tế thế giới cho thấy mức thu nhập trung bình cũng
là một cái bẫy đối với nhiều nước đang phát triển trên thế giới. Khi đó tâm lý thỏa mãn lan tràn
trong dân cư cũng như các nhà lãnh đạo; quyền lợi của các nhóm người trong xã hội trỗi dậy,
đan xen và ràng buộc lẫn nhau kìm hãm mọi quá trình cải cách trong nền kinh tế; tham ô, tham
nhũng bóp méo mọi quan hệ của đời sống kinh tế xã hội.

Trong bối cảnh đó nếu không có được những quyết sách đúng đắn có ý nghĩa chiến lược mang
lại cho nền kinh tế có những thay đổi về chất, đạt tới tầm phát triển cao hơn thì sau nhiều năm
vẫn luẩn quẩn trong ngưỡng thu nhập trung bình.
Tại Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã nhìn thẳng vào những tồn tại, yếu kém của nền kinh tế
và kiên quyết đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế trên nền tảng ổn định kinh tế
vĩ mô, kiềm chế lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ có như vậy, chúng ta mới củng cố được
niềm tin trong nhân dân, phát huy được ý chí, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
đưa sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước lên một tầm cao mới có sự thay đổi về chất, đưa nước
ta từ một nước có mức thu nhập trung bình thành một nước về cơ bản là nước công nghiệp vào
năm 2020.
Về phía quốc tế, đây thực sự là một thông điệp phấn khởi đối với cộng đồng các nhà tài trợ, các
nhà đầu tư cả trực tiếp lẫn gián tiếp vào Việt Nam. Đất nước ta luôn được quốc tế đánh giá là
một nước có nền chính trị vững vàng, ổn định; trật tự, an ninh luôn được bảo đảm.
Trong những giai đoạn kinh tế vĩ mô được ổn định thì Việt Nam thực sự trở thành một điểm
đến lý tưởng của đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong những năm vừa qua khi lạm phát gia
tăng, kinh tế vĩ mô có nhiều biểu hiện không ổn định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã chững lại,
đầu tư nước ngoài gián tiếp cũng nhỏ giọt.
Sau khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới, mặc dù đã có dấu hiệu hồi phục song các nền kinh
tế lớn tăng trưởng còn chậm, không rõ nét và còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, các luồng vốn đầu tư
đang đổ dồn vào các nước Đông Nam Á. Nhiều nước trong khu vực đang phải vất vả tìm mọi
giải pháp để hấp thụ các luồng vốn này một cách hiệu quả nhất, đồng bản tệ của họ liên tục lên
giá.


Trong khi đó tại Việt Nam, các luồng vốn này hầu như im ắng và VND liên tục mất giá. Ở
những thời điểm nhất định trong thời gian qua chúng ta cũng đặt vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô,
kiềm chế lạm phát nhưng không nhất quán và nhiều khi còn bị đánh đổi lấy các mục tiêu kinh
tế khác. Điều này đã làm giảm lòng tin của cộng đồng các nhà đầu tư, các nhà tài trợ vào môi
trường đầu tư của Việt Nam. Mức xếp hạng tín nhiệm đầu tư của ta bị giảm sút.
Những quyết sách nêu trên của Đảng và Chính phủ đã khẳng định rõ: Kiềm chế lạm phát, bình

