Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.57 KB, 72 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO


2

NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế


Mã số: CH22B041
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI - NĂM 2016

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận
được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô giáo, gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp.
Đặc biệt, xin được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến PGS.TS Trần
Ngọc Dũng – người thầy đã hết lòng giúp đỡ, tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi
điều kiện tốt cho tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu Luận văn của mình.
Đồng thời, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu hà trường, toàn
thể quý thầy cô, cán bộ trong Phòng Đào tạo, Khoa Sau đại học, Khoa Pháp luật
kinh tế và cán bộ Thư viện trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sỹ.


3

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
luôn ở cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài nghiên
cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong hội đồng chấm luận
văn cho tôi những đóng góp quý báu để hoàn chỉnh luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016


Học viên

Nguyễn Thị Anh Đào

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng Luận văn này là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ
trợ từ Người hướng dẫn khoa học là PGS.TS. Trần Ngọc Dũng. Các nội dung nghiên
cứu và kết quả trong công trình này là trung thực. Những số liệu phục vụ cho việc
phân tích, nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có
ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo. Ngoài ra, đề tài còn sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả, cơ quan tổ chức khác và cũng thể hiện trong
phần tài liệu tham khảo. Nếu phát hiện có bất cứ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm trước hội đồng cũng như kết quả luận văn của mình.
Hà Nội, ngày
Người hướng dẫn khoa học

tháng

năm 2016

Tác giả


4

PGS.TS. Trần Ngọc Dũng

Nguyễn Thị Anh Đào



5

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

5

5.


Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu của đề tài

5

6.

Những điểm mới của luận văn 5

7.

Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn 6

8.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 7

9.

Cơ cấu của luận văn

2
4

7

CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA
DOANH NGHIỆP 9
1.1. Khái niệm người đại diện

9


1.2 .Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

12

1.3. Người đại diện theo pháp luật trong từng loại hình doanh nghiệp theo pháp
luật Việt Nam
15
1.3.1. Người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên 16
1.3.2. Người đại diện thep pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hai thành viên
17
1.3.3. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần

18

1.3.4. Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh 19


6

1.3.5. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân

21

1.4. Hệ thống các văn bản pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp hiện hành 22
1.4.1. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành
22
1.4.2. Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan 23

1.4.3. Các điều lệ hoạt động và tổ chức của các doanh nghiệp
1.5.

23

Nội dung của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
24

1.6. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về người đại diện của
doanh nghiệp
25
1.7. Quy định pháp luật của các nước khác về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
30
1.7.1. Pháp luật về người đại diện theo pháp luật của Pháp 31
1.7.2. Pháp luật về người đại diện theo pháp luật của Nhật Bản
1.7.2. Pháp luật về người đại diện theo pháp luật của Thái Lan

32

CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP
LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
35
2.1.

Quy định của pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
35

2.1.1.


Quy định về chức năng, vai trò của người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp

35

2.1.2. Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
39
2.1.3. Quy định về các quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật của
Doanh nghiệp
48


7

2.1.4. Quy định về trách nhiệm của người đại diện của doanh nghiệp
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh

nghiệp
2.2.1.

59
Những kết quả đạt được khi triển khai thi hành pháp luật về người đại diện

theo pháp luật của doanh nghiệp
2.2.2.


54

59

Những hạn chế, vướng mắc khi triển khai thi hành pháp luật về người đại

diện theo pháp luật của doanh nghiệp

62

CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP Ở VIỆT
NAM 67
3.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của

doanh nghiệp

67

3.1.1. Việc hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước
67
3.1.2. Việc hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
tạo hành lang pháp lý làm rõ địa vị pháp lý của người đại diện theo pháp luật khi
tham gia điều hành, quản lý doanh nghiệp
68
3.1.3. Việc hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong

quan hệ với doanh nghiệp 69
3.1.4. Việc hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
phù hợp với thực tiễn và có sự thống nhất với các văn bản pháp luật khác
69
3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp
70
3.2.1. Quy định rõ ràng, cụ thể về nội dung khái niệm người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp 70


8

3.2.2. Quy định cụ thể về phạm vi đại diện của người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp
71
3.2.3. Quy định rõ về điều kiện và tiêu chuẩn của người đại diện của doanh nghiệp
72
3.2.4. Xác định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp với trách nhiệm của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp 72
3.3. Các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về người đại diện theo
pháp luật của doanh nghiệp
73
3.3.1. Về công tác tuyên truyền pháp luật

73

3.3.2. Tổ chức thanh tra, giám sát việc thi hành pháp luật của doanh nghiệp và các
chức danh quản lý, điều hành doanh nghiệp 74
3.3.3. Đào tạo, nâng cao trình độ cho người đại diện của doanh nghiệp 74

3.3.4. Nâng cao vai trò của điều lệ doanh nghiệp

75

3.3.5. Xây dựng hệ thống thông tin doanh nghiệp cấp độ quốc gia 76
3.3.6. Khai thác sự hỗ trợ của hiệp hội các doanh nghiệp
KẾT LUẬN 78

76


9

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thường giữ vị trí quan trọng trong công ty, người đại diện theo pháp luật có
quyền nhân danh doanh nghiệp xác lập, thực hiện giao dịch dân sự - thương mại, đồng
thời quản lý, tổ chức, hoạt động và điều hành kinh doanh vì lợi ích của doanh nghiệp
đó. Trên thế giới, các học thuyết về quan hệ đại diện đã được các học giả nước ngoài
nghiên cứu từ lâu với mục đích nhằm lý giải mối quan hệ cơ hữu giữa chủ sở hữu và
người quản lý công ty. Kết quả nghiên cứu đã phát triển nhiều nguyên tắc pháp lý của
mô hình quản trị công ty hiện đại với sự phân chia giữa quyền sở hữu với quyền quản
lý và kiểm soát công ty.
Có thể thừa nhận rằng pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam đã tiếp cận một
cách khá đầy đủ những giá trị tích cực của các học thuyết về quan hệ đại diện cũng như
các quy định tiến bộ của một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, sau mấy chục năm đổi
mới, tư duy về mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thông qua chế định
người đại diện của doanh nghiệp vẫn chưa được phát triển một cách toàn diện và đầy
đủ. Chính điều này đã làm nảy sinh những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp
luật, thí dụ như việc xác định các hình thức đại diện trong giao dịch của doanh nghiệp;

