Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

So sánh từ láy trong tiếng việt và tiếng trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.17 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------***-----------


Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)

SO SÁNH TỪ LÁY TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
~~~☆~~~

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)

SO SÁNH TỪ LÁY TRONG
TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã Số: 60 22 02 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Chính



Hà Nội - 2018


L Ờ I CẢM Ơ N
Trong hai năm học tập tại khoa Ngôn ngữ học – Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, nhận được sự giúp đỡ tận tình từ quý thầy cô và các bạn học
viên, cùng với sự cố gắng nỗ lực của bản thân, cuối cùng tôi đã hoàn thành bài luận
văn của mình. Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Nguyễn Văn Chính- ngưỡi đã
tận tâm dạy dỗ và trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này. Cảm ơn quý
thầy cô giáo, và các bạn học viên đã luôn động viên giúp đỡ tôi.
Ngoài ra, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bố mẹ đã luôn động viên,
tiếp thêm nghị lực và dũng khí cho tôi phấn đấu trên con đường mình đã chọn.
Một lần nữa xin được gửi lời cảm ơn tới qúy thầy cô giáo của khoa Ngôn
ngữ học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội, kính chúc các thầy các cô sức khỏe, thành công. Mặc dù đã cố gắng để thực
hiện đề tài một cách hoàn chỉnh nhất, song do khả năng của bản thân có hạn nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, tôi rất mong nhận được sự góp ý
của quý thầy, cô giáo và các bạn học viên để luận văn được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội , tháng 4 năm 2018
Học viên

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình

nghiên cứu nào khác.
Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Ban chủ nhiệm khoa Ngôn
ngữ học và Ban gián hiệu Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội.

Hà Nội , ngày 20 tháng 4 năm 2018
Học viên

Vương Viên Viên
(Wang Yuanyuan)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU......................................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài............................................................................................................................. 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................................... 2
4. Ý nghĩa nghiên cứu......................................................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu.................................................................................................3
6. Bố cục luận văn............................................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT..........................................................................................................4

1.1. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Việt............................................................................... 4
1.1.1. Về tên gọi...................................................................................................................................4
1.1.2. Cách phân loại từ láy................................................................................................................ 4
1.1.3.Những định nghĩa về từ láy........................................................................................................ 5
1.2. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Trung.......................................................................... 10
1.3. Phân biệt từ láy với từ ghép và các loại từ khác.........................................................................12
1.4 Phân biệt phương thức láy và phương thức lặp...........................................................................14

CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM TỪ LÁY TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG............... 18

2.1. Hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung..................................................................... 18
2.1.1. Hệ thống ngữ âm tiếng Việt.....................................................................................................18
2.1.2. Hệ thống ngữ âm tiếng Trung................................................................................................. 19
2.2. Đặc điểm từ láy trong tiếng Việt................................................................................................ 21
2.2.1. Phân loại từ láy về kết cấu...................................................................................................... 21
2.2.2. Quy luật ngữ âm của từ láy tiếng Việt.....................................................................................29
2.2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ láy tiếng Việt............................................................................... 33
2.3. Đặc điểm từ láy trong tiếng Trung............................................................................................. 39
2.3.1. Đặc điểm về kết cấu.................................................................................................................39
2.3.2. Đặc điểm ngữ âm và ngữ nghĩa của từ láy tiếng Trung..........................................................40
CHƯƠNG 3. SO SÁNH TỪ LÁY TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG TRUNG TRÊN CÁC PHƯƠNG DIỆN
CẤU TẠO, NGỮ ÂM VÀ NGỮ NGHĨA.................................................................................................. 52

3.1. So sánh từ láy dạng AA trong tiếng Việt và tiếng Trung........................................................... 52
3.2. So sánh từ láy dạng ABB trong tiếng Việt và tiếng Trung.........................................................60
3.3. So sánh từ láy dạng AABB trong tiếng Việt và tiếng Trung......................................................67
3.4. So sánh từ láy dạng ABAB trong tiếng Việt và tiếng Trung......................................................71
3.5. Đặc trưng tư duy, văn hóa thể hiện qua từ láy............................................................................74
KẾT LUẬN............................................................................................................................................... 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................................... 79


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ xưa tới nay, từ láy luôn xuất hiện trong mọi mặt của đời sống ngôn ngữ tiếng
Việt và tiếng Trung. Trong đời sống hàng ngày, người Việt và người Trung Quốc
thường sử dụng từ láy để tạo s hài hoà về ngữ âm, nhạc điệu của từng lời ăn tiếng
nói. Trong sáng tác thi ca hay văn chương cũng vậy, họ sử dụng những từ láy mang

giá trị gợi âm thanh, hình ảnh và giá trị biểu cảm, hòa phối về mặt ngữ âm để tạo
hiệu ứng mạnh về mặt ngữ nghĩa, để tạo nên những tác phẩm nổi tiếng đẹp như một
bức họa, êm như một bản nhạc.
Khác với nhiều ngôn ngữ trên thế giới, tiếng Việt và tiếng Trung đều là ngôn
ngữ không biến hình, thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp,
vì thế các dạng thức biểu đạt của từ v ng trong hai ngôn ngữ này không phong phú
như những ngôn ngữ biến tố. Cũng chính vì đặc điểm này, vai trò của từ láy càng
được coi trọng hơn. Láy là một trong năm phương thức cấu tạo từ, nó làm cho hình
thức biểu đạt của ngôn ngữ trở nên phong phú và đa dạng hơn, có giá trị biểu trưng,
sắc thái hóa, chuyên biệt hóa, khả năng biểu thị của nó cũng góp phần làm cho ngôn
ngữ thêm linh động. Có thể nói, tuy chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong toàn bộ hệ
thống ngôn ngữ, nhưng nó mang giá trị ngữ nghĩa sâu sắc và đóng vai trò rất quan
trọng trong hai ngôn ngữ này.
Từ láy luôn là một mảng đề tài phong phú đa dạng được nhiều nhà ngôn ngữ
học quan tâm, nghiên cứu và khảo sát từ nhiều góc độ, phương diện và chức năng
khác nhau. Tuy nhiên, những thành quả nghiên cứu hầu hết tập trung vào mặt ngữ
pháp, cho đến nay cũng có rất ít công trình đi sâu nghiên cứu về mặt từ v ng của từ
láy trong cả hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Trung. Mặt khác, những tài liệu so
sánh đối chiếu s tương đồng và khác biệt chi tiết giữa từ láy của hai ngôn ngữ Việt
- Trung cũng ít được tìm thấy.
Xuất phát từ những lý do trên, cũng như nhu cầu cần thiết trong việc tìm hiểu
đặc điểm, s tương đồng và khác biệt giữa từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung,
d a trên cơ sở những tài liệu thu thập được về từ láy trong hai ngôn ngữ này và

1


tham khảo những thành t u nghiên cứu của những người đi trước, chúng tôi đã
chọn đề tài nghiên cứu: “So sánh đối chiếu từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung”.
Đề tài này sẽ tập trung nghiên cứu khảo sát đặc điểm của các từ láy trong tiếng Việt

và tiếng Trung, nhằm tìm ra s tương đồng và khác biệt của nó.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các từ láy được sử dụng trong hai ngôn
ngữ tiếng Việt và tiếng Trung.