ổn kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ không chỉ của năm 2011 mà có tính xuyên suốt cho cả thời kỳ
phát triển sắp tới. Bằng việc tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương chính sách nêu trên của
Đảng và Chính phủ chúng ta nhất định sẽ khơi thông được các luồng vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam, góp phần giải quyết được nhu cầu vốn vô cùng to lớn cho sự nghiệp hiện đại hóa,
công nghiệp hóa nền kinh tế đất nước, Việt Nam vẫn sẽ là một điểm thu hút đầu tư hấp dẫn trên
thế giới.
Trong ngắn hạn, chúng ta có thể khẳng định rằng bằng việc triển khai quyết liệt, đồng bộ các
giải pháp của Nghị quyết 11/NQ-CP chúng ta nhất định sẽ kiềm chế được lạm phát, ổn định một
bước kinh tế vĩ mô. Song, kết quả đó có duy trì bền vững hay không còn phụ thuộc vào kết quả
đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Nói một cách khác kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô tạo môi trường thuận lợi cho quá trình đổi mới mô hình phát triển, cơ cấu lại
nền kinh tế.
Đến lượt mình, các kết quả và thành tựu thu được từ đổi mới mô hình phát triển và cơ cấu lại
nền kinh tế là cơ sở kinh tế vững chắc cho kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Nội
dung đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế đã được phân tích trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 – 2020 và cũng đã được quán triệt sâu sắc tại Nghị
quyết Đại hội XI của Đảng. Đây là nội dung hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tiến hành liên tục
với những bước đi thích hợp vừa có tính kế thừa vừa có tính phát triển. Do vậy, đòi hỏi Đảng và
Chính phủ phải kịp thời có được các chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể, thích hợp cho
ngay các bước đi đầu tiên.
2.2 Các biện pháp kiềm chế lạm phát
2.2.1. Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
Trong số thống kê về tỷ lệ lạm phát 11,75% do Tổng cục Thống kê đưa ra thì yếu tố tiền tệ
đóng góp tới 4,65%. Vì vậy, phải có biện pháp thực hiện chính sách tiền tệ một cách chặt chẽ là
điều cần thiết. Phải kiểm soát được tăng trưởng tín dụng ở mức dưới 20% (năm 2010 là 31%),
Cung ứng tiền ra lưu thông chỉ khoảng 15% (năm 2010 là 26%) đồng thời dành tín dụng ưu tiên
cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp phụ trợ và đầu tư cho các lĩnh vực thiết yếu khác trên
nguyên tắc điều hành minh bạch.
Sự sụt giảm lạm phát hiện nay chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân chính:
- Thứ nhất, sự tăng giá của các hàng hoá cơ bản như điện, xăng dầu đã phản ánh hết vào giá cả

hàng hoá trong nước. Đồng thời, giá cả nguyên liệu đầu vào đã ổn định mà một phần là nhờ sự
suy giảm giá cả hàng hoá trên thế giới.
- Thứ hai, lạm phát kỳ vọng giảm mạnh nhờ vào chính sách thắt chặt tiền tệ và những tuyên bố
cắt giảm đầu tư công của Chính phủ. Điều này có nghĩa là những giải pháp chống lạm phát của
Chính phủ mới chỉ có tác dụng đánh thẳng vào kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế, chứ chưa có
tác dụng làm giảm đáng kể tổng cầu và chắc chắn cũng chưa thể làm cải thiện nguồn cung để
làm giảm lạm phát.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương thực hiện
các chính sách sau:


- Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng, phối hợp hài hòa giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa để kiềm chế lạm phát; điều hành và kiểm soát để bảo đảm tốc độ tăng
trưởng tín dụng năm 2011 dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán khoảng 15 - 16%; tập trung
ưu tiên vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất kinh doanh, nông nghiệp, nông thôn, xuất
khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa; giảm tốc độ và tỷ trọng vay vốn tín dụng
của khu vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Điều hành chủ động, linh
hoạt, hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là các loại lãi suất và lượng tiền cung ứng để
bảo đảm kiềm chế lạm phát.
Nhiều nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng, chính sách tiền tệ ở Việt Nam có độ trễ từ 6 – 7
tháng. Trong khi đó, tính từ thời điểm ngân hàng Nhà nước (NHNN) thắt chặt tiền tệ cho đến
nay chỉ hơn ba tháng, có nghĩa là chính sách tiền tệ chưa có tác dụng đáng kể trong việc thu hẹp
cung tiền trong toàn nền kinh tế mà chủ yếu mới có tác dụng thắt chặt thanh khoản của các
ngân hàng thương mại (NHTM).
Do đó, cần thêm khoảng thời gian 3 – 4 tháng nữa để các NHTM thu hồi lại lượng tiền đã cho
vay trước đó thì chính sách tiền tệ mới có tác dụng làm giảm lượng tiền lưu thông trong nền
kinh tế, và qua đó làm giảm lạm phát. Cho nên, việc nới lỏng tiền tệ nhằm làm giảm lãi suất
trong thời điểm hiện nay là không hợp lý và đi ngược với mục tiêu chống lạm phát của Chính
phủ.
Một số lập luận cho rằng, việc duy trì lãi suất cao sẽ dẫn đến tình trạng chỉ có những doanh