phạm vi và thẩm quyền của người đại diện; trách nhiệm của doanh nghiệp đối với các
giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện, nhất là vấn đề năng lực chủ thể và hiệu
lực pháp lý của hợp đồng mà họ giao kết; vấn đề chấp nhận hay không các thông lệ, tập
quán thương mại quốc tế về quan hệ đại diện trong các giao dịch thương mại của doanh
nghiệp và nhiều vấn đề đáng quan tâm khác liên quan đến địa vị pháp lý cũng như tư
cách chủ thể của người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp. Rõ ràng là những
khó khăn này đều xoay quanh chủ đề người đại diện theo pháp luật cho doanh nghiệp;
vì thế, việc nghiên cứu có hệ thống về vấn đề này sẽ đóng góp tích cực vào việc hoàn
thiện cơ cấu quản trị doanh nghiệp ở mức vi mô và quản lý nhà nước về hoạt động kinh
tế của các doanh nghiệp ở mức vĩ mô. Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài
“Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm
2014” làm hướng nghiên cứu cho luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, một số học thuyết về đại diện đã được nghiên cứu từ khá lâu.
Trong các tác phẩm như “An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of
Nations” (Tìm hiểu về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia – 1922) của
Adam Smith; “The Modern Corporation and Private Property” (Tổng công ty hiện đại
và tài sản cá nhân – 1932) của Adolf A. Berle và Gardiner C. Means; “Agency Law
and Contract Formation” (Sự hình thành hợp đồng và pháp luật đại diện” – 2001) của
Eric Rasmusen; “Corporate Governance: Principles, Policies and Practices” (Quản trị
doanh nghiệp: Nguyên tắc, chính sách và thực tiễn – 2009) của Bob Tricker,… các nhà


10

nghiên cứu đã dự đoán rằng, xu hướng phát triển của các công ty hiện đại cần có sự
phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, kiểm soát công ty. Tuy nhiên, các học
thuyết này cũng có phạm vi hẹp chỉ dừng lại ở các quan hệ tài chính xảy ra giữa các cổ
đông (người được đại diện) và giám đốc điều hành công ty (người đại diện).
Một số tác phẩm của các tác giả khác đề cập tới người đại diện theo pháp luật ở

dưới những góc độ như vai trò, trách nhiệm hoặc các loại rủi ro từ việc đại diện như
“Legal Representatives: Understanding the Risks and Responsibilities” (Đại diện theo
pháp luật: Tìm hiểu về các rủi ro và trách nhiệm) của Daisy Xu và Matthew McKee,
“Powers Granted to the Legal Representative of the Company” (Những quyền lực
được cấp cho người đại diện theo pháp luật của công ty” – 2004) của Olga M. Barreto,
“Roles and Responsibilities of the China Legal Representative” (Vai trò và trách
nhiệm của người đại diện theo pháp luật ở Trung Quốc – 2011) của Nicholas Hughes.
Còn đối với tình hình nghiên cứu trong nước, ở phạm vi và góc độ khác nhau,
đã có những công trình nghiên cứu, bài viết đề cập chế định người đại diện của doanh
nghiệp, điển hình như tác phẩm “Người quản lý công ty theo Luật Doanh nghiệp 1999
- Nhìn từ góc độ luật so sánh” (2005) và “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của
pháp luật công ty Việt Nam” (2007) của tác giả Bùi Xuân Hải đăng trên Tạp chí Khoa
học pháp lý. Bên cạnh đó, cũng có nhiều tác phẩm được giới chuyên môn đánh giá cao
như “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đại diện theo pháp luật” (2012) của Lê Văn
Thiệp đăng trên Tạp chí Kiểm sát, “Quản trị công ty - Vấn đề đại diện của các công ty
đại chúng tại Việt Nam” (2013) của nhóm tác giả Nhâm Phong Tuân và Nguyễn Anh
Tuấn đăng trên Tạp chí Khoa học của Đại học Quốc gia Hà Nội, hoặc “Hành lang
pháp lý mới về người đại diện theo pháp luật của Luật Doanh nghiệp năm 2014”
(2015) của Bùi Đức Giang (2015) trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6/2015,…
Các nghiên cứu này phân tích những vấn đề cơ bản xoay quanh người đại diện theo
pháp luật, tuy nhiên lại chưa mang tính chuyên khảo đi sâu từng vấn đề.
Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu đề cập đến những lĩnh vực cụ thể như
vấn đề người đại diện của ngân hàng thương mại hay phân tích dưới góc độ quản trị
công ty có thể tham khảo như “Một số ý kiến về vấn đề đại diện trong ký kết hợp đồng
kinh tế” (2001) của Lê Thị Bích Thọ đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp lý, số 2 năm
2001,“Vấn đề đại diện hợp pháp của ngân hàng thương mại” (2003) của tác giả
Nguyễn Văn Tuyến đăng trên Tạp chí Luật học, số 5 năm 2003. Tuy đây là vấn đề
được các tác giả nghiên cứu sâu và chi tiết nhưng nội dung các bài viết này không còn
mang tính thời sự và bám sát thực tiễn pháp lý.
Ngoài ra, có một số luận văn, luận án đã tiếp cận những vấn đề pháp lý về người

đại diện ở những góc độ chuyên biệt như luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2006 nghiên
cứu về “Pháp luật về hợp đồng đại diện thương mại và thực tiễn áp dụng” của tác giả
Nguyễn Thị Thúy Nga, luận văn Thạc sĩ Kinh tế năm 2007 khai thác khía cạnh “Kiểm
soát và quản lý hiệu quả chi phí đại diện trong công ty cổ phần” của tác giả Hà Thị
Thu Hằng, “Người đại diện theo pháp luật theo Luật Doanh nghiệp năm 2005” - Luận