Có một số phương thức láy chỉ xuất hiện riêng trong tiếng Việt hoặc tiếng
Trung, có những đặc điểm riêng có thể nghiên cứu với phạm vi khá rộng. Tuy nhiên,
luận văn này sẽ tập trung vào nghiên cứu so sánh các hình thức AA, ABB, ABAB,
AABB của từ láy.
Để đi sâu tìm hiểu s tương đồng và khác biệt giữa từ láy trong tiếng Việt và
tiếng Trung, chúng tôi lần lượt xem xét các phương diện: hình thức láy, kết cấu, ngữ
âm và ngữ nghĩa.
3. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung khảo sát và chỉ ra các đặc điểm, điểm giống và khác nhau
về mặt hình thức láy, kết cấu, ngữ âm, và ngữ nghĩa giữa từ láy tiếng Việt và từ láy
tiếng Trung.
Từ những điểm giống và khác nhau ấy, người đọc có thể nhìn ra các đặc trưng
văn hóa và tư duy dân tộc ẩn chứa trong ngữ nghĩa của các từ láy, thấy được s
khác nhau về tư duy văn hóa dân tộc giữa hai ngôn ngữ.
Ngoài ra, từ những kết quả so sánh chúng tôi nêu ra những điểm cần chú ý
trong quá trình giảng dạy, học tập và vận dụng từ láy tiếng Việt và tiếng Trung, từ
đó nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập, đồng thời phát triển tư duy sử dụng từ
láy của người học.
4. Ý nghĩa nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu từ láy trong hai ngôn ngữ Việt-Trung, chúng tôi hi
vọng có thể góp phần làm phong phú thêm kho tài liệu nghiên cứu về chủ đề "từ
láy", đồng thời cung cấp một số tài liệu tham khảo về so sánh từ láy trong tiếng Việt
và tiếng Trung cho những nghiên cứu sau này.

2



5. Phương pháp nghiên cứu và tư liệu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh đối chiếu,
ngoài ra chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như: miêu tả,
thống kê, phân tích quy nạp,...
Nguồn tư liệu của luận văn chủ yếu được trích từ các bài báo, tạp chí, truyện
ngắn, tác phẩm văn học hay từ th c tế giao tiếp hàng ngày. Ngoài ra, chúng tôi cũng
sử dụng một số tư liệu lấy từ các công trình nghiên cứu của một số người viết khác.
6. Bố cục luận văn
Các nội dung của luận văn được sắp xếp như sau:
Phần mở đầu, giới thiệu lý do l a chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu,
mục đích nhiệm vụ nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu mà luận văn đã sử
dụng. Ngoài ra còn nêu lên ý nghĩa nghiên cứu và những đóng góp đối với th c tiễn
của công trình nghiên cứu này.
Chương 1: Cơ sở lý thuyết
Trong chương này, chúng tôi bàn tới định nghĩa về từ láy trong tiếng Việt, đưa
ra một số quan điểm của các nhà ngôn ngữ học, Việt Nam, Trung Quốc về từ láy.
Đồng thời tiến hành phân biệt từ láy với từ ghép và các loại từ khác, phân biệt hình
thức láy và hình thức lặp.
Chương 2: Đặc điểm từ láy trong tiếng Việt và tiếng Trung
Giới thiệu hệ thống ngữ âm trong tiếng Việt và tiếng Trung, phân loại và trình
bày đặc điểm về kết cấu, ngữ âm cũng như ngữ nghĩa của từ láy trong hai ngôn ngữ
này.
Chương 3: So sánh từ láy tiếng Việt và tiếng Trung trên các phương diện cấu
tạo, ngữ âm và ngữ nghĩa.
Chương này tập trung so sánh đối chiếu s tương đồng và khác biệt của từ láy
dạng AA, AAB, AABB và ABAB trong tiếng Việt và tiếng Trung.
Phần kết luận tổng hợp lại thành t u nghiên cứu và đưa ra nhận xét chung và
một số kiến nghị cho người học tiếng Việt và tiếng Trung.
Phần cuối cùng là danh sách những tài liệu đã tham khảo.


3


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Việt
Trong toàn bộ hệ thống ngôn ngữ, có một bộ phận từ rất nhỏ luôn mang giá trị
gợi âm thanh, hình ảnh và giá trị biểu cảm trong ngôn ngữ giao tiếp đời sống hàng
ngày và cả trong văn chương, đó là từ láy. Từ láy đã được quan tâm và đưa vào
nghiên cứu từ trước đến nay, và cho đến nay đã có không ít các nhà nghiên cứu về
ngôn ngữ đã đưa ra ý kiến và quan điểm khác nhau về tên gọi, cách phân loại cũng
như định nghĩa của từ láy.
1.1.1. Về tên gọi
Tên gọi của từ láy luôn được thay đổi theo thời gian và các nhà ngôn ngữ khác
nhau. Trước năm 1990 từ láy có những tên gọi như sau:
1962: Từ phản điệp (Đỗ Hữu Châu)
1963: Từ ghép (Trương Văn Chính, Nguyễn Hiến Lê)
1970: Từ lấp láy (Nguyễn Nguyên Trứ)
1970: Từ láy (Hoàng Văn Hành, Đào Thản)
1972: Từ ngữ kép phản phục (Lê Văn Lý)
1975: Từ láy âm (Nguyễn Tài Cẩn)
1976: Từ lấp láy (Hồ Lê)
1976: từ láy âm (Nguyễn Văn Tu)
1978 đến 1989: Từ láy (Hoàng Tuệ, Hoàng Văn Hành, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn
Thiện Giáp, Diệp Quang Ban,...)
Từ đó đến nay, "từ láy" trở thành tên gọi riêng của lớp từ này. Nhưng lý do vì
đâu mà trong lịch sử từ láy lại có nhiều tên gọi đến vậy? Đó là do cách nhìn nhận
khác nhau của các nhà ngôn ngữ học đối với từ láy. Có hai luồng quan điểm chủ yếu,
có người cho rằng láy là từ ghép, có người lại cho rằng láy là s hòa phối ngữ âm và

được tạo ra từ một phương thức cấu tạo từ đặc biệt.
1.1.2. Cách phân loại từ láy
Với số lượng âm đầu, vần và thanh điệu khá nhiều, số lượng từ láy tiếng Việt
được tạo ra là vô cùng phong phú, các loại hình từ láy cũng rất đa dạng.

4


-Trong cuốn “từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học” tác giả đưa ra quan
điểm: căn cứ vào số lần tác động của phương thức láy, có thể phận biệt các kiểu từ
láy: từ láy đôi hay từ láy hai âm tiết (gọn gàng, vững vàng, đỏ đắn, khấp khểnh), từ
láy ba hay từ láy ba âm tiết (sạch sành sanh, téo tèo teo, dửng dừng dưng), từ láy tư
hay từ láy bốn âm tiết (nhi nha nhí nhảnh, kháp kha kháp khểnh, lam nham lở nhở,
vội vội vàng vàng, tẩn ngẩn tẩn ngẩn).
-Trong cuốn “cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, Mai Ngọc Chừ (1997) cho
rằng từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có
loại ba tiếng.
