Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TÀI LIỆU ôn tập văn học Nhật Bản Triều Tiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.37 KB, 16 trang )

Phần 1: VĂN HỌC NHẬT BẢN
Câu 1. Đặc trưng của văn học Nhật Bản
1. Tính

cụ thể, phi hệ thống và tình cảm
Tính cụ thể trong văn học Nhật Bản được thể hiện một cách rõ ràng: Tính
cụ thể đối lập hồn tồn với tính trừu tượng. Nếu như tính cụ thể là những gì dễ
hiểu, đã và đang tồn tại khiến cho giác quan con người có thể nhận biết, cảm thụ
được và có tính rõ ràng được xác định riêng biệt như trong: thơ, truyện kể, hội
họa... thì tính trừu tượng như trong triết học, tôn giáo, âm nhạc...lại là một phạm
trù khác, nó sẽ trở nên mơng lung và khó hiểu được.
Tính phi hệ thống:
+ Đối với Nhật Bản văn chương có con đường riêng, khơng bị gán ghép cho
triết học hay tư tưởng khác.
+ Nếu như so sánh với Trung Quốc thì có một sự khác biệt rất lớn. Theo như
truyền thống từ lâu,Trung Quốc đã có tính hệ thống: mọi thứ đều chịu ảnh hưởng
của triết học Tống nho. Tất cả mọi thứ kể cả văn chương cũng có thể được lý giải
theo hệ thống này.
-> Đây là yếu tố để phân biệt giữa hai nền văn học Nhật Bản và Trung Quốc.
Một bên là tính phi hệ thống, cịn một bên là tính hệ thống. Từ đó có thể làm nổi
bật lên nét đặc trưng trong văn học Nhật Bản
- Có thể nói văn chương Nhật Bản thể hiện tình cảm của con người Nhật Bản
hơn là tư tưởng

2. Tính

bao dung và tiếp nối
Văn chương Nhật Bản ln có sự bao dung cái cũ, tiếp nối cái cũ để rồi phát
triển cái mới. Ngoài ra, văn chương Nhật Bản còn thâu nhận tất cả các kiểu loại,
không hề gây ra sự mâu thuẫn trong những cái cũ và cái mới.
Ví dụ: Sự ra đời của thơ waka rồi đến thơ haiku. Mỗi thể loại như bổ sung


cho nhau, nhất là trong thơ haku có sự tiếp nối và kế thừa từ thơ waka.
3. Tính đa dạng trong văn tự và phi cấu trúc trong diễn tả
Tính đa dạng trong văn tự : Hai dịng văn học trong suốt thế kỷ XVII cho
đến thế kỷ XIX đó là Kanbun (Hán Văn) và Wabun (hịa văn) đều thể hiện sự đa
dạng này.


Phi cấu trúc trong diễn tả: ít quan tâm đến cấu trúc, khơng có quy củ kiểu
văn chương Đường, Tống. Ví dụ: Truyện Genji, tản văn, kabuki...
4. Tính đồng quy
- Quy tụ về trung tâm, tập hợp ở đô thị
- Những tác phẩm được biên soạn theo sắc lệnh của triều đình, hoặc theo u
cầu của tơn giáo( thuyết thoại...)
- Nhà thơ, nhà soạn kịch cùng tiểu thuyết sống quanh các thành phố lớn để
sáng tác
- Tác giả, độc giả tập trung thành một nhóm
5. Tính độc đáo Nhật Bản và sự hài hịa với bên ngồi
- Các tư tưởng ngoại lai ảnh hưởng đến thế giới và cả văn chương Nhật Bản
như:
+ Phật giáo đại thừa: du nhập từ thể kỷ VII, ảnh hưởng đến văn hóa Nhật Bản
+ Nho giáo: Du nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản nhất là ở thế kỷ XIV
và XV, trở thành hệ tư tưởng chính thống vào thế kỷ XVII(Tống và Nho)
+Thiên Chúa giáo: ảnh hưởng đến Nhật Bản ở thế kỷ XVI
+ Chủ nghĩa Max: ảnh hưởng trong hai cuộc chiến tranh mà chủ yếu trong giới
trí thức
+ Thế giới quan (thế kỷ V,VI) là hệ thống đa thần, tôn giáo nguyên thủy dựa trên
thần chú, đồng cốt với quan niệm “vạn vật hữu linh”
+ Ảnh hưởng từ Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo từ đó trở thành thần đạo
+ Các tư tưởng ngoại lai khi vào Nhật Bản được Nhật Bản hóa thành nét riêng
trong nền văn hóa của riêng mình.