11

văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Văn Thắng (2007), luận văn Thạc sĩ Luật học
năm 2011 với chuyên đề “Kiểm soát giao dịch tư lợi của người quản lý công ty theo
Luật Doanh nghiệp 2005” của tác giả Lý Đăng Thư, hay luận văn Thạc sỹ Luật học
“Chế định người đại diện của doanh nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam”
của Phạm Lâm Hải Nguyên (2014). Đáng chú ý là Luận án Tiến sĩ Luật học năm 2012
nghiên cứu về lĩnh vực “Đại diện cho thương nhân theo pháp luật thương mại Việt
Nam hiện nay” của tác giả Hồ Ngọc Hiển. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này đề
cập đến những quy định của pháp luật thương mại về người đại diện cho thương nhân
hoặc phân tích trong một phạm vi hẹp về người đại diện theo pháp luật của công ty.
Cho đến nay, có thể nhận thấy các bài viết mặc dù mang tính chuyên sâu nhưng
chỉ đề cập tới một khía cạnh nhỏ về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp. Trong số các công trình nghiên cứu là luận văn, luận án vẫn chưa có một công
trình nào tiếp cận một cách cụ thể các quy định của pháp luật về doanh nghiệp trong
thời điểm hiện tại nhằm bổ sung, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế
định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Do đó, việc nghiên cứu một cách
có hệ thống về vấn đề này có ý nghĩa thời sự và thực tiễn sâu sắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật
Việt Nam về chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Bên cạnh đó,
tác giả luận văn cũng tiến hành việc so sánh các quy định trên với các quy định về vấn
đề này của một số quốc gia trên thế giới.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp, bao gồm các loại hình doanh nhiệp chủ yếu như công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân theo quy định của luật Doanh nghiệp
năm 2014. Tác giả luận văn giới hạn đối tượng nghiên cứu của luận văn ở “người đại
diện” với tư cách là người lãnh đạo (quản lý, điều hành) doanh nghiệp, đại diện cho
doanh nghiệp khi quan hệ với các đối tác khác (ký kết hợp đồng) hoặc đại diện cho
doanh nghiệp trước các cơ quan tài phán (Trọng tài thương mại, Tòa Kinh tế) chứ
không nghiên cứu “người đại diện” với tư cách là người làm dịch vụ “đại diện cho
thương nhân” để hưởng thù lao.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Khi nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phương pháp luận biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mác–Lê nin, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam
về chính sách phát triển doanh nghiệp, trong đó thừa nhận cơ chế người đại diện là yếu
tố quan trọng hàng đầu trong hoạt động quản lý, giám sát và điều hành doanh nghiệp.
Về phương pháp nghiên cứu cụ thể, tác giả đã sử dụng phối hợp nhiều phương
pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phương pháp


12

chuyên khảo, phương pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, so sánh đối chiếu, diễn
giải, quy nạp để giải quyết các vấn đề đã đặt ra của luận văn.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu của đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đề xuất phương hướng và một số giải
pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về doanh nghiệp của Việt Nam về chế định
người đại diện của doanh nghiệp. Đồng thời, luận văn cũng đề xuất một số giải pháp
nhằm thực thi có hiệu quả các quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn đặt ra các nhiệm vụ

nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghiên cứu và làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về địa vị pháp lý
của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật hiện hành về
chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp và thực tiễn thi hành pháp luật
về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn đã chỉ ra được nhiều điểm tiến bộ của Luật Doanh nghiệp năm 2014
về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Đồng thời, luận văn cũng đề cấp tới
một số vấn đề trong chế định người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chưa
được làm rõ, vẫn còn bất cập khi được áp dụng trên thực tế. Cụ thể, luận văn đã đạt
được những điểm mới như sau:
(1) Về khía cạnh lý luận, luận văn nghiên cứu một cách chi tiết vấn đề liên quan
đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, có sự nhìn nhận và đánh giá chi
tiết khi đặt chúng trong mối quan hệ pháp luật so sánh trong từng thời kì và một số quy
định của các quốc gia khác trên thế giới.
(2) Về khía cạnh thực tiễn, luận văn đã xác định được các nội dung cụ thể liên
quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như vị trí, vai trò, tiêu chuẩn,
điều kiện, quyền và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật.
Bên cạnh đó, luận văn đánh giá những kết quả đạt được của luật Doanh nghiệp năm
2014 so với luật cũ cũng như đề cập tới một số hạn chế và vướng mắc trong quy định
liên quan đến người đại diện theo pháp luật.
(3) Về khía cạnh pháp lý, luận văn đưa ra các quan điểm cơ bản và cốt yếu trong
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật ở cả hai
phương diện: kiến nghị hoàn thiện nội dung và kiến nghị biện pháp thi hành luật. Luận
văn đã trình bày phương hướng cơ bản và các giải pháp cụ thể của việc xây dựng và
hoàn thiện các nội dung liên quan đến người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.
Luận văn cũng đã nêu ra được một số giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả các quy định
pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.



13

7. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
1) Khái niệm “người đại diện”, “người đại diện theo pháp luật” dưới các góc
độ pháp lý luật học, kinh tế học và ngôn ngữ học được hiểu như thế nào?
2) Hệ thống các văn bản pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp bao gồm các văn bản nào? Chúng quy định những nội dung gì về người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp? Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về người
đại diện của doanh nghiệp diễn ra như thế nào? So với quy định của các nước khác về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, Việt Nam đã, đang và sẽ rút ra bài học
kinh nghiệm gì về cơ chế này?
4) Pháp luật quy định như thế nào về chức năng, vai trò, tiêu chuẩn và địa vị
pháp lý của người đại diện cho doanh nghiệp?
5) Thực tiễn thi hành pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp có những kết quả đạt được và khó khăn vướng mắc ra sao?
6) Cần đề ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo pháp
luật của doanh nghiệp như thế nào để đạt được hiệu quả về cả mặt lý luận và thực tiễn?
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học, từ kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm cơ sở lý
luận và thực tiễn để hoàn thiện tổ chức và cơ chế người đại diện theo pháp luật trong
doanh nghiệp. Đồng thời, luận văn sẽ là cơ sở khoa học cho việc sửa đổi, bổ sung, xây
dựng và hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh về vấn đề này.
Về ý nghĩa thực tiễn, việc nghiên cứu của luận văn sẽ giúp cho việc tận dụng và
kế thừa sự hiệu quả của các quy định pháp luật về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp, mặt khác đề ra những giải pháp khắc phục vướng mắc, bất cập từ những
quy định pháp luật về vấn đề này. Thêm vào đó, luận văn góp phần tập trung triển khai
công tác đào tạo, nâng cao trình độ cho người đại diện. Cuối cùng, luận văn đề xuất các
giải pháp nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt
động đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp.

9. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp ở Việt Nam.


14

Chương 3. Phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp ở Việt Nam.