-Theo quan điểm của GS. Đỗ Hữu Châu: “ Căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm
có thể phân thành hai kiểu từ láy: từ láy bộ phận (chúm chím, đủng đỉnh, bập bồng),
từ láy toàn bộ (oe oe, ầm ầm, lăm lăm).
-Nguyễn Hữu Quỳnh (2001) cho rằng: từ láy có thể chia làm hai loại: từ láy
hoàn toàn và từ láy bộ phận.
-Lê Trung Hoa (2002) cho rằng: trong tiếng Việt, số lượng từ láy khá nhiều.
Người ta thường chia từ láy ra làm hai loại lớn: từ láy hoàn toàn (như ba ba, chuồn
chuồn,...) và từ láy bộ phận (như đẹp đẽ,chờn vờn,...).
Bên cạnh đó còn có rất nhiều nhà ngôn ngữ học đưa ra quan điểm gần giống
nhau, căn cứ những quan điểm trình bày trên chúng ta có thể thấy rằng, các nhà Việt
ngữ học thống nhất chia từ láy theo hai cách:
Cách 1: Theo mức độ láy lại của ba bộ phận ngữ âm, có thể chia thành hai loại:
Láy hoàn toàn và láy bộ phận (láy không hoàn toàn).

Cách 2: Theo số lượng âm tiết của từ, có thể chia thành ba loại: Láy đôi (láy 2
âm tiết), láy ba (láy 3 âm tiết), láy bốn (láy 4 âm tiết).
Cách phân chia thứ nhất dễ nhận biết hơn và thường được sử dụng nhiều hơn.
Để tiện cho việc so sánh từ láy tiếng Việt với từ láy tiếng Trung, ở chương hai
chúng ta sẽ tìm hiểu các phân loại chi tiết, song song với việc này, chúng tôi sẽ chỉ
rõ đặc trưng và kết cấu của từng loại hình từ láy.
1.1.3.Những định nghĩa về từ láy
Từ xưa đã có rất nhiều định nghĩa về từ láy của các nhà nghiên cứu, song cho

5


đến tận bây giờ vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nó. Chúng tôi xin trích
dẫn những quan niệm về từ láy của một số nhà nghiên cứu:
- Quan niệm của GS. Nguyễn Tài Cẩn được trình bày trong cuốn “Ngữ pháp
tiếng Việt - Tiếng- Từ ghép - Đoản ngữ”: Từ láy âm là loại từ ghép trong đó, theo
con mắt nhìn của người Việt hiện nay có các thành tố tr c tiếp được kết hợp lại với
nhau chủ yếu theo quan hệ ngữ âm. Quan hệ ngữ âm được thể hiện ra ở chỗ là các
thành tố tr c tiếp phải có s tương ứng với nhau về hai mặt: mặt yếu tố siêu âm
đoạn tính (thanh điệu) và mặt yếu tố âm đoạn tính (phụ âm đầu, âm chính giữa vần
và âm cuối vần). Ví dụ ở từ láy đôi chúng ta thấy:
a) Về các yếu tố âm đoạn tính: các thành tố tr c tiếp phải tương ứng với nhau
hoặc ở phụ âm đầu: làm lụng, đất đai, mạnh mẽ,… hoặc ở vần: lảm nhảm, lưa thưa,
lác đác,… có khi các thành tố tr c tiếp tương ứng cả phụ âm đầu, cả ở vần, ví dụ:
chuồn chuồn, quốc quốc, đa đa,…
b) Về mặt yếu tố siêu âm đoạn tính các thành tố nói chung đều phải có thanh
thuộc cùng một âm v c: thuộc âm v c cao (thanh ngang, thanh hỏi, thanh sắc) hoặc
thuộc âm v c thấp (thanh huyền, ngã, nặng). Ví dụ:
+ Cùng thuộc âm v c cao: hay ho, méo mó, ngay ngắn, bảnh bao, lỏng lẻo, rẻ
rúng mê mẩn, sáng sủa.

+ Cùng thuộc âm v c thấp: lụng thụng, dày dạn, rầu rĩ, đẹp đẽ.
- Trong cuốn “Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt”, các tác giả đưa ra quan điểm:
Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hoà phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi
là từ lấp láy, từ láy âm). Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là
bốn tiếng, và có cả từ láy ba tiếng. Một từ sẽ được gọi là từ láy khi các thành tố cấu
tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại, nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp)
vừa có biến đổi (gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn- điệp phần âm đầu, đối ở phần vần.
- Theo GS. Đỗ Hữu Châu: “ Từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là
phương thức hoà phối ngữ âm bằng cách lặp lại một bộ phận hay toàn bộ hình thức
ngữ âm của tiếng gốc, còn gọi là từ lấp láy, từ láy âm, từ ghép láy, từ phản điệp. Các
từ láy có thể phân thành từng kiểu khác nhau căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm và
số lần tác động của phương thức láy. Căn cứ vào cách hoà phối ngữ âm có thể phân

6


biệt hai kiểu từ láy: từ láy bộ phận (chúm chím, đủng đỉnh, bập bồng,...), từ láy toàn
bộ (oe oe, ầm ầm, lăm lăm,...). Từ láy bộ phận chia làm hai loại: lặp lại phụ âm đầu
(chắc chắn, chí choé, mát mẻ,...), lặp lại phần vần (lênh khênh, chót vót, lè tè,...).
Căn cứ vào số lần tác động của phương thức từ láy có thể phân biệt các kiểu từ láy:
từ láy đôi hay từ láy 2 âm tiết (gọn gàng, vững vàng, vuông vắn,...), từ láy ba hay từ
láy ba âm tiết (sạch sành sanh, tẻo tèo teo, dửng dừng dưng,...), từ láy bốn hay từ
láy bốn âm tiết (nhí nha nhí nhảnh, vội vội vàng vàng, lam nham lở nhở, tẩn ngẩn
tần ngần,...). Từ láy có những đặc trưng ngữ nghĩa riêng như giá trị biểu trưng, sắc
thái hoá, chuyên biệt hoá về nghĩa”.
- Nguyễn Văn Tu (1976) cho rằng: Những từ lấp láy gồm những âm tiết tương
quan với nhau hay giống nhau về ngữ âm. Trong tiếng Việt hiện đại, có những từ
gồm hai từ tố có quan hệ về ngữ âm thường gọi bằng tên lấp láy, từ trùng điệp, từ
láy âm hoặc từ láy…Th c ra trong số những từ kiểu này có những từ th c s là từ
láy âm và cũng có những từ láy âm ngẫu nhiên (đất đai, tuổi tác, hỏi han,...). Nhưng

hiện nay về mặt quan hệ ngữ âm, chúng ta cũng gọi chung chúng là những từ láy
âm. Sở dĩ chúng tôi gọi chung những từ láy âm là những từ ghép vì th c chất chúng
được tạo ra bởi một số từ tố với bản thân nó không bị biến âm hoặc bị biến âm. Từ
ghép láy “lâng lâng” gồm có hai từ hoàn toàn giống nhau về âm thanh. Và từ ghép
“máy móc” gồm từ tố máy kết hợp với móc là biến thể ngữ âm của máy. Từ láy âm
được tạo thành bằng việc ghép hai từ tố hoặc hai âm tiết có quan hệ về ngữ âm trên
cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản thân cái âm tiết chính hoặc cái từ tố
chính. Những từ láy âm có s tương ứng về những mặt sau:
a) Về mặt phụ âm đầu như:
- Bắt bớ, bàn bạc, bạc bẽo, bụi bặm,…
- Cau có, canh cánh, cào cào, cầm cập, cặm cụi,…
- Chăm chỉ, chắc chắn, chặt chẽ, chạy chọt, chết chóc,…
- Da dẻ, dần dà, dai dẳng,…
b) Về vần mà khác nhau về phụ âm đầu:
- Bảng lảng, là đà, lụng thụng,…
- Kè nhè, lè nhè, lè tè, lì xì,…

7


c) Tương ứng hoàn toàn :
- Chuồn chuồn, rầm rầm, lần lần,…
d) S tương ứng về thanh điệu
Các âm tiết trong từ lấp láy thường có những thanh điệu tương ứng với nhau.