Câu 2 : Thần thoại lập quốc Nhật Bản
Huyền thoại Nhật kể rằng: lúc đầu vũ trụ là một quả trứng âm u, tăm tối. Thế rồi
một ngày kia, 8000 vị thần linh trên thế giới bàn nhau sáng tạo ra cõi trần để gửi
gắm mọi sự che chở và yêu thương, mọi niềm vui và nỗi buồn trong đời sống. Hai
vị thần đầu tiên được phái xuống mặt đất là nam thần Izanaghi và nữ thần
Izanami. Họ gặp gỡ nhau, kết hôn, nên vợ nên chồng. Và từ cuộc tình thơ mộng
ấy, họ sinh ra được những đứa con đẹp nhất - đó chính là quần đảo Nhật Bản mà
chúng ta thấy bây giờ. Hai thần cùng đặt chân 7 xuống đảo Ơnơgơrơ và bắt tay
dựng trụ trời, xây nhà ở trên quê hương mới. Mọi sự sống bắt đầu từ đây: cỏ cây,
hoa lá, núi, đất, sương mù... đã lần lượt hiện ra trên thế gian. Nhưng hai thần linh
vẫn cảm thấy khơng gian quanh mình sao trống vắng là vậy. Họ nói với nhau:
"Bây giờ, chúng ta đã sản sinh ra xứ sở của tám hịn đảo này cùng với núi sơng,


cây cỏ. Vậy tại sao khơng sinh ra ai đó sẽ là chúa tể của vũ trụ này?” Thế là họ
sinh ra nữ thần mặt trời, gọi là Amaterasu. Ánh sáng của đứa bé chiếu khắp nơi:
Bắc, Nam, Đông, Tây, Trên, Dưới. Sự sống nảy mầm đối với vạn vật và con
người. Từ sau nữ thần mặt trời, các thiên hoàng thay nhau cai trị trần gian, mở
đầu là thiên hoàng Jimu. Nối theo Jimu, các Thiên Hoàng ở các thời kỳ sau tiếp
tục hồn thành cơng việc chính trị của mình. Dù thời gian và bối cảnh lịch sử
khác nhau, nhưng các Thiên Hoàng ấy đều xuất thân từ một dịng dõi có nguồn
gốc thần linh. Họ duy trì sự thống trị của mình suốt mấy nghìn năm lịch sử ghi lại
thì Nhật Bản gồm 124 đời liên tục nối tiếp nhau. Trên đây là những sự kiên quan
trọng nhất liên quan đến huyền thoại lập quốc ở Nhật Bản. Trong mơ hình này,
chúng tơi thấy nổi lên đặc điểm đầu tiên là việc xuất hiện của rất nhiều các vị
thần. Ngồi 8000 vị thần linh được phơi thai từ quả trứng - vũ trụ thì có hàng loạt
các thần đã tham gia trực tiếp vào việc cấu tạo thế giới: hai thần Izanaghi và
Izanami sáng tạo ra quần đảo Nhật, thần mặt trăng, mặt trời, dông bão làm hoàn
chỉnh thêm bức tranh về sự tạp lập thế giới. Thần tư tưởng, sức mạnh nghệ thuật
như là sự bổ sung cho đời sống tinh thần của người dân nơi đây. Thực ra, tín