nghiệp có rủi ro cao (vì lợi nhuận cao tương ứng) mới chấp nhận những khoản vay lãi suất cao
này. Điều này sẽ làm rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng tăng cao.
Tuy nhiên, những diễn biến trong hệ thống ngân hàng hiện nay cho thấy rằng rủi ro của nền
kinh tế tăng cao đã làm chùn tay các ngân hàng trong việc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp,
đồng thời hạn mức tăng trưởng tín dụng dưới 20% trong năm nay là cơ hội cho các ngân hàng
lựa chọn khách hàng tốt cho mình. Do đó, những lo ngại như trên là không có cơ sở.
Bên cạnh đó, một số ý kiến lo ngại rằng chính sách tiền tệ thắt chặt kéo dài sẽ làm cho lãi suất
tăng cao, gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điển hình như tình trạng lãi suất cao và tín dụng bị siết chặt của ngành bất động sản (BĐS) gây
ra nhiều lo lắng về tình trạng phá sản hàng loạt các doanh nghiệp BĐS và do đó sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, lập luận này không phải bao giờ cũng đúng bởi vì việc siết chặt tín dụng BĐS sẽ
buộc các doanh nghiệp có khả năng tài chính kém, tỷ lệ nợ cao phải giảm giá thành và/hoặc
chuyển nhượng lại các dự án cho các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính tốt hơn.
Qua đó, giúp sàng lọc và lành mạnh hoá thị trường BĐS cũng như nâng cao chất lượng tín dụng
BĐS. Xu hướng chuyển nhượng các dự án BĐS một cách rầm rộ gần đây đã chứng minh rằng
thị trường này khó có khả năng sụp đổ mà đơn giản các nhà đầu tư đang chờ đợi mức giá hợp lý
hơn để tham gia thị trường. Đây là dấu hiệu tích cực không chỉ cho thị trường BĐS mà còn cho
hệ thống ngân hàng và cả nền kinh tế.
Mặt khác, sự sụt giảm của thị trường BĐS cũng là cơ hội tốt cho các cá nhân có cơ hội sở hữu
nhà và giải quyết phần nào những bức xúc về nhà ở đang tồn tại trong xã hội hiện nay.
Những khó khăn về tài chính do chính sách thắt chặt tiền tệ sẽ “giúp phá sản” các doanh nghiệp
hoạt động kém hiệu quả và dịch chuyển các nguồn lực sản xuất của các doanh nghiệp này đến
các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn. Điều này sẽ giúp nền kinh tế sử dụng nguồn lực sản
xuất một cách hiệu quả hơn và do đó có tác dụng làm giảm lạm phát trong dài hạn.


Ngoài ra, việc Chính phủ kiên trì chính sách thắt chặt tiền tệ, cho dù sẽ làm cho một số doanh
nghiệp phá sản sẽ phát đi thông điệp có tính răn đe rằng các doanh nghiệp (và cả hệ thống ngân
hàng) phải tự chịu trách nhiệm với hoạt động kinh doanh của mình và sẽ không có bàn tay cứu