Hai âm tiết của từ lấp láy đều thuộc về một thanh điệu: không, sắc, hỏi hoặc nhóm
huyền, ngã, nặng. Ví dụ:
- Nhóm 1: lâng lâng, máy móc, bắng nhắng, liểng xiểng, lỏng lẻo.
- Nhóm 2: làng nhàng, nhồm nhoàm, cũ kỹ, gượng gạo, sợ sệt.
Bên cạnh đó còn có quan điểm của nhiều nhà Việt ngữ khác. Theo quan điểm
của Nguyễn Hữu Quỳnh: “Trong tiếng Việt, từ ghép theo phương thức láy có một số

lượng đáng kể. Phương thức láy là phương thức cấu tạo từ và cụm từ đặc biệt trong
tiếng Việt. Từ ghép láy (hay còn gọi là từ ghép lấp láy, từ láy) là những từ ghép
gồm hai hình vị kết hợp với nhau chủ yếu là theo quan hệ ngữ âm. Các thành tố
của từ ghép láy có mối liên quan với nhau về thanh điệu hoặc về các bộ phận
ngữ âm tạo nên các thành tố đó, đồng thời chúng tạo nên một nội dung ngữ
nghĩa nhất định. Thí dụ: nhỏ nhắn, nhỏ nhoi, nhỏ nhỏ, nhỏ nhặt, nhỏ nhen,
chằm chằm, thao thao, tỉ mỉ”. Hay như trong cuốn ngữ pháp tiếng Việt, các tác
giả cho rằng: “Từ láy đều là từ hai tiếng. Phần lớn đó là từ gốc Việt. Có một
số những từ láy gốc Hán, nhưng có thể coi chúng là đã Việt hoá, đã hoà lộn vào
bộ phận từ láy gốc Việt. Ví dụ: phảng phất, linh lợi, bồi hồi…Từ láy được cấu
tạo theo phương thức phối hợp ngữ âm. Nói đến “s phối hợp ngữ âm” ở đây tức là
nói đến hiện tượng lặp và hiện tượng đối xứng”.
Tuy có rất nhiều ý kiến khác nhau về từ láy nhưng chúng ta vẫn thấy được một
điểm thống nhất, đó là tất cả các tác giả đều coi: từ láy được cấu tạo theo phương
thức láy. Các thành tố trong từ láy đều có quan hệ ngữ âm (với thanh điệu giữ
nguyên hay biến đổi theo quy tắc biến thanh tức là quy tắc thanh điệu biến đổi theo
hai nhóm: nhóm cao: thanh ngang, thanh hỏi, thanh sắc và nhóm thấp: thanh huyền,
thanh ngã, thanh nặng). Từ láy bao gồm hai hình vị, đó là hình vị gốc và hình vị láy.
Chúng có quan hệ ngữ âm với nhau. Hình vị láy có thể lặp lại những phần trong cấu
trúc triết đoạn như âm đầu, vần hoặc lặp cả âm đầu và vần (láy hoàn toàn), đồng

8


thời có s tương hợp trong cấu trúc siêu đoạn (thanh điệu). Hầu hết các tác giả đều
đồng ý: trong tiếng Việt phần lớn là những từ láy đôi (nghĩa là có hai âm tiết) ngoài
ra còn có từ láy ba và từ láy tư. Tuy nhiên có thể nói từ láy ba và từ láy tư chủ yếu
được xây d ng trên cơ sơ láy đôi.
Ví dụ :
Lơ mơ


>

lơ tơ mơ

Đen sì

>

đen sì sì

Dửng dưng

>

dửng dừng dưng

Lôi thôi

>

lôi thôi lếch thếch

Lúng túng

>

lúng ta lúng túng

Hùng hổ


>

hùng hùng hổ hổ

Vấn đề hiện nay nhiều nhà Việt ngữ học còn tranh cãi đó là s phân biệt giữa
từ láy và các loại từ khác. Mỗi nhà nghiên cứu đưa ra những tiêu chí phân định khác
nhau.
Nói tóm lại, nếu xuất phát từ quan niệm coi láy là ghép, các nhà ngôn ngữ học
định nghĩa như sau:
- “Từ láy âm là từ ghép mà các thành tố kết hợp với nhau theo quan hệ ngữ âm
(Nguyễn Tài Cẩn, 1975).
- “Từ ghép láy âm được tạo thành bằng việc ghép hai từ tố hoặc hai âm tiết có
quan hệ ngữ âm trên cơ sở láy âm, trên cơ sở láy lại bản thân các âm tiết chính hoặc
các từ tố chính” (Nguyễn Văn Tu, 1976).
Xuất phát từ quan niệm coi láy là s hoà phối ngữ âm có giá trị biểu trưng hoá,
những nhà nghiên cứu ủng hộ quan niệm này đều thừa nhận từ láy được tạo ra từ
một phương thức cấu tạo từ đặc biệt. Để tạo ra nhạc tính cho s hòa phối âm thanh
đối với một ngôn ngữ vốn giàu nhạc tính như tiếng Việt, s láy không đơn thuần là
s lặp lại âm, thanh của âm tiết ban đầu mà bao giờ cũng có s biến đổi âm, thanh
nhất định, dù là ít nhất, để tạo ra cái thế vừa giống nhau lại vừa khác nhau. Từ đó có
các định nghĩa:
- “Từ láy là những từ đa tiết mà giữa các âm tiết có quan hệ ngữ âm” (Hoàng
Tuệ, 1978).

9


- “Từ láy là từ được cấu tạo bằng cách nhân đôi tiếng gốc theo những qui tắc
nhất định, sao cho quan hệ giữa các tiếng vừa điệp vừa đối hài hoà với nhau về ngữ

âm có giá trị biểu trưng hoá” (Hoàng Văn Hành, 1991).
- “Từ láy là một kiểu từ phức (từ đa tiết) được tạo ra bằng phương thức hoà
phối ngữ âm có tác dụng tạo nghĩa”(Diệp Quang Ban, 1989).
- “Từ láy là những từ được cấu tạo theo phương thức láy, đó là phương thức
lặp lại toàn bộ hay bộ phận hình thức âm tiết (với thanh điệu giữ nguyên hay biến
đổi theo qui tắc biến thanh, tức là qui tắc thanh điệu biến đổi theo hai nhóm: nhóm
cao: thanh hỏi, thanh sắc, thanh ngang và nhóm thấp: thanh huyền, thanh ngã, thanh
nặng) của một hình vị hay đơn vị có nghĩa” (Đỗ Hữu Châu, 1981, 2007).