ngưỡng đa thần giáo là “mẫu số chung” cho cả lồi người buổi sơ khai, nhưng
phải nói ở Nhật Bản đó là dấu hiệu kỳ diệu. Nó đã trở thành tín ngưỡng, tơn giáo
của con người nơi đây - trong quá khứ và cả hôm nay vẫn cịn tồn tại - để hình
thành nên cái mà người ta thường gọi là Thần đạo Nhật Bản. Trong tiếng Nhật,
chữ dịch từ Thần là Kami - nghĩa ban đầu là Trên, sau mở rộng ra thành từ chỉ
những gì cao hơn, thiêng liêng và tốt đẹp hơn. Nếu là con người, thì người đó
phải có năng lực, sức mạnh và phẩm chất hơn bình thường. Bởi vậy, mỗi người
dân Nhật đều tin những ai được thần thánh tin cẩn nhất thì được quyền cai quản
đất nước - ở Nhật, đó là quyền lực tối cao của các vị Thiên Hồng. Cũng cần lưu
ý rằng, khơng phải ngẫu nhiên, trong huyền thoại lập quốc của Nhật Bản, lại có
sự kiện kể về sự giận dỗi của thần mặt trời (Amaterasu) mà trần gian trở nên tăm
tối. Sau đó, để ánh sáng trở lại được phải kể đến công lao của ba vị thần: tư
tưởng, sức mạnh và nghệ thuật. Chính họ đã bàn mưu tính kế để thúc đẩy thần đi
ra khỏi Thiên Nam Động, trả lại ánh sáng cho vạn vật và muôn người. Chi tiết
này gửi gắm nhiều điều sâu kín. Nhật Chiêu trong cuốn: Văn học Nhật Bản từ
thời khởi thủy đến năm 1868 đã viết: "Cái đẹp, tư tưởng và sức mạnh là linh hồn


của văn hoá. Chúng đã được mã hoá trong huyền thoại mặt trời và đến nay, các
yếu tố ấy vẫn còn nguyên lý của đời sống Nhật Bản... cuộc sống 8 của một dân
tộc, của nhân loại cần có đầy đủ ba ngôi ấy 3 . Quả thực như vậy, con người - dù
ở nơi đâu trên hành tinh - luôn cần đến tư tưởng, sức mạnh, nghệ thuật. Chỉ có
điều ở Nhật Bản, ngay buổi sơ khai - trong huyền thoại đã nêu ra triết lý này. Tiếp
theo, trong huyền thoại Nhật, chúng tơi thấy thiên nhiên định hình ngay từ buổi
đầu. Truyện kể rằng sau khi Izauagi và Izanami kết hơn với nhau, đã sinh ra
những hịn đảo xinh xắn "hiện ra dưới mặt trời mọc". Dân gian cịn miêu tả: "Trên
đó, lững lờ trơi các con suối và nhấp nhô núi đồi, theo từng mùa mà trắng tuyết
hay đỏ rực lá cây phong. Trên đó có hoa anh đào và chim chóc, có cả những con
người đầu tiên". Đây thực sự là khung cảnh lãng mạn, tuyệt vời, một khơng gian
đậm chất trữ tình đằm thắm, nó như đã nói lên tất cả về thiên nhiên Nhật với bốn

mùa đều đặn xuân, hạ, thu, đông. Tất cả đã nói lên một tình cảm mạnh mẽ đối với
cái đẹp và cái giàu có ở mơi trường xung quanh người Nhật cổ xưa. Vì vậy, muốn
hiểu về lịch sử nước Nhật, con người Nhật không thể bỏ qua những đặc điểm về
thiên nhiên. Thiên nhiên Nhật tươi đẹp là vậy, nhưng nếu xét về phương diện địa
lý thì tính chất đảo lại quy định nhiều đến tính cách người Nhật - họ sống khá kín
đáo, ln cảnh giác với bên ngồi. Tính chất đảo cịn ảnh hưởng đến phịng thủ
quân sự, làm cho Nhật trong lịch sử tránh được nhiều cuộc ngoại xâm, song mặt
khác nội chiến nhiều. Trong huyền thoại, cuộc tranh giành giữa nữ thần mặt trời
và em trai mình, cuộc đọ sức giữa hai anh em Hôôri và Hôđôri thực chất là cuộc
tranh giành giữa các bộ tộc, bộ lạc với nhau nhằm củng cố quyền lực, trong đó
quyền lực sẽ thuộc về phái mạnh hơn, đã đạt được chiến thắng. Tìm hiểu huyền
thoại lập quốc ở Nhật Bản, chúng tôi không thể vẽ nên bức tranh hoàn chỉnh, đủ
đầy. Song vẫn tin rằng với “chiếc gương” nhỏ này, ta hãy cịn tìm thấy một vài
điều đặc biệt nào đó - mà dấu ấn của nó vẫn tạo thành mạch ngầm chảy mãi trong
đời sống Nhật Bản hiện đại hôm nay.
Câu 3: Cấu trúc và thể loại của thơ Tanka, Haiku?
Thơ Tanka
Cấu trúc:
Hình thức của thơ Tanka rất ngắn