15

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT
CỦA DOANH NGHIỆP
Trong hoạt động của các doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định tại luật
Doanh nghiệp năm 2014, dù mô hình hoạt động là công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty cổ phần thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp luôn được coi là chế
định quan trọng, có thể quyết định thành bại của một doanh nghiệp. Nếu không tìm
hiểu hoặc tìm hiểu không đúng, không đầy đủ, doanh nhiệp có thể sẽ gặp rắc rối và
không phân định được trách nhiệm cũng như vai trò của người đại diện theo pháp
luật. Chế định đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp không những thỏa mãn quyền,
lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể mà còn là công cụ pháp lý hữu hiệu để Nhà nước
kiểm soát quan hệ đại diện theo pháp luật trong một trật tự ổn định.
1.1. Khái niệm người đại diện

Đại diện là chế định quan trọng, không chỉ trong pháp luật công mà còn trong cả
pháp luật tư, được ghi nhận trong pháp luật của không ít các quốc gia trên thế giới, bao
gồm cả quốc gia theo hệ thống Civil Law và Common Law. Thậm chí, các quốc gia
theo hệ thống Common Law còn có học thuyết riêng khá toàn diện về đại diện
(Agency)[1]. Trong mọi mặt đời sống xã hội nói chung và trong hoạt động kinh doanh
thương mại nói riêng, đại diện thúc đẩy sự phân công lao động xã hội với một ảnh
hưởng vô cùng rộng lớn. Vì thế, Konrad Zweigert và Hein Koetz cho rằng, phương
thức đại diện là một sự cần thiết không thể bị vô hiệu trong bất kỳ chế độ phát triển nào
mà dựa trên sự phân công lao động đối với sản xuất, và phân phối hàng hóa và dịch
vụ[2].
Sự ra đời và phát triển của chế định đại diện ở các nước Châu Âu lục địa dựa
trên nền tảng tư tưởng của trường phái luật tự nhiên trong bối cảnh thương mại và công
nghiệp đang phát triển mạnh với sự xuất hiện các vấn đề như giao một con tàu cho
thuyền trưởng điều khiển và quản lý hay hoạt động kinh doanh thông qua sự điều hành
của người khác[3]. Khi tham gia vào giao dịch dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác
lập, thực hiện các giao dịch dân sự.
Theo các từ điển pháp luật phổ biến tại Việt Nam hiện nay, đại diện theo pháp
luật được hiểu là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định[4]. Trong ngôn ngữ Anh, “đại diện” là “represent”, nghĩa là làm hoặc phát
[1] Nguyễn Vũ Hoàng (2013), “Chế định đại điện trong pháp luật Việt Nam và vấn đề đặt ra
trong thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Luật học (2), tr.2.
[2] Konrad Zweigert and Hein Koetz (1998), An Introduction to Comparative Law, Claredon
Press, Oxford, page 431.
[3] Ngô Huy Cương (2009), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – Nhìn
từ góc độ Luật so sánh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (4), tr.26-28.


16

ngôn chính thức thay cho ai đó và bảo vệ lợi ích của họ[5]. Trong ngữ pháp Hán Việt,

khái niệm đại diện không được hiểu theo nghĩa thông thường là sự thay mặt làm việc gì
đó. Thuật ngữ “đại diện” trong tiếng Hán là 代面 (dài miàn), nguyên chỉ cái mặt nạ.
Sau là tên gọi môn nhạc vũ dùng mặt nạ biểu diễn thời Nam Bắc triều, Tùy, Đường;
đồng thời, còn được hiểu là hoạt động dùng thư tín hoặc thi văn thay cho thảo luận
trước mặt[6]. Trong các văn bản pháp lý và dịch thuật của Trung Quốc, cụm từ “đại
biểu” (代表) được dùng với nghĩa là nói hộ, làm hộ, làm thay người khác, tức chính là
khái niệm“đại diện” mà người Việt Nam hay dùng. Do đó, khi nhắc đến người đại
diện theo pháp luật, cụm từ “pháp định đại biểu nhân” (法定代表人) được dùng phổ
biến và đồng nhất trong các văn bản pháp lý Trung Hoa.
Như vậy có thể đánh giá rằng, trên bình diện nghiên cứu, pháp luật Việt Nam đã
có cách tiếp cận tương đối hài hòa với quan niệm chung của các nước về đại diện khi
quy định: “Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì
lợi ích của người khác (sau đây là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự trong phạm vi đại diện”[7]. Một số nghiên cứu còn đi xa hơn khi chỉ ra rằng,
quan niệm về đại diện của pháp luật Việt Nam có nguồn gốc từ trường phái luật tự
nhiên giống với Bộ luật Dân sự của Pháp[8].
Trên lĩnh vực pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật của các nước có nền kinh tế
thị trường phát triển đều quan tâm điều chỉnh vấn đề đại diện cho doanh nghiệp, đặc
biệt là trong vấn đề quản trị doanh nghiệp. Doanh nghiệp, tự bản thân nó không thể
hành động cho chính mình mà chỉ có thể hành động thông qua những con người cụ thể
- những người quản lý, điều hành doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp luôn cần có
người đại diện trong giao dịch để xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình[9]. Khi có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì vấn đề quản trị
doanh nghiệp xuất hiện.
Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền quyết định. Nói cách khác, đại diện được quy định theo pháp luật chung
[4] Luật gia Nguyễn Ngọc Điệp (1999), 1200 thuật ngữ pháp lý Việt Nam, Tp. Hồ Chí Minh,
Nxb. Tp. HCM, tr. 13.
[5] Definition of represent verb from the Oxford Advanced Learner's Dictionary, Nguyên gốc
represent: to act or speak officially for somebody and defend their interests, website:

truy cập ngày 17/03/2016.
[6] Hán Việt từ điển, từ cần tra: Đại diện, tại địa chỉ: , truy cập ngày
21/03/2016.
[7] Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2005.
[8] Ngô Huy Cương (2009), tldd 3, tr.29.
[9] Bùi Xuân Hải (2007), “Học thuyết về đại diện và mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt
Nam”, Tạp chí Khoa học pháp lý, (4), tr11-18.