- Từ láy là “những cụm từ cố định được hình thành do s lặp lại hoàn toàn hay
lặp lại có kèm theo s biến đổi về ngữ âm nào đó của từ đã có. Chúng vừa có s hài
hoà về ngữ âm, vừa có giá trị biểu cảm, gợi tả” (Nguyễn Thiện Giáp, 1985).
1.2. Những nghiên cứu về từ láy trong tiếng Trung
Trong tiếng Trung, từ láy là một hiện tượng phong phú và phức tạp, nó biến
hóa đa dạng theo thời gian và truyền tải nhiều ý nghĩa sắc thái khác nhau, hơn nữa
nó là một phương pháp cấu tạo từ rất quan trọng, vì vậy được nhiều nhà ngôn ngữ
Trung Quốc coi trọng và đi sâu vào nghiên cứu.
Về cách phân loại từ láy, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều ý kiến khác nhau,
một số nhà ngôn ngữ học chia từ láy thành từ láy hoàn toàn và không hoàn toàn, từ
láy cấu từ và cấu hình, từ láy biến hình và không biến hình.
Ngoài ra, 朱 德 熙 (Chu Đ 恶狠狠 ”(ác độc) không có từ gốc là
“绿油”, “黑洞”, “ 白花”, “ 金灿”, “ 恶狠”. Chỉ có một số ít từ kết cấu dạng ABB
có thể phân tích thành AB+B, ví dụ “沉闷闷”(bức bối), “孤单单 ”(cô đơn), “ 红润

润 ”(hồng hào), “ 甜蜜蜜 ”(ngọt ngào), các từ này có từ gốc là “ 沉闷 ”(bức bối),
“ 孤单 ”(cô đơn), “ 红润 ”(hồng hào), “ 甜蜜 ”(ngọt ngào), tuy nhiên, những trường
hợp như thế rất ít, hơn nữa sau khi lặp lại thành phần B, nghĩa của từ không thay
đổi.
Ngược lại, trong tiếng Việt, tính từ kết cấu dạng ABB phần lớn đều do tính từ
AB tạo nên, tức ABB = AB + B, nói cách khác từ gốc của ABB là AB. Ví dụ:
(49) Học sinh xếp hàng thẳng tăm tắp.

(50) Trước cửa nhà hắn là con đường nhựa thẳng tắp.
“Thẳng tăm tắp” là dạng ABB của “thẳng tắp”, ý nghĩa có phần cường điệu,
khoa trương hơn từ gốc “thẳng tắp”.
(51) Anh em nó bẻ đôi quả dưa leo giòn sật, nhai ngon lành. (“Nước lên” –
Cẩn Thanh)
(52) Món ấy phải ăn lúc còn nóng hổi, giòn sần sật mới ngon. ( “Nước lên” –
Cẩn Thanh)
Trong hai ví dụ nêu trên, “giòn sật” và “giòn sần sật” (ý nghĩa cường điệu hơn)
cũng chứng minh rằng, tính từ dạng ABB đều có dạng AB tương ứng.
Thứ ba, một bộ phận từ kết cấu dạng ABB trong tiếng Trung do từ kết cấu
dạng BA tạo thành, trong tiếng Việt không có trường hợp tương t . Ví dụ:

挺直 → 直挺挺 (thẳng thướm)
黝黑 → 黑黝黝 (đen mượt)
冰冷 → 冷冰冰 (lạnh như băng)
通红 → 红通通 (đỏ au)
Thứ tư, trong tiếng Trung, thành phần A dù là tính từ hay động từ, thì kết cấu
dạng ABB đều là tính từ chỉ trạng thái. Còn trong tiếng Việt, kết cấu dạng ABB có

64


thể là tính từ, cũng có thể là động từ, tùy thuộc vào A, nếu A là động từ thì ABB
cũng là động từ (trên th c tế là kết cấu động từ). Vì vậy, động từ kết cấu dạng ABB
có thể mang cả bổ ngữ. Thành phần bổ ngữ này thường được thêm vào giữa A và
BB. Ví dụ:
(53) Thị thấy lòng sôi lên sùng sục, thị giậm chân bành bạch kêu trời. ("Giăng
Sáng" – Nam Cao)
(54) Mắng trọng tài xơi xơi, huấn luyện viên Man City đối mặt án phạt. (Đầu
đề một bài báo)

(55) Mỗi khi gió thổi tới nó lại run lên cầm cập. (“Nước lên” – Cẩn Thanh)
Câu (53), “sôi lên sùng sục” có nghĩa là sôi mạnh, có thể dùng để miêu tả s
vô cùng tức giận, câu (55), “run lên cầm cập” miêu tả cơ thể vì lạnh mà run rẩy và
hai răng va đập vào nhau, từ “lên” đặt sau “sôi” và “run” để làm bổ ngữ, diễn tả
hành động, trạng thái bắt đầu xuất hiện hoặc tiếp tục diễn ra, ý nghĩa tương t như
cách dùng mở rộng của bổ ngữ “起来”trong tiếng Trung.
Câu (53) và (54), “chân” trong “giậm chân bành bạch” (giậm chân mạnh
xuống đất) và “trọng tài” trong “mắng trọng tài xơi xơi” (to tiếng mắng mỏ) đều là
tân ngữ của động từ phía trước nó.
Thứ năm, trong tiếng Việt, thành phần A và BB trong kết cấu dạng ABB có thể
đổi vị trí cho nhau, tức A đặt sau BB thành BBA, thậm chí BB có thể thay thế cho
cả kết cấu ABB, tức lược bỏ A trong cấu trúc ABB. Ví dụ:
(56) Hàng ngày chị chăm sóc những luống rau non mơn mởn trước sân.
(57) Mưa bẽn lẽn tan vào trong cỏ, gieo chờ mong giữa mơn mởn non kia.
(Mưa – Linh Nga)
Trong câu (56), “non mơn mởn” là tính từ kết cấu dạng ABB; câu (57) , thành
phần A trong “mơn mởn non” đặt sau thành phần BB, trở thành kết cấu dạng BBA,
tuy nhiên ý nghĩa không thay đổi.
(58) Chị Năm đã giữ khéo không cho chị Ỏn đi, tuy chị đòi nằng nặc. (“Trước
giờ nổ súng” – Phan Tứ)
(59) Thằng bé con nằng nặc đòi mẹ bế.

65


“Đòi nằng nặc” trong câu (58) và“nằng nặc đòi” trong câu (59) lần lượt là kết
cấu dạng ABB và dạng BBA có ngữ nghĩa không thay đổi. Đương nhiên, cách đảo
vị trí này là do người viết cố ý, giúp cách miêu tả tăng thêm tính sinh động và hình
tượng.
(60) Nó vừa đi vừa nói bô bô. (“ Chuyện” – Cẩn Thanh)

(61) Chưa đến bực cửa ông lão đã bô bô. (“ Làng” – Kim Lân)
“Bô bô” thường đi với “nói”, “kể”, biểu thị ý nghĩa nói hoặc kể to tiếng đồng
thời mang sắc thái thoải mái hoặc không giấu diếm. Trong hai ví dụ nêu trên, “nói
bô bô” và “bô bô” đều có ý nghĩa như vậy, nói cách khác, “bô bô” đã thay thế cho
“nói bô bô”. Hiện tượng này không có trong tiếng Trung.