-

Gồm 31 âm tiết với 5 dòng thơ, được chia ra như sau:
+ Dịng 1 có 5 âm tiết
+ Dịng 2 có 7 âm tiết
+ Dịng 3 có 5 âm tiết
+ Dịng 4 có 7 âm tiết
+ Dịng 5 có 7 âm tiết.


Thơ tanka khơng q 12 từ. Và đó là thể thơ ngắn thứ hai chỉ sau haiku. Thơ Tanka
khơng tn theo quy tắc phải có q ngữ, mặc khác, tanka còn được gieo vần tự do
hơn. Mỗi bài tanka tuy chỉ có 5 dịng, 31 âm tiết nhưng ý tình đều trọn vẹn, đó
thường là một câu chuyện tình được cơ đọng chặt chẽ và hàm súc trong số lượng
ngơn từ hữu hạn; hình ảnh thơ trang nhã, mực thước nhưng cũng rất dung dị.
Thể loại: Là thể thơ trữ tình ngắn gọn:


kami-no-ku (上上上 "câu trên"): gồm 5-7-5

shimo-no-ku (上上上 "câu dưới"): gồm 7-7
Thơ Haiku


Cội nguồn của thơ Haiku
Hành trình thơ ca Nhật
Tanka (waka) -> Tanrenga ->Renga -> Haikai no Renga -> Hokku -> Haiku
Haiku ra đời vào thế kỷ thứ 17, Bashô không phải là người sáng tạo đầu tiên
Nguyên lý thơ Haiku
1.

Nguyên lý về cấu trúc:

Là thể thơ gồm có 17 âm tiết, cấu tạo theo kiểu 5,7,5. Nó lặp lại ln phiên các
dịng 5,7,5 rồi đến 7,7, thường chỉ có 7,8 từ là thể thơ ngắn nhất.
3 câu chia thành 2 phần : 1/2-3 hoặc 1-2/3
Thơ khơng có tựa đề
2.

Ngun lý về mùa:


-

Thường dùng Kigo (q ngữ) để chỉ mùa

-

Hai loại từ chỉ mùa:

+ Trực tiếp: xuân, hạ, thu, đông


+ Một số quý ngữ thường gặp: hoa -> hoa anh đào
Đền -> mùa xuân.
->Thơ Haiku liên kết giữa vật với vật.
3.

Nguyên lý của làn hương

Thơ Haiku trước Bashô, Bashô là người làm cho Haiku trở nên vĩ đại, chứ
không phải là người sáng tạo nên thơ Haiku
Bế tắc do khơng tìm thấy cách đặt tương quan giữa các sự vật tạo nên sự ngớ
ngẩn hoặc là nhìn bên ngồi nó có vẻ tương quan nhưng thật chất lại khơng tương
quan.
+ Cách tương quan mới: liên kết bằng sự truyền cảm hứng và phản hồi lại bằng
những làn hương vô hình. Cho phép điền nghĩa vào khoảng trống tạo tự tạo nên sự
xao động chính mình.
Thể loại:
Thơ haiku là khúc ca của bốn mùa. Mỗi bài thơ haiku đều có quý ngữ (kigo hay từ
ngũ báo hiệu mùa). Thơ Haiku lấy thiên nhiên làm chủ đề và bộc lộ cảm xúc cô

tịch (sabi), yugen (u huyền ), aware (bi ai), wabi (đà), karumi (khinh).
Câu 4 : Onokomachi và Basho
Basho
1.