17

là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện. Các chủ thể trong quan hệ đại diện có
thể là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc pháp nhân.
Qua việc phân tích khái niệm đại diện dưới góc độ ngôn ngữ học và góc độ quan
hệ pháp luật, có thể định nghĩa:
Người đại diện là người do pháp luật quy định hoặc được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định, nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp thực hiện một phần
hoặc toàn bộ công việc nhất định.
1.2. Khái niệm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Mặc dù mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn, nhưng pháp luật về
doanh nghiệp của Việt Nam đã tiếp thu tương đối đầy đủ những giá trị tích cực của các
mô hình quản trị công ty, cũng như học thuyết về đại diện đã hình thành và phổ biến ở
những quốc gia có lịch sử phát triển công ty hàng trăm năm. Theo luật Doanh nghiệp
năm 2014, doanh nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật
nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh[10]. Theo nghĩa đó, doanh nghiệp
là một tổ chức kinh tế được thành lập theo một trong bốn hình thức: công ty trách
nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân[11]. Doanh
nghiệp là một chủ thể pháp luật, có năng lực để tham gia vào các quan hệ pháp luật,
trong đó trước hết và chủ yếu là các quan hệ kinh doanh thông qua những người đại

diện[12]. Vì thế, ý chí và hành vi của những thể nhân nhất định giữ cương vị trong
doanh nghiệp được xem là ý chí và hành vi của doanh nghiệp[13]. Cho nên, doanh
nghiệp phải luôn có người đại diện, kể từ khi được thành lập, trong quá trình phát triển
cho đến khi chấm dứt sự tồn tại trên thương trường.
Người đại diện theo pháp luật trước hết được quy định tại Bộ luật Dân sự năm
2005. Cụ thể, Điều 140 Bộ luật này quy định về đại diện theo pháp luật như sau: “Đại
diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định”. Theo đó, khoản 4 Điều 141 Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đưa ra
khái niệm về người đại diện theo pháp luật là: “Người đứng đầu pháp nhân theo quy
định của điều lệ pháp nhân hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Bộ
luật Dân sự năm 2015 sắp sửa có hiệu lực đã thay đổi các quy định về đại diện theo
pháp luật. Theo đó, các nhà làm luật chia ra làm hai loại là đại diện theo pháp luật của
[10] Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
[11] Trong phạm vi nghiên cứu này, cụm từ “doanh nghiệp” được sử dụng như một khái niệm
chung để chỉ các loại hình doanh nghiệp được thành lập theo luật Doanh nghiệp năm 2014.
[12] Đồng Ngọc Ba (2004),“Quan niệm về Doanh nghiệp - Một số vấn đề phương pháp
luận”, Tạp chí Luật học số 2, tr.13.
[13] Cao Đình Lành (2009), “Một vài ý kiến về quyền được thông tin của cổ đông trong công
ty cổ phần”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (6), tr.30.


18

cá nhân và đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Nếu xét về cấu trúc tổng thể, doanh
nghiệp tư nhân là một tổ chức[14] không có tư cách pháp nhân, chủ doanh nghiệp đồng
thời là người đại diện theo pháp luật. Do đó, nếu đối chiếu với các quy định của pháp
luật dân sự thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân sẽ không phải là
đại diện theo pháp luật của cá nhân, đồng thời cũng không phải người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân.
Mặc dù người đại diện theo pháp luật đã được nhắc tới và định nghĩa không ít

bởi các luật gia nhưng nó mới chính thức được đưa vào luật Doanh nghiệp năm 2014.
Trước thời điểm luật Doanh nghiệp hiện hành có hiệu lực, pháp luật doanh nghiệp Việt
Nam vẫn chưa đưa ra một định nghĩa chính thức nào về người đại diện của doanh
nghiệp. Vì thế, những quy định về đại diện của pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm
2005 cũng được áp dụng chung cho các loại hình doanh nghiệp. Đối với pháp nhân, đại
diện của pháp nhân là người nhân danh pháp nhân để tham gia các giao dịch vì lợi ích
của pháp nhân đó[15]. Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại
diện theo uỷ quyền. Ý chí của các thành viên pháp nhân được thể hiện thống nhất
thông qua người đại diện[16]. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân được hiểu là
người đứng đầu pháp nhân (là các doanh nghiệp, trừ doanh nghiệp tư nhân không được
coi là pháp nhân). Người đại diện theo pháp luật được quy định trong Điều lệ pháp
nhân hoặc trong quyết định thành lập hoặc Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, với
tư cách người đại diện theo pháp luật, họ có quyền nhân danh pháp nhân xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự vì lợi ích của pháp nhân.
Theo luật Doanh nghiệp năm 2014, người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh
từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng Tài, Tòa án nhân dân và các
quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp đặc biệt, Tòa
án có thẩm quyền chỉ định người đại diện theo pháp luật. Người đại diện do Tòa án chỉ
định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của Tòa án chỉ định họ đại diện cho đương
sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện do Tòa án chỉ định không bị hạn chế
trong các loại việc[17].
[14] Theo khoản 27, Điều 3 luật Đất đai năm 2013 quy đinh: “Tổ chức kinh tế bao gồm doanh
nghiệp, hợp tác xã và tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”.
[15] Nguyễn Ngọc Bích (2000), Luật Doanh nghiệp: Vốn và quản lý trong công ty cổ phần.
NXB Trẻ, tr.25.
[16] Hoàng Thế Liên (Chủ biên) (2010), Bình luật khoa học Bộ luật dân sự, NXB. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội tr.234.

[17] Minh Nhất, “Đại diện của đương sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (30/03/2015),
tại website: , truy cập ngày 24/03/2016.


19

Một thực tế là, khi tiếp nhận quan niệm của nước ngoài về quản trị công ty vào
Việt Nam, với sự khác biệt lớn về thể chế luật pháp, văn hóa và sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, cấu trúc quản trị nội bộ công ty của Việt Nam có sự khác biệt nhất
định với những mô hình quản trị công ty phổ biến trên thế giới[18]. Vì thế, trên bình
diện nghiên cứu, nội hàm của khái niệm người đại diện doanh nghiệp chưa thể hiện đầy
đủ giống như những nghiên cứu của lý thuyết về đại diện. Khái niệm về đại diện chỉ
mới tiếp cận phần bề nổi bên ngoài chứ chưa làm rõ về mặt phương pháp luận bản chất
của quan hệ đại diện là sự ủy quyền quyền định đoạt tài sản vì lợi ích của chủ sở hữu.
Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam có sự phân biệt giữa đại diện theo pháp luật và đại
diện theo ủy quyền. Khó tìm thấy sự phân biệt như thế ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển.
Điều đó có thể được nhìn nhận ở một góc độ khác, chúng ta có thể thấy sự pha
trộn trong luật Doanh nghiệp năm1999, luật Doanh nghiệp năm 2005 và luật Doanh
nghiệp năm 2014 những quy tắc pháp lý của luật công ty của CHLB Đức – một trường
phái luật điển hình của Châu Âu và của mô hình luật công ty Anh – Mỹ[19].
Pháp luật của Châu Âu lục địa thường chia công ty thành hai loại lớn là công ty
đối nhân và công ty đối vốn[20]. Do sự ảnh hưởng này, Việt Nam đã du nhập các loại
hình cá nhân kinh doanh, hợp danh và các công ty trong luật Doanh nghiệp năm
2014[21]. Với nhiều loại hình công ty được gom vào chung một đạo luật như vậy, dễ
hiểu vì sao khái niệm người đại diện không thể bao quát và thể hiện một cách đầy đủ
nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp. Còn đối với hệ thống thông luật từ lâu đã giải
quyết tốt vấn đề này[22]. Với truyền thống không có sự phân định giữa pháp luật dân sự
với pháp luật thương mại, do đó không có đại diện trong lĩnh vực dân sự và đại diện
cho thương nhân như pháp luật Việt Nam.