(62) Những con ốc nhồi (…) nhai sừn sựt tựa như nhai thịt gà mái ghẹ.
(“Chuyện về Hà Nội cũ” – Tô Hoài)
Trong ví dụ trên, “sừn s t” chính là “giòn sừn s t” sau khi đã tỉnh lược “giòn”.
3.2.2.2. Khác biệt về ngữ âm
Khác biệt lớn nhất về mặt ngữ âm đó là, trong tiếng Trung, thành phần BB
trong cấu trúc dạng ABB thông thường đều đọc thanh một, (đương nhiên cũng có
một số ít trường hợp không thay đổi thanh điệu), còn trong tiếng Việt, BB thay đổi
ngữ âm d a theo quy luật thay đổi của từ song âm tiết được lặp lại. Tức là, nếu B
mang thanh không hoặc thanh huyền, BB sẽ đều mang thanh không hoặc thanh
huyền. B mang thanh sắc hoặc thanh hỏi, âm B phía trước sẽ đổi thành thanh không.
B mang thanh ngã hoặc thanh nặng, âm B phía trước sẽ đổi thành thanh huyền.
Đồng thời, âm cuối của B là “-p/-t/-c/-ch” thì phải đổi thành “-m/-n/-ng/-nh”. Ví dụ:
Tiếng Việt:
A

âm đọc của B

non

mởn

non mơn mởn

cao


dỏng

cao dong dỏng

thẳng

tắp

thẳng tăm tắp

sạch

sành

sạch sành sanh

vàng

khè

vàng khè khè

66

âm đọc của ABB


đi

biệt


đi biền biệt

sát

sạt

sát sàn sạt

Tiếng Trung:
ABB

âm đọc của B

âm đọc của BB

慢腾腾 (chậm rề rề)

téng

màntēngtēng

白花花 (trắng lóa)

huā

báihuāhuā

颤魏巍 (run lẩy bẩy)


wēi

chànwēiwēi

黄澄澄 (vàng ánh kim)

dèng

huángdēngdēng

滑溜溜 (nhẵn bóng)

liū

húaliūliū

绿油油 (xanh mơn mởn)

yóu

lǚyóuyóu

黑黝黝 (tối mù mù)

yǒu

hēiyǒuyǒu

Có thể thấy, s thay đổi âm đọc của từ có kết cấu dạng ABB trong tiếng Việt
phức tạp hơn trong tiếng Trung rất nhiều.

3.3. So sánh từ láy dạng AABB trong tiếng Việt và tiếng Trung
3.3.1. Những điểm tương đồng
3.3.1.1. Tương đồng về kết cấu
Trong tiếng Trung và tiếng Việt đều có tính từ, động từ và danh từ có từ láy
dạng AABB, và đều có láy đôi. Ví dụ:
Tiếng Việt

Tiếng Trung

Tính từ
vội vội vàng vàng

急急忙忙 (vội vàng)

xiêu xiêu vẹo vẹo

干干净净 (sạch sẽ)

hùng hùng hổ hổ

团团圆圆 (đoàn viên)

Động từ
cười cười nói nói

说说笑笑 (nói cười)

ra ra vào vào

挑挑拣拣 (chọn lựa)


đi đi lại lại

进进出出(ra vào)

67


Danh từ
bố bố con con

山山水水 (non nước)

chị chị em em

祖祖辈辈 (đời đời)

ông ông cháu cháu

花花草草 (hoa cỏ)

3.3.1.2. Tương đồng về ngữ nghĩa
S tương đồng về ngữ nghĩa của từ láy dạng AABB trong tiếng Trung và tiếng
Việt chủ yếu thể hiện qua hai điểm sau:
Thứ nhất, tính từ láy dạng AABB trong tiếng Việt hay tiếng Trung đều mang
đặc điểm ngữ nghĩa là nhấn mạnh ý nghĩa của từ gốc, khiến từ gốc sinh động hơn.
Ví dụ:
Tiếng Việt

Tiếng Trung


Chăm chú

<

chăm chăm chú chú

随便

< 随随便便 (tùy tiện)

Hối hả

<

hối hối hả hả

古怪

< 古古怪怪 (kỳ quặc)

Tất tả

<

tất tất tả tả

清楚

< 清清楚楚 (rõ ràng)


Hăm hở

<

hăm hăm hở hở

轻松

< 轻轻松松 (thoải mái)

Thứ hai, khi là động từ thì thường chỉ hành động lặp lại nhiều lần hoặc diễn ra
luân phiên nhau. Có một số trường hợp có cách nói trong tiếng Trung hoàn toàn
tương ứng hoặc gần giống với tiếng Việt. Ví dụ:
Tiếng Việt

Tiếng Trung

Chỉ hành động lặp lại nhiều lần:
Xoa xoa bóp bóp

挑挑拣拣 (chọn lựa)

Kỳ kỳ cọ cọ

谈谈讲讲 (giảng giải)

Ra ra vào vào

进进出出 (ra vào)


Đi đi về về

来来回回 (đi lại)

Chỉ hành động diễn ra luân phiên nhau:
Viết viết vẽ vẽ

写写画画 (vẽ vời)

Cười cười nói nói

说说笑笑 (nói cười)

Gõ gõ đập đập

走走停停 (đi + dừng)

68


Lắc lắc bay bay
3.3.2.

涂涂抹抹 (bôi quét)

Những điểm khác biệt

3.3.2.1. Khác biệt về kết cấu
Thứ nhất, tính từ, động từ hoặc danh từ trong tiếng Việt hay tiếng Trung đều có

từ láy dạng AABB, nhưng vẫn có s khác biệt rất lớn. Tính từ láy dạng AABB trong
tiếng Việt thường được hình thành từ láy dạng AB, đại đa số từ dạng AB là từ lặp
thanh song âm tiết (tức là hai âm tiết giống hệt nhau, tương đương với từ liên miên
song thanh dạng AB trong tiếng Trung), ví dụ: trong “ấp ấp úng úng”, “vội vội vàng
vàng”, “hăm hăm hở hở”, “ấp úng” không có thanh mẫu, “vội vàng” lặp thanh
mẫu“v” [v], “hăm hở” lặp thanh mẫu “h” [h].