giúp nào của Chính phủ đối với các hoạt động kinh doanh rủi ro.
Những thông điệp như vậy sẽ làm giảm “tâm lý ỷ lại” của các doanh nghiệp, ngân hàng, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhà nước đối với Chính phủ và do đó sẽ giúp các doanh nghiệp này
hoạt động an toàn và hiệu quả hơn, qua đó làm giảm hoạt động đầu cơ và lạm phát trong nền
kinh tế.
Những lập luận ở trên cho thấy rằng, mặc dù chính sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát có
thể gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhưng chính sách này cũng giúp loại bỏ các
doanh nghiệp, các hoạt động kinh doanh không hiệu quả và rủi ro cao. Điều này sẽ giúp nền
kinh tế đạt được hiệu quả cao hơn trong dài hạn. Do đó, việc duy trì chính sách thắt chặt tiền tệ
là rất cần thiết trong điều kiện kinh tế hiện nay.
Điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt, phù hợp với diễn biến thị trường. Tăng
cường quản lý ngoại hối, thực hiện các biện pháp cần thiết để các tổ chức, cá nhân trước hết là
các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước bán ngoại tệ cho ngân hàng khi có nguồn thu và
được mua khi có nhu cầu hợp lý, bảo đảm thanh khoản ngoại tệ, bình ổn tỷ giá, đáp ứng yêu
cầu ổn định, phát triển sản xuất kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối .Chính phủ thông qua Ngân
hàng Nhà nước sẽ huy động và sử dụng các nguồn lực để kiểm soát bằng được tỷ giá theo quy
định, không để thả nổi tỷ giá; không để cho thị trường chợ đen chi phối. Các doanh nghiệp phải
bán ngoại tệ cho ngân hàng và ngân hàng sẵn sàng đáp ứng đầy đủ về ngoại tệ cho các doanh
nghiệp để nhập khẩu các loại hàng hóa thiết yếu mà trong nước không sản xuất được.
Kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh vàng; trong quý II năm 2011 trình Chính phủ ban
hành Nghị định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng tập trung đầu mối nhập khẩu
vàng, tiến tới xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do; ngăn chặn hiệu quả các
hoạt động buôn lậu vàng qua biên giới Pháp luật của ta về quản lý hoạt động sản xuất, kinh
doanh vàng, vàng miếng (vàng miếng do các tổ chức kinh doanh vàng được Ngân hàng Nhà
nước cấp phép dập vàng miếng) công nhận những quyền cơ bản sau đây của người dân: quyền
sở hữu và cất trữ vàng miếng, quyền mua bán, trao đổi vàng miếng, quyền gửi vào và rút ra
vàng miếng tại các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh vàng…
Tình hình trên có các cả nguyên nhân khách quan và chủ quan chính như sau:
Nguyên nhân khách quan:
Trong thời gian qua, tình hình kinh tế vĩ mô của ta không vững chắc, lạm phát luôn ở mức cao,

VND mất giá liên tục… điều này làm cho niềm tin của người dân vào giá trị VND bị giảm sút,
tâm lý tiết kiệm và nắm giữ ngoại tệ, vàng gia tăng. Giá vàng quốc tế tăng mạnh và biến động
thất thường vượt quá khả năng dự báo.
Nguyên nhân chủ quan:
Công tác quản lý thị trường chúng ta làm chưa tốt. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng
như Công an, quản lý thị trường, Thanh tra NHNN chưa chặt chẽ và thường xuyên; các chế tài
xử lý còn bất cập, không còn phù hợp với tình hình mới, tính răn đe không cao; chưa có chế độ
đãi ngộ và khen thưởng hợp lý để kịp thời động viên và tạo điều kiện làm việc cho các lực
lượng quản lý thị trường. Chức năng quản lý nhà nước về vàng còn bị phân tán, do đó tạo ra
nhiều kẽ hở trong quản lý. Theo qui định tại Luật NHNN, Ngân hàng Nhà nước có chức năng
quản lý hoạt động kinh doanh vàng, nhưng theo các qui định hiện hành, NHNN chỉ có chức
năng quản lý về vàng đối với các loại hình hoạt động sau đây: Hoạt động xuất nhập khẩu vàng
nguyên liệu dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng; hoạt động sản xuất vàng miếng; hoạt động huy