[18] Xem thêm Bùi Xuân Hải (2012),”Lý luận và mô hình quản trị công ty ở nước ngoài và
vấn đề tiếp nhận vào Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 5, tr.58-66.
[19] Bùi Xuân Hải (2007), “Tiếp nhận pháp luật nước ngoài: lý thuyết và thực tiễn trong
pháp luật công ty của Việt Nam”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 5, tr.50-57.
[20] Công ty đối nhân bao gồm các công ty dân luật, hợp danh, hợp danh hữu hạn, hợp danh
cổ phần theo thương luật. Công ty đối vốn, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty
cổ phần.
[21] Phạm Duy Nghĩa (2006), “Sự thay đổi trong pháp luật Cộng hòa liên bang Đức và so
sánh với pháp luật công ty Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 79, tr.43.
[22] Thông luật là hệ thống mà mỗi khi áp dụng cho sự kết hợp các bối cảnh mới sẽ chứa
đựng các luật lệ chúng ta rút ra được từ các nguyên tắc pháp lý và tiền lệ pháp. Xem thêm:
Alan B.Morrison (2007), Những vấn đề cơ bản của Luật pháp Mỹ, NXB. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr.5.


20

Như vậy, từ những phân tích trên, có thể đưa ra một định nghĩa khái quát về
người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là người do pháp luật quy định
hoặc do tòa án chỉ định, có quyền nhân danh và vì lợi ích của doanh nghiệp xác lập,
thực hiện các giao dịch, công việc trong phạm vi đại diện.
1.3.

Người đại diện theo pháp luật trong từng loại hình doanh nghiệp
theo pháp luật Việt Nam
Luật Doanh nghiệp năm 1999, luật Doanh nghiệp năm 2005, luật Doanh nghiệp
năm 2014 và ngay cả các văn bản dưới luật, các hồ sơ, giấy tờ đăng kí doanh nghiệp
đều thừa nhận chủ thể có tư cách làm đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá

nhân. Cá nhân này phải có đầy đủ các thông tin về nhân thân như họ và tên đầy đủ, giới
tính, ngày sinh, dân tộc, quốc tịch, chứng minh thư hoặc hộ chiếu còn hiệu lực, hộ khẩu
và địa chỉ hiện tại.
Đại diện theo pháp luật thường giữ những chức vụ quan trọng trong công ty như
Chủ tịch Hội đồng Thành viên hoặc Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc, Giám đốc,
hoặc chính là chủ doanh nghiệp tư nhân, thường phải có trình độ chuyên môn hoặc
kinh nghiệm thực tế trong quản trị kinh doanh hoặc trong ngành, nghề kinh doanh
chính của công ty. Trong mỗi loại hình doanh nghiệp, đại diện theo pháp luật có những
chức danh khác nhau và luật quy định khác nhau về việc thành lập thêm doanh nghiệp.
1.3.1. Người đại diện theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu. Trường hợp cá nhân làm chủ sở hữu, thông thường
người đó có quyền tự quyết định người đó hoặc bổ nhiệm, chỉ định, thuê người khác
làm người đại diện theo pháp luật. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
do tổ chức làm chủ sở hữu thì có đặc thù riêng. Điều 78 luật Doanh nghiệp năm 2014
quy đinh cơ cấu tổ chức quản lý của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do tổ
chức làm chủ sở hữu được tổ chức quản lý và hoạt động theo một trong hai mô hình
Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; hoặc Hội đồng
thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên. Trường hợp Điều lệ
công ty không quy định thì Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty là
người đại diện theo pháp luật của công ty. Giám đốc, Tổng giám đốc là người đại diện
của công ty khi được ghi rõ trong điều lệ doanh nghiệp đó, hợp thức hóa trong giấy
đăng kí doanh nghiệp.
Các công ty nhà nước trước đây quy định người đại diện theo pháp luật là Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc (khoản 1 Điều 23 và khoản 1 Điều 38 luật Doanh nghiệp Nhà
nước năm 2003). Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định doanh nghiệp nhà nước là
doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, do đó doanh nghiệp nhà
nước có thể tồn tại trong các loại hình công ty cổ phần công try trách nhiệm hữu hạn



21

hai thành viên trở lên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Tuy nhiên theo
luật Doanh nghiệp năm 2014, doanh nghiệp nhà nước đã được nhìn nhận và định nghĩa
lại: doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Do đó, bản thân doanh nghiệp nhà nước sẽ là loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên do tổ chức làm chủ. Nhưng theo Hiệp định về Đối tác thương mại
xuyên Thái Bình Dương (TPP), thì doanh nghiệp có trên 50% vốn nhà nước được gọi
là doanh nghiệp nhà nước.
Về mặt lý thuyết, doanh nghiệp nhà nước sẽ được tổ chức theo hai mô hình. Mô
hình thứ nhất bao gồm Chủ tịch công ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát
viên; trong đó, Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật. Mô hình thứ hai bao
gồm Hội đồng thành viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và Kiểm soát viên; trong đó,
Chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, thường thì người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp nhà nước là Tổng
giám đốc[23].
1.3.2. Người đại diện thep pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hai thành
viên
Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc
Giám đốc, Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật. Chủ tịch Hội đồng thành
viên đương nhiên phải là thành viên công ty, còn Giám đốc, Tổng Giám đốc có thể là
thành viên công ty, cũng có thể là người được Hội đồng thành viên thuê làm Giám đốc,
người đại diện theo pháp luật theo hợp đồng lao động. Nếu Chủ tịch Hội đồng thành
viên là người đại diện theo pháp luật, thì các giấy tờ giao dịch phải ghi rõ điều đó[24].
Nếu có thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên là cá nhân làm
người đại diện theo pháp luật của công ty bị tạm giữ, tạm giam, trốn khỏi nơi cư trú, bị
mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì
phạm các tội buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách
hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật, thì thành viên còn lại đương nhiên

làm người đại diện theo pháp luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của Hội
đồng thành viên[25]. Quy định này cũng được kế thừa lại trong khoản 6 Điều 13 luật
[23] Điều 6 Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mẹ - Tập đoàn công nghiệp tàu thủy
Việt Nam (VINASHIN), ban hành kèm theo Quyết định số 179/QĐ-TTg ngày 28 tháng 01 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ quy định: “Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật
của VINASHIN”. Điều 7 Nghị định số 25/2016/NĐ-CP ngày 06/4/2016 quy định về Điều lệ tổ
chức và hoạt động của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam quy định: “Người đại diện
theo pháp luật của VNPT là Tổng Giám đốc VNPT”. Điều 7 Nghị định số 205/2013/NĐ-CP
của Chính phủ: Về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam quy định:
“Tổng giám đốc EVN là Người đại diện theo pháp luật của EVN”.
[24] Khoản 4 Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2005.