Còn trong tiếng Trung, tính từ dạng AABB có rất nhiều loại. Bao gồm:
a. Hai âm tiết lặp lại rồi ghép với nhau (tức là AABB =AA+BB), ví dụ “ 红红

白白 ”=“ 红红 ”+“ 白白 ”, “ 短短小小 ”=“ 短短 ”+“ 小小 ”, thuộc loại A và B có
nghĩa tương quan hoặc gần nghĩa nhau. “ 高高矮矮 ”=“ 高高 ”+“ 矮矮 ”, “ 大大小

小”=“大大”+“小小”, thuộc loại A và B có nghĩa đối lập nhau.
b. AABB là dạng láy của tính từ AB, ví dụ: “ 奇怪 ” - “ 奇奇怪怪 ”, “ 疯癫 ” “ 疯疯癫癫 ”, AB ở đây là từ hợp thành của AB, “ 伶俐 ” - “ 伶伶俐俐 ”, “ 恍惚 ” “恍恍惚惚”, AB ở đây là từ liên miên.
c. AABB =A+ABB, ví dụ “ 粘 粘 乎 乎 ”“ 粘 ”+“ 粘 乎 乎 ”, “ 慢 慢 腾

腾”=“慢”+“慢腾腾”.
d. AABB là một chỉnh thể, ví dụ “ 轰轰烈烈 ” không thể phân tích thành “ 轰

烈” hoặc “轰轰” + “烈烈”, “大大落落” tuy có thể phân thành “大大” và “落落”,
nhưng ý nghĩa của cả cụm “大大落落” là thái độ hào phóng, gần với nghĩa của “落

落” (hành động vô tư tự nhiên), nhưng không liên quan đến ý nghĩa của “大大”. Có
thể thấy rằng, kết cấu từ láy dạng AABB trong tiếng Trung phức tạp hơn trong tiếng
Việt rất nhiều. Vì vậy, nhiều khi từ láy dạng AABB trong tiếng Trung không có từ
tương ứng trong tiếng Việt. Ví dụ:
Tiếng Trung

Tiếng Việt


69


大大小小

To to /nhỏ nhỏ, không có "to to nhỏ nhỏ"

高高兴兴

Vui mừng, không có "vui vui mừng mừng"

高高矮矮

Cao cao /lùn lùn, không có "cao cao lùn lùn"

慢慢腾腾

Chậm rề rề, không có "chậm chậm rề rề"

Thứ hai, phạm vi danh từ láy dạng AABB trong tiếng Trung rộng hơn trong
tiếng Việt, ví dụ “ 山山水水 ”, “ 老老少少 ”, “ 上上下下 ”, “ 里里外外 ”, “ 方方面

面”, “花花草草”, “风风雨雨”, “形形色色”, “家家户户”. Trong tiếng Việt, danh
từ có thể láy dạng AABB thưởng chỉ có đại từ nhân xưng hoặc danh từ xưng hô, vì
số lượng danh từ dạng AABB trong tiếng Việt rất ít.
3.3.2.2. Khác biệt về ngữ âm
Trong tiếng Việt, từ láy dạng AABB là động từ, tính từ hay danh từ đều không
có s biến đổi về ngữ âm, còn trong tiếng Trung, A thứ 2 thường đọc thanh nhẹ, BB
thường đọc thanh 1(âm bình), có lúc B thứ 2 đọc uốn lưỡi (er). Ví dụ:
Tiếng Việt

Vội vàng

-

vội vội vàng vàng

Hùng hổ

-

hùng hùng hổ hổ

Trùng điệp

-

trùng trùng điệp diệp

Tiếng Trung

漂亮 piàoliang (xinh đẹp)

-

漂漂亮亮 piàopiaoliāngliāngr

马虎 mǎhu (vụng về)

-


马马虎虎 mǎmahūhū

神道 shén dao (thần bí)

-

神神道道 shénshendāodāo

3.3.2.3. Khác biệt về ngữ nghĩa
Trong tiếng Trung, danh từ láy dạng AABB thường mang ý nghĩa số lượng
nhiều hoặc thể hiện ý khái quát, ví dụ “ 形形色色 ”: phong phú nhiều chủng loại,
“风风雨雨”: khó khăn chồng chất, “男男女女”: đám đông có cả nam lẫn nữ,…
Cách dùng này trong tiếng Việt không có, hoặc chỉ gặp ở từ xưng hô và đại từ
nhân xưng, thường mang ý nghĩa qua cách xưng hô thể hiện mối quan hệ xã hội. Ví
dụ, “bố bố con con”: gọi đối phương là bố và t xưng là con hoặc ngược lại, “chị

70


chị em em”: gọi đối phương là chị và t xưng là em hoặc ngược lại, “mày mày tao
tao”: giữa hai người bình đẳng trong xưng hô, có thể biểu thị quan hệ thân thiết,
cũng có thể biểu thị “không trên không dưới”, không nên làm.
Tóm lại, từ láy dạng AABB trong tiếng Việt ít hơn trong tiếng Trung.
3.4. So sánh từ láy dạng ABAB trong tiếng Việt và tiếng Trung
3.4.1. Những điểm tương đồng
3.4.1.1. Tương đồng về kết cấu
Trong cả tiếng Việt và tiếng Trung, từ gốc của từ láy dạng ABAB chủ yếu là
động từ hoặc tính từ song âm tiết dạng AB. Ví dụ:
Tiếng Việt


Tiếng Trung

Động từ
Cằn rằn - cẳn rẳn cằn rằn

享受 - 享受享受 (hưởng thụ)

Dùng dằng - dùng dằng dúng dắng

研究 - 研究研究 (nghiên cứu)

Tần ngần - tẩn ngẩn tần ngần

调查 - 调查调查 (điều tra)

Tính từ
Lử thử - lử thử lừ thừ

雪白 - 雪白雪白 (trắng như tuyết)

Cù mì - củ mỉ cù mì

热闹 - 热闹热闹 (náo nhiệt)

Vớ vẩn -vớ va vớ vẩn

鲜嫩 - 鲜嫩鲜嫩 (tươi mềm)

3.4.1.2. Tương đồng về ngữ nghĩa
Trong tiếng Việt, đặc điểm ngữ nghĩa của từ láy dạng ABAB là nhấn mạnh ý

nghĩa so với từ gốc, đây là điểm tương đồng với một số tính từ dạng ABAB trong
tiếng Trung (thường là tính từ dạng chính- phụ). Ví dụ: 雪白: trắng như tuyết, khi
nói 雪白雪白 sẽ nhấn mạnh mức độ trắng hơn, 乌黑:màu thâm đen, 乌黑乌黑:
nhấn mạnh mức độ đen hơn. Từ láy ABAB trong tiếng Việt đều mang sắc thái mạnh
hơn so với từ gốc. Ví dụ:
(63) Hắn đứng tần ngần hồi lâu mới bỏ đi.
(63)' Hắn đứng tẩn ngẩn tần ngần hồi lâu mới bỏ đi.
Tần ngần/ tẩn ngẩn tần ngần đều là đứng ngây ra, không chú ý xung quanh,
nhưng sắc thái của dạng ABAB mạnh hơn so với dạng AB.

71


(64) Hai đứa nó dùng dằng mãi không chịu dứt.
(64)' Hai đứa nó dủng dẳng dùng dằng mãi không chịu dứt.
“dùng dằng” và “dủng dẳng dùng dằng” đều miêu tả s lưỡng l , chưa quyết
định dứt khoát xem nên đi hay ở lại. So với câu trước, câu sau hình tượng hơn,
mang sắc thái mạnh hơn.