động và cho vay bằng vàng của các tổ chức tín dụng; quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối nhà
nước.
Trước tình hình đó ngân hàng Nhà nước Việt Nam phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương
các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về thu đổi ngoại tệ, kinh
doanh vàng. Ban hành quy định và chế tài xử lý vi phạm, kể cả việc đình chỉ, rút giấy phép hoạt
động, thu tài sản; quy định khen, thưởng đối với việc phát hiện các hành vi vi phạm hoạt động
thu đổi, mua bán ngoại tệ, vàng. Xử lý nghiêm theo pháp luật đối với hành vi cố tình vi phạm.
Bộ Chính trị chỉ rõ: “… nhanh chóng xây dựng các cơ chế, chính sách tăng cường quản lý thị
trường ngoại tệ (đô la) và vàng, khắc phục tình trạng đầu cơ tích trữ, buôn bán trái phép. Có lộ
trình và biện pháp phù hợp trong từng thời kỳ, đảm bảo lợi ích hợp pháp của người dân có tài
sản này, quan tâm đúng mức nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân, tránh tạo ra
các “cú sốc” về tâm lý, gây bất ổn xã hội, khuyến khích, không gây trở ngại cho việc thu hút
các nguồn ngoại tệ từ nước ngoài về nước, tổ chức lại thị trường kinh doanh vàng”.
2.2.2. Thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu, kiềm chế nhập siêu, sử
dụng tiết kiệm năng lượng

Theo Tổng cục Thống kê, nhập siêu tháng 3 ước tính khoảng 1,15 tỷ USD, kéo theo tổng nhập
siêu quý I-2011 lên hơn 3 tỷ USD ( trong đó, kim ngạch xuất khẩu quý I đạt 19,245 tỷ USD,
tăng 33,7% so cùng kỳ năm 2010; nhập khẩu 22,274 tỷ USD,tăng23,8%).
NHNN được giao điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ với lãi
suất giữa tiền VN và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác
theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, huy động được các
nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ DN và các tầng lớp dân cư, kiều hối, tiền gửi từ bên
ngoài vào VN, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại hối. Đẩy
mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng để bảo đảm tốc độ tăng
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu khoảng 20% trong năm 2010. Tình trạng
nhập siêu quá lớn từ một số thị trường thế giới do nước ta trong giai đoạn đang đầu tư phát
triển, đầu tư cho sản xuất, với phần nhiều máy móc phải nhập khẩu, hoặc do sản xuất chưa đủ,
hay chưa tự sản xuất được... đã đẩy thâm hụt thương mại của nước ta ngày càng tăng.
Theo các chuyên gia, để hạn chế tình trạng nhập siêu, cần phải xây dựng hàng rào kỹ thuật. Đặc
biệt, cần phân tích rõ cơ cấu nhập khẩu số lượng lớn hàng tiêu dùng không thiết yếu, để biết
được những mặt hàng nào trực tiếp phục vụ sản xuất và những mặt hàng gì chỉ phục vụ cho
cuộc sống hằng ngày của người dân. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý sẽ định hướng chính sách
rà soát để có cơ sở cấp vốn vay nhập hàng, cũng như sử dụng các biện pháp khác, trong đó có
việc cấp giấy phép tự động, nhằm hạn chế nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng không thiết
yếu. Việc tăng các rào cản thuế và phi thuế đối với hàng nhập khẩu không thiết yếu phục vụ sản
xuất tiêu dùng phải tuân thủ lộ trình giảm thuế đã cam kết. Cụ thể, rà soát lại các khoản thuế,
dòng thuế với các hàng hóa nhập khẩu, nhất là nhóm hàng hạn chế nhập khẩu và áp dụng đến
mức cao nhất mà lộ trình của WTO đã cam kết cho phép; nghiên cứu, áp dụng các rào cản phi
thuế như các rào cản kỹ thuật, biện pháp vệ sinh và an toàn thực phẩm, biện pháp tự vệ, trợ cấp
hoặc biện pháp đối kháng theo đúng những điều kiện mà WTO đã quy định. Ngoài ra, cần tăng
cường kiểm tra giá tính thuế hàng nhập khẩu trong khâu thông quan, thông qua việc đưa vào
danh mục quản lý rủi ro từ 13 nhóm mặt hàng, lên 20 nhóm mặt hàng vào cuối năm 2011. Ban
hành quy chế xây dựng, thu thập, cập nhật và cơ sở dữ liệu về danh mục hàng hóa, biểu thuế và
phân loại, áp dụng mức thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Đặc biệt, ngành chức năng cần
tăng cường kiểm tra sau thông quan, thanh tra việc phân loại hàng hóa, áp dụng mức thuế với