22

Doanh nghiệp năm 2014.
Cũng giống như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
cũng được phép có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật. Tuy nhiên, trong luật
Doanh nghiệp năm 2014 lại không chỉ rõ ai sẽ là người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp mà để cho doanh nghiệp tự quyết định và ghi trong giấy đăng kí doanh
nghiệp và điều lệ công ty. Như vậy, bất kỳ ai đủ điều kiện và tiêu chuẩn đưa ra của
doanh nghiệp đều có thể làm người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp đó, ngoại
trừ các đối tượng thuộc trường hợp cấm quản lý doanh nghiệp.
1.3.3. Người đại diện theo pháp luật của công ty cổ phần
Các quy định của pháp luật về doanh nghiệp trước đây đều quy định Chủ tịch
Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc hoặc Giám đốc là người đại diện theo pháp luật.
Riêng khoản 3 Điều 9 của Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị,
Ban kiểm soát, Tổng giám đốc Ngân hàng Thương mại cổ phần, ban hành kèm theo
Quyết định số 1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà
nước chỉ định rõ: “Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của

Ngân hàng Thương mại cổ phần và được ghi trong Điều lệ Ngân hàng Thương mại cổ
phần”.
Theo khoản 2 Điều 134 luật Doanh nghiệp năm 2014, trong trường hợp chỉ có
một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty; trường hợp Điều lệ không
có quy định khác thì Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật của
công ty. Trường hợp có hơn một người đại diện theo pháp luật, thì Chủ tịch Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là người đại diện theo pháp
luật của công ty.
Trong trường hợp muốn có thêm người thứ ba đại diện theo pháp luật thì có thể
lựa chọn và ghi cụ thể về số lượng, chức danh quản lý và quyền, nghĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật trong điều lệ của công ty.
1.3.4. Người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh
Với tính chất là một loại hình doanh nghiệp mang tính chất đối nhân, công ty
hợp danh được nhiều sự ưu ái của pháp luật, việc tổ chức quản lý công ty có thể do các
thành viên thỏa thuận và ghi vào điều lệ công ty. Tuy nhiên, chỉ có thành viên hợp
danh là có quyền quản lý và điều hành công ty, còn thành viên góp vốn không có
quyền quản lý công ty.
Trong công ty hợp danh, Hội đồng thành viên là cơ quan có quyền quyết định
cao nhất trong công ty. Thành phần Hội đồng thành viên là tất cả các thành viên trong
công ty bao gồm cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Hội đồng thành viên
bầu một thành viên hợp danh làm chủ tịch Hội đồng thành viên, đồng thời người này sẽ
[25] Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 của Chính phủ Hướng
dẫn chi tiết thi hành một số điều của luật Doanh nghiệp.


23

kiêm luôn vị trí giám đốc hay tổng giám đốc của công ty nếu điều lệ công ty không có
quy định khác. Việc họp Hội đồng thành viên thường do chủ tịch Hội đồng thành viên

triệu tập theo ý của người này hoặc theo đề nghị của thành viên hợp danh khác trong
công ty. Tuy nhiên trong các trường hợp chủ tịch Hội đồng thành viên không triệu tập
cuộc họp theo đề nghị của thành viên hợp danh khác thì thành viên hợp danh đã đề
nghị có quyền tự triệu tập cuộc họp mà không không cần chủ tịch Hội đồng thành viên
triệu tập. Hội đồng thành viên có quyền quyết định mọi vấn đề của công ty. Nếu điều lệ
công ty không có quy định khác, thì theo quy định của pháp luật, để thông qua những
vấn đề quy định tại khoản 3 Điều 177 luật Doanh nghiệp năm 2014 thì cần ít nhất 3/4
số thành viên hợp danh thông qua. Nếu điều lệ công ty không quy định thì mỗi thành
viên có một phiếu biểu quyết các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình.
Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành
hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty. Mọi hạn chế đối với thành viên hợp danh
trong quá trình thực hiện công việc kinh doanh hằng ngày của công ty chỉ có hiệu lực
đối với bên thứ ba khi người đó được biết về hạn chế đó. Các thành viên hợp danh
phân công nhau vị trí quản lý và kiểm soát công ty. Khi có nhiều thành viên cùng tham
gia hoạt động kinh doanh thì các vấn đề cần quyết định sẽ được thông qua theo nguyên
tắc đa số. Chủ tịch hội đồng thành viên bắt buộc phải là thành viên hợp danh, có nhiệm
vụ tổ chức điều hành, quản lý công việc kinh doanh hàng ngày của công ty. Đồng thời,
chủ tịch Hội đồng thành viên cũng là người đại diện cho công ty tham gia các quan hệ
với nhà nước, đại diện cho công ty với tư cách là nguyên đơn hoặc bị đơn trong các vụ
kiện, tranh chấp thương mại hoặc các tranh chấp khác.
Như vậy, bất kỳ thành viên hợp danh nào của công ty hợp danh đều có thể làm
người đại diện theo pháp luật trong các quan hệ kinh doanh, thương mại, dân sự. Còn
trong quan hệ với nhà nước, chủ tịch Hội đồng thành viên là người đại diện theo pháp
luật. Trước đây, thông tư số 03/2006/TT-BKH ngày 19-10-2006 của Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và đầu tư hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục theo quy định tại
Nghị định 88/2006/NĐ-CP, vẫn xác định cụ thể người đại diện theo pháp luật của công
ty hợp danh. Tuy nhiên, Giấy đề nghị đăng ký công ty hợp danh tại Phụ lục I-5, Thông
tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về
đăng ký doanh nghiệp đã bỏ mục người đại diện theo pháp luật của công ty hợp danh.
1.3.5. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân

Kế thừa quy định của các văn bản pháp luật trước, Điều 185 luật Doanh nghiệp
năm 2014 quy định chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn quyền quyết định đối với tất cả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế và
thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp
chủ doanh nghiệp tư nhân thuê người khác quản lý điều hành doanh nghiệp (Giám đốc
quản lý doanh nghiệp) thì chủ doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp cho thuê cả doanh nghiệp thì chủ
doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật với tư cách là chủ sở hữu.