3.4.2. Những điểm khác biệt
3.4.2.1. Khác biệt về kết cấu
Thứ nhất, xét về kết cấu nội bộ, từ gốc của từ láy dạng ABAB trong tiếng
Trung dù là động từ hay tính từ thì chủ yếu đều là từ phức hợp. Khi là động từ, quan
hệ giữa A và B là liệt kê (ví dụ: 检查检查 , 琢磨琢磨 , 欣赏欣赏 , 开导开导 ),
động tân (ví dụ: 关心关心 , 动员动员 ) và động bổ (ví dụ 改进改进 , 调动调动 ),
trong đó dạng liệt kê là nhiều nhất. Khi là tính từ, giữa A và B chủ yếu là quan hệ
liệt kê (Ví dụ: 热闹热闹, 轻松轻松, 干净干净) và quan hệ chính-phụ (碧蓝碧蓝,

鲜嫩鲜嫩 , 笔直笔直 ). Còn trong tiếng Việt, từ láy ABAB được hình thành từ từ
hiệp vần song âm tiết (tức là hai âm tiết có vần giống nhau): hoặc là từ hiệp vần
song âm tiết hình thành nên từ láy ABAB (ví dụ tẩn ngẩn tần ngần (呆呆愣愣), tẩn

mẩn tần mần ( 婆婆妈妈 ), cẳn nhẳn cằn nhằn ( 唠唠叨叨 ), hoặc là hai từ hiệp vần
có ý nghĩa giống nhau hoặc gần nghĩa, ngữ âm tương t nhau, ví dụ: lử đử lừ đừ (无

精打采), bắng nhắng bặng nhặng (爱表现,让人讨厌), loáng choáng loạng choạng
( 踉踉跄跄 ). Đây là một phương thức cấu tạo từ không có trong tiếng Trung. Với
hạn chế này, số lượng từ dạng ABAB trong tiếng Việt rất ít.
Thứ hai, giữa kết cấu dạng ABAB trong tiếng Trung có thể thêm thành phần
khác, ví dụ: 打听了又打听 , 打量了又打量 , 修改了又修改 , 思考来思考去 ,
trong tiếng Việt thì không thể chèn thêm thành phần khác.
3.4.2.2. Khác biệt về ngữ âm
Trong tiếng Việt phải tuân theo một quy luật kết hợp thanh điệu nhất định,
thường là “hỏi hỏi-huyền huyền” hoặc “sắc sắc-nặng nặng”, vì vậy hoặc sau khi láy
phải biến thanh điệu hoặc thanh điệu của hai từ được ghép vào để tạo nên từ láy

72


phải có thanh điệu phù hợp với quy luật. Còn trong tiếng Trung, từ láy dạng ABAB
không có s thay đổi về ngữ âm,ví dụ:
Tiếng Việt:
Dạng trùng điệp: từ gốc là thanh huyền thì đặt đằng sau, nếu là thanh hỏi thì
đặt đằng trước.
Bùng nhùng



bủng nhủng bùng nhùng

Tần ngần




tẩn ngẩn tần ngần

Lỉnh kỉnh



lỉnh kỉnh lình kình

Dạng ghép: thanh sắc và thanh hỏi đặt trước, thanh nặng và thanh huyền đặt
sau.
Loáng choáng+loạng choạng



loáng choáng loạng choạng

Bắng nhắng+bặng nhặng



bắng nhắng bặng nhặng

Lử đử+ lừ đừ



lử đử lừ đừ


Tiếng Trung:

溜达 liūda (trôi dạt)



溜达溜达 liūda liūda

开心 kāi xīn (vui vẻ)



开心开心 kāi xīnkāi xīn

黝黑 yǒuhēi (tối mù)



黝黑黝黑 yǒuhēi yǒuhēi

笔直 bǐzhí (thẳng tắp)



笔直笔直 bǐzhí bǐzhí

3.4.2.3. Khác biệt về ngữ nghĩa
Thứ nhất, trong tiếng Trung từ láy dạng ABAB thường là động từ (trừ tính từ
láy dạng chính-phụ), tính từ song âm tiết liên quan đến tâm lý tình cảm thường láy
dạng AABB, nếu láy dạng ABAB thường mang ý “sử động”, tức là động tính từ. Ví

dụ: “ 凉快凉快 ”: (bằng cách nào đó) làm cho (cơ thể) cảm thấy mát mẻ, “ 痛快痛

快 ”: làm (tâm trạng) cảm thấy vui sướng (bằng cách nào đó). Còn trong tiếng Việt,
nếu từ gốc là tính từ thì dạng láy của nó cũng là tính từ, từ gốc là động từ thì dạng
láy của nó cũng là động từ. Ví dụ “lải nhải lài nhài” ( 唠唠叨叨 ) và “bổi hổi bồi
bồi” ( 忐忑不安 ) đều là động từ, ví dụ: “lử đử lừ đừ” ( 无精打采 ) và “tẩm ngẩm
tầm ngầm” (深沉难测) đều là tính từ.

73


Thứ hai, trong tiếng Trung, động từ láy dạng ABAB chủ yếu mang ý nghĩa thử
nghiệm hoặc động tác được th c hiện dễ dàng, tùy tiện, nhàn nhã. Vì vậy có thể
được dùng để biểu đạt ngữ khí uyển chuyển, có sắc thái lễ phép. Ví dụ:
- Mang nghĩa “thử nghiệm”:
(65) 这份稿件你先翻译翻译,不行我们再想其他办法。
(Bản thảo này em thử dịch trước, không được thì chúng ta nghĩ cách khác vậy.)
- Mang nghĩa “hành động thoải mái, không gò bó”:
(66) 会议已经开完,这几天他看看电影,买买东西,收拾收拾行李,就等

着回家了。(刘月华《实用现代汉语语法》,1996)
(Hội nghị đã kết thúc, mấy ngày này anh xem tivi, mua chút đồ, thu dọn hành
lý rồi đợi về nhà thôi. )
- Ngữ khí uyển chuyển, lễ phép, không ép buộc:
(67) 这件事的轻重缓急你自己再掂量掂量。
(Sự quan trọng của việc này anh về cân nhắc lại nhé.)
Tóm lại, động từ dạng ABAB trong tiếng Trung và tiếng Việt có s khác biệt
lớn về ngữ nghĩa, thường không có cách biểu đạt tương ứng .
3.5. Đặc trưng tư duy, văn hóa thể hiện qua từ láy
GS. TS. Nguyễn Đức Tồn cho rằng: “Ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ dân tộc

và văn hóa dân tộc có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Chúng phát triển trong
s tác động qua lại lẫn nhau. Tuy quyết định s tồn tại của nền văn hóa bằng ngôn
ngữ, nhưng ngôn ngữ lại cũng là thành tố độc lập của nền văn hóa dân tộc. Không
những thế, ngôn ngữ còn là phương tiện tất yếu và điều kiện cho những thành tố
khác trong văn hóa này sinh, phát triển và hoạt động. Chính trong ngôn ngữ, đặc
điểm của một nên văn hóa dân tộc được lưu giữ lại rõ nhất".
Thông qua các công trình nghiên cứu của những người đi trước và từ những so
sánh đối chiếu về từ láy như phần trên, chúng ta có thể nhìn ra các đặc trưng văn
hóa và tư duy dân tộc ẩn chứa trong ngữ nghĩa của các từ láy, thấy được s giống và
khác nhau về tư duy văn hóa dân tộc giữa hai ngôn ngữ.

74


×