hàng hóa đã thông quan và thông báo sớm kết quả đã kiểm tra, thanh tra về phân loại hàng hóa
cho khâu thông quan để các DN có biện pháp điều chỉnh kịp thời... Như vậy, đã đến lúc Nhà
nước phải đánh thuế cao với nhóm mặt hàng xa xỉ. Hiện, quy định của WTO không cấm chúng
ta đánh thuế cao, mà quan trọng là chúng ta có thực thi biện pháp này hay không, hoặc chí ít có
thể sử dụng các biện pháp khác mà không vi phạm quy định của WTO như tạo thủ tục hành


chính thuế, hải quan khắt khe hơn đối với các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ như đã nói ở trên. Đặc
biệt, các ngành chức năng có thể đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật, an toàn môi trường, hay các
biện pháp khác như hạn chế ngoại tệ, hạn chế cho vay để nhập khẩu hàng xa xỉ không cần
thiết...
Chỉ đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam, các công ty thành viên có kế hoạch huy động tối đa công
suất các nhà máy điện để đáp ứng nhu cầu phụ tải điện trong mùa khô, ưu tiên bảo đảm điện
cho sản xuất; phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo
việc sử dụng điện tiết kiệm, phân bổ hợp lý để bảo đảm đáp ứng cho các nhu cầu thiết yếu của
sản xuất và đời sống.
Chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý về thuế, phí để điều tiết lợi nhuận do kinh
doanh xuất khẩu một số mặt hàng như thép, xi măng… thu được từ việc được sử dụng một số
yếu tố đầu vào giá hiện còn thấp hơn giá thị trường.
Xem xét, miễn, giảm thuế, gia hạn thời gian nộp thuế nguyên liệu đầu vào nhập khẩu phục vụ
sản xuất xuất khẩu đối với những ngành hàng trong nước còn thiếu nguyên liệu như dệt may, da
giầy, thuỷ sản, hạt điều, gỗ, dược phẩm,…; tiếp tục thực hiện tạm hoàn thuế giá trị gia tăng đầu
vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong năm 2011.
Kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc kê khai, áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo
cam kết tại các thoả thuận thương mại tự do, các chính sách ưu đãi về thuế tại các khu phi thuế
quan theo đúng quy định. Rà soát để giảm thuế đối với các mặt hàng là nguyên liệu đầu vào của
sản xuất mà trong nước chưa sản xuất được; nghiên cứu tăng thuế xuất khẩu lên mức phù hợp
đối với các mặt hàng không khuyến khích xuất khẩu, tài nguyên, nguyên liệu thô.
2.2.3. Thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt, cắt giảm đầu tư công, giảm bội chi ngân
sách nhà nước

Chỉ đạo phấn đấu tăng thu ngân sách nhà nước 7-8% so với dự toán ngân sách năm 2011 đã
được Quốc hội thông qua. Tăng cường kiểm tra, giám sát trong quản lý thu thuế, chống thất thu
thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; triển khai các biện pháp cưỡng chế nợ thuế để thu
hồi nợ đọng và hạn chế phát sinh số nợ thuế mới.
Các Bộ, cơ quan, địa phương chủ động sắp xếp lại các nhiệm vụ chi để tiết kiệm thêm 10% chi
thường xuyên của 9 tháng còn lại trong dự toán năm 2011 (không bao gồm chi tiền lương và
các khoản có tính chất lương, chi chế độ chính sách cho con người và tiết kiệm 10% chi thường
xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo kế hoạch đầu năm). Các Bộ, cơ quan, địa phương
tự xác định cụ thể số tiết kiệm, gửi Bộ Tài chính để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ
trong tháng 3 năm 2011. Số tiết kiệm thêm 10% này các Bộ, cơ quan, địa phương tự quản lý; từ
quý III năm 2011 sẽ xem xét, bố trí cho các nhiệm vụ cấp bách phát sinh ngoài dự toán hoặc
chuyển về ngân sách Trung ương theo hướng dẫn của Bộ Tài chính. Tạm dừng trang bị mới xe
ô-tô, điều hòa nhiệt độ, thiết bị văn phòng; giảm tối đa chi phí điện, nước, điện thoại, văn phòng
phẩm, xăng dầu,...; không bố trí kinh phí cho các việc chưa thật sự cấp bách. Người đứng đầu
các cơ quan, đơn vị, địa phương, tổ chức sử dụng ngân sách nhà nước chịu trách nhiệm tiết
giảm tối đa chi phí hội nghị, hội thảo, tổng kết, sơ kết, đi công tác trong và ngoài nước... Không
bổ sung ngân sách ngoài dự toán, trừ các trường hợp thực hiện theo chính sách, chế độ, phòng
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Xử lý
nghiêm, kịp thời, công khai những sai phạm.
Giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới 5% GDP. Giám sát chặt chẽ việc vay,
trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, nhất là vay ngắn hạn. Thực hiện rà soát nợ Chính phủ,
nợ quốc gia, hạn chế nợ dự phòng, không mở rộng đối tượng phạm vi bảo lãnh của Chính phủ.
Bảo đảm dư nợ Chính phủ, dư nợ công, dư nợ nước ngoài trong giới hạn an toàn và an toàn tài
chính quốc gia.