24

Trong mọi trường hợp, chủ doanh nghiệp tư nhân đều là người đại diện trước pháp
luật. Một số doanh nghiệp tư nhân có tên gọi dưới dạng là văn phòng, ví dụ như văn
phòng luật sư. Văn phòng này do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo
loại hình doanh nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn phòng luật sư là Trưởng văn
phòng và phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi nghĩa vụ của văn
phòng. Trưởng văn phòng là người đại diện theo pháp luật của văn phòng. Mọi trường
hợp đại diện khác chỉ có thể được thể hiện bằng hợp đồng uỷ quyền, ví dụ uỷ quyền
cho luật sư hoặc một người nào đó, có thể bao gồm trong hợp đồng thuê Giám đốc
quản lý hoặc hợp đồng cho thuê doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù không phân
biệt loại hình doanh nghiệp chỉ định rõ chức danh người đại diện theo pháp luật, bắt
buộc là một trong những chức danh có sẵn trong doanh nghiệp. Chẳng hạn như trong
ngân hàng thương mại, Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc là người đại
diện theo pháp luật của ngân hàng, được quy định cụ thể tại Điều lệ ngân hàng[26].
Hoặc, người đại diện theo pháp luật của tổ chức tín dụng được quy định tại Điều lệ của
tổ chức tín dụng và phải là một trong những người sau đây: Chủ tịch Hội đồng quản trị
hoặc Chủ tịch Hội đồng thành viên của tổ chức tín dụng; Tổng giám đốc (Giám đốc)
của tổ chức tín dụng[27]. Những quy định này mặc dù không trái với quy định của luật

Doanh nghiệp năm 2014 nhưng trường hợp các doanh nghiệp này muốn có nhiều hơn
hai người đại diện theo pháp luật thì sẽ vướng mắc ở việc xem xét các quy định của
pháp luật chuyên ngành.
1.4.

Hệ thống các văn bản pháp luật về người đại diện theo pháp luật của
doanh nghiệp hiện hành
1.4.1. Luật Doanh nghiệp năm 2014 và các văn bản pháp luật hướng dẫn
thi hành
Luật Doanh nghiệp năm 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp
thứ 8, ngày 26/11/2014, có hiệu lực kể từ 1/7/2015. So với luật Doanh nghiệp năm
2005, luật Doanh nghiệp năm 2014 có 10 chương, 213 điều, tăng 41 điều, trong đó có
quy định mới về doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp xã hội. Riêng về người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp có hai quy định riêng tại Điều 13 và Điều 14 của
luật Doanh nghiệp năm 2014 liên quan chủ yếu về khái niệm, số lượng, việc ủy quyền
và trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật đối với doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cũng có những văn bản dưới luật hướng dẫn luật Doanh nghiệp
đang có hiệu lực như Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/09/2015 của Chính phủ
về đăng ký doanh nghiệp; Nghị định số 81/2015/NĐ-CP ngày 18/09/2015 của Chính
[26] Điều 6 Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt
động của ngân hàng thương mại.
[27] Điều 12 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010.


25

phủ về công bố thông tin của doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định số 96/2015/NĐ-CP
ngày 19/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp;
Thông tư số 127/2015/TT-BTC hướng dẫn cấp mã số doanh nghiệp thành lập mới và
phân công cơ quan thuế quản lý đối với doanh nghiệp; Thông tư số 04/2016/TTBKHĐT ngày 17/05/2016 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định các biểu mẫu văn bản

sử dụng trong đăng ký doanh nghiệp xã hội; Công văn số 4211/BKHĐT-ĐKKD hướng
dẫn áp dụng quy định về đăng ký doanh nghiệp,… Tuy nhiên, các văn bản này chủ yếu
xoay quanh vấn đề chữ kí xác nhận của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
trong các hồ sơ, giấy tờ, văn bản cần sự đồng ý và thông qua của người đại diện theo
pháp luật.
1.4.2. Các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan
Bên cạnh Luật Doanh nghiệp (2014) và các văn bản hướng dẫn thi hành, một số
các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan cũng được dẫn chiếu để xem xét các vấn
đề liên quan đến người đại diện theo pháp luật, như điều kiện về năng lực hành vi dân
sự, tiểu chuẩn và điều kiện làm người đại diện theo pháp luật, các quyền lợi, nghĩa vụ
cũng như trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật,… Có thể tìm thấy các nôi
dung như vậy tại các văn bản khác nhau như Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự
năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2011, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Bộ luật
Lao động năm 2012, Luật Trọng tài Thương mại năm 2010, Luật Cạnh tranh năm
2004, Luật Các tổ chức Tín dụng năm 2010, Luật Chứng khoán năm 2010, Luật Phá
sản năm 2014, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp năm 2013, Luật Kinh doanh Bất
động sản năm 2014, Luật Kế toán năm 2015,…
1.4.3. Các điều lệ hoạt động và tổ chức của các doanh nghiệp
Đối với các doanh nghiệp nhà nước, các quy định về người đại diện theo pháp
luật thường được quy định ngay trong điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp
dưới dạng một quyết định của Thủ tướng Chính phủ hoặc nghị định của Chính phủ. Thí
dụ như Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty mẹ - Tập đoàn công nghiệp tàu thủy
Việt Nam (VINASHIN), ban hành kèm theo Quyết định số 179/QĐ-TTg ngày 28 tháng
01 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ (Điều 6); Nghị định số 25/2016/NĐ-CP ngày
06/4/2016 quy định về Điều lệ tổ chức và hoạt động của Tập đoàn Bưu chính Viễn
thông Việt Nam (Điều 7); Nghị định số 205/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Điều lệ tổ
chức và hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (Điều 7),…
Đối với các doanh nghiệp thông thường, quy định về người đại diện theo pháp
luật cũng được đề cập trong điều lệ doanh nghiệp, tuy nhiên tính pháp lý không cao
như của doanh nghiệp nhà nước. Tư cách người đại diện theo pháp luật được quy định

trong một số điều lệ của doanh nghiệp như khoản 4, Điều 2, Điều lệ của Ngân hàng
Thương mại cổ phần Xuất Nhập khẩu Việt Nam, mục 3.5 Điều lệ của Tập đoàn
Vingroup – Công ty Cổ phần,…


×