2.2.4. Bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.
Bộ Tài chính được giao tăng cường quản lý, bảo đảm tiết kiệm và hiệu quả chi ngân sách nhà
nước. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn để bảo đảm yêu cầu chi của ngân sách nhà nước. Rà
soát, tổng hợp nhu cầu ứng vốn năm 2011 của các dự án, công trình quan trọng, cấp bách cần

đẩy nhanh tiến độ để đưa vào sử dụng trong năm 2010 mà ngân sách năm 2011 nhất thiết phải
bố trí vốn để thực hiện có nguồn hoàn trả vốn đã ứng.
2.2.5. Bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính - ngân hàng.
Chính phủ giao NHNN kiểm soát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng; tăng
cường công tác thanh kiểm tra, giám sát để đánh giá được thực trạng hoạt động của từng ngân
hàng thương mại tổ chức tín dụng và của toàn bộ hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng để
có phương án xử lý kịp thời khi cần thiết.
2.6. Tăng cường bảo đảm an sinh xã hội
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương:
Thực hiện đồng bộ các chính sách an sinh xã hội theo các chương trình, dự án, kế hoạch đã
được phê duyệt; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội theo Nghị quyết số
02/NQ-CP của Chính phủ.
Tập trung chỉ đạo hỗ trợ giảm nghèo tại các địa phương, nhất là tại các xã, thôn, bản đặc biệt
khó khăn; hỗ trợ các hộ nghèo, địa phương nghèo xuất khẩu lao động; cho vay học sinh, sinh
viên,....
Chỉ đạo các cơ quan, địa phương triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng các quy
định hỗ trợ đối tượng chính sách, người có công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (già
yếu cô đơn, không nơi nương tựa,...),...
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ, cơ quan, địa phương bố trí
kinh phí để thực hiện các chính sách an sinh xã hội theo chuẩn nghèo mới.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Công Thương và
các Bộ, cơ quan, địa phương chỉ đạo việc triển khai thực hiện quy định về hỗ trợ hộ nghèo khi
giá điện được điều chỉnh.
2.7. Điều chỉnh giá điện, xăng dầu gắn với hỗ trợ hộ nghèo
Tiếp tục thực hiện lộ trình điều hành giá xăng dầu, điện theo cơ chế thị trường.
Bộ Tài chính chủ động điều hành linh hoạt giá xăng dầu theo đúng quy định tại Nghị định số
84/2009/NĐ-CP ngày 15 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu, bảo đảm
giá xăng dầu trong nước bám sát giá xăng dầu thế giới.
Trong năm 2011 thực hiện điều chỉnh một bước giá điện; Bộ Công Thương hoàn thiện, trình
Thủ tướng Chính phủ ban hành trong quý I năm 2011 cơ chế điều hành giá điện theo cơ chế thị

trường.
Nhà nước có chính sách hỗ trợ hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện.
2.8. Đẩy mạnh công tác tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, tạo đồng thuận cao trong xã
hội. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền


Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan
chủ quản thông tin, truyền thông, báo chí:
Chỉ đạo các cơ quan thông tin, truyền thông, báo chí bám sát các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và nội dung của Nghị quyết này thông tin, tuyên truyền đầy đủ, kịp thời,
nhất là các nội dung thuộc lĩnh vực tài chính, tiền tệ, giá cả, các chính sách an sinh xã hội,
chính sách hỗ trợ hộ nghèo trực tiếp chịu tác động của việc thực hiện điều chỉnh giá điện để
nhân dân hiểu, đồng thuận.
Xử lý nghiêm, kịp thời theo thẩm quyền các hành vi đưa tin sai sự thật, không đúng định hướng
của Đảng và Nhà nước về việc thực hiện chủ trương kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô,
bảo đảm an sinh xã hội.
Các Bộ, cơ quan, ban ngành Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương chỉ đạo và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời, công khai,
minh bạch cho báo chí, nhất là những vấn đề mà dư luận quan tâm.
3. KẾT LUẬN
Nền kinh tế mớii nổi liên kết để phát triển
Nói về tình hình Việt Nam hiện nay, Việt Nam gặp không ít khó khăn như lạm phát, thị trường
tài chính có những diễn biến khó lường... Tuy nhiên, Chính phủ đã nhận ra vấn đề và có những
giải phát thích hợp, thực hiện quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, ồn định kinh tế vĩ mô, đảm
bảo an sinh xã hội, phát triển biền vững. Các giải pháp của Chính phủ đã phát huy tác dụng.
Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu trong nửa đầu năm vẫn tăng cao, chỉ số giá tiêu dùng và nhập
siêu có xu hướng giảm. Tuy trước mắt vẫn còn những khó khăn nhưng các nhà kinh tế, các
chuyên gia và lãnh đạo các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới vẫn chia sẻ và nhìn nhận lạc quan
về triển vọng trung và dài hạn của Việt Nam.
Triển vọng kiềm chế lạm phát ở Việt Nam

Trong thời kỳ tới đây, lạm phát ở nước ta sẽ vẫn tiếp tục mang tính chất đặc trưng của nền kinh
tế chuyển đổi. Động thái của lạm phát sẽ chịu sự quy định của nhiều nhân tố bên trong và bên
ngoài, ngắn hạn và dài hạn, “quen” và “lạ” liên quan đến quá trình tiếp tục chuyển đổi, hoàn
thiện mô hình, cơ chế nền kinh tế thị trường Việt Nam.
Thứ nhất, quá trình hội nhập với thế giới trong xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa là một nhân
tố bên ngoài mới lạ, có tác động hai chiều khá linh động và phức tạp đến động thái lạm phát ở
nước ta.
Dưới góc độ tích cực làm dịu lạm phát, nó cho phép chúng ta nhập được nguồn hàng rẻ, dồi dào
từ bên ngoài, trực tiếp làm tăng tổng cung trên thị trường, điều hòa cân đối cung cầu.
Đồng thời việc cắt giảm thuế theo quy định của AFTA, WTO sẽ làm giảm nguồn thu ngân sách
nhà nước (NSNN) từ thuế quan mà hiện đang chiếm tỷ trọng đáng kể trong nguồn thu NSNN
của Việt Nam. Các xung lực mất ổn định tiền tệ tăng lên, chiếc bẫy lạm phát gắn với tự do hóa
ngoại thương sẽ khởi động và gia tăng tác động.
Các nhân tố bên ngoài gây mất ổn định tài chính - tiền tệ sẽ càng nhiều hơn, mạnh hơn bất chấp
những mong muốn chủ quan của chúng ta, và luôn có nguy cơ thách thức năng lực điều tiết vĩ
mô của Chính phủ.
Thứ hai, trong tương lai biến động của lạm phát ở Việt Nam tùy thuộc rất nhiều vào kết quả cải
cách khu vực kinh tế nhà nước, nhất là các doanh nghiệp nhà nước (DNNN).Khu vực DNNN


đã và đang còn chiếm phần chủ yếu trong NSNN cả về các khoản thu lẫn các khoản chi (mà
nhất là chi). Mặt khác, nó có liên quan mật thiết và mạnh mẽ với các vấn đề môi trường kinh
doanh và xã hội của Việt Nam trong cả hiện tại lẫn tương lai.





×