Cuộc đời và sự nghiệp:

- Matsuo Basho (1644-1694) trong một gia đình dịng dõi Samurai của Ueno thuộc
xứ Iga.
-1678 ở Edo, ơng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của phái Danrin, mở trường dạy haikai
ở Nihonbashi để sống .
-1680 nhà thơ về ở trong một căn lều nhỏ bên bờ sông Sumida , trước sân nhà thơ
trồng một khóm chuối . Chính tại căn lều này , bút danh Basho ( nghĩa là Ba Tiêucây chuối ) ra đời mà trước đó ơng đã có rất nhiều bút danh khác nhau . Và cũng từ
đây ông trở thành một thiển sinh.
-37 tuổi Basho in tập thơ khởi đầu thời kì mới.
- 1686 thi tập Mặt trời mùa xuân được xuất bản
- 1689 nhà thơ khởi hành chuyến đi dài nhất và nổi tiếng nhất lên phương Bắc mà
hồi ấy còn rất hoang dã, khó khăn và đấy bất trắc.


- Tác phầm lớn nhất cuối cùng của Basho là Nhật kí Saga ( Saga Nikki -1691) viết
ở một vùng thảo am thuộc vùng Saga . Kết thúc chuyến đi ông trở về trong sự đón
tiếp nồng nhiệt từ mọi người khắp nơi, danh tiếng ông lúc ấy vô cùng lừng lẫy.
- Năm 1694 ông bắt đầu chuyến đi cuối cùng về phía Nam nước Nhật nhưng
chuyến đi chỉ mới bắt đầu thì ơng ốm nặng qua đời.
Basho đã sáng tác hơn 300 bài thơ, gần phân nửa là tranh thơ với chủ trương người
nghệ sĩ phải có tai nghe thính nhạy, mắt nhìn thơng suốt và cả một tâm hồn cảm
thông sâu đậm để ghi nhận và diễn đạt.
2.


Phong cách thơ Haiku .

Haiku là một thể thơ đặc biệt ngắn gọn, xuất phát tự nhiên như tiếng nói từ tâm đến
cảnh trong khoảnh khắc của ngay lúc ấy, trong đó thời gian và khơng gian cơ đọng
lại như khung cảnh hiện thực , vì thế thơ haiku hảm chứa nhiều nét thi vị của Thiền
tông.
Basho đã đưa Thiền vào thơ của ơng một cách tuyệt vời, đó là những vần thơ cao
nhã, nhàn tản, u tịch thể hiện qua những cảm thức thẩm mỹ khác nhau như : sabi,
wabi và karumi. Trong một bài thơ, những cảm thức này đơi khi gắn chặt với nhau.
a.

Sabi có thể được hiểu là linh hồn của u hồi, tĩnh tịch, cơ liêu , xa xưa theo ý
nghĩa truyền thống. Mặt khác Basho đã bổ sung cho nó mơt nội hàm khác,
đó là vẻ đẹp thanh tú,phong nhã. Chất Sabi có khi thể hiện qua hình ảnh
thiên nhiên hiu quạnh, hoang tàn :
Cỏ mùa hạ ơi
hùng binh một thuở
dẫu tàn giấc mơ thôi.
Chất Sabi cịn thể hiện trong hình ảnh những con người phương Bắc chân
chất, thanh cao. Họ có thể là một chiến binh, thiền sư, … nhưng tất thảy đều
là những người có tâm hồn nghệ sĩ, lịch lãm và rất văn hóa. Chất sabi khơng
chỉ được qua khách thể phản ánh mà cịn uẩn khuất trong cái tơi trữ tình, một
cái tơi u hồi mà phong nhã, nhạy cảm trước vô thường, khát khoa hướng tới
thiên nhiên và tha thiết tìm về với cái đẹp văn hóa truyền thống.

b.

Wabi được hiểu là cái đơn sơ, bình thường, dường như là nghèo nàn nhất:
một chiếc lá, một cành khô, một con ốc nhỏ, một bông hoa, một tiếng
chuông chùa, chút bụi cám, chú dế mèn, dép rơm, mũ vải... Wabi cũng là



những hình ảnh giản dị thân thuộc như con chim gõ kiến gõ ngoài trụ hiên,
con ếch nhảy xuống ao, con quạ đậu cành khô trong chiều lặng lẽ, như bốn
mùa thay áo thời gian... Wabi còn là sự đơn sơ trong từ ngữ, ngắn và gợi,
lược bỏ các tính từ biểu cảm, chỉ gọi tên sự vật chứ không miêu tả. Đó cũng
là một nét quen thuộc trong thẩm mĩ văn hóa Phương đơng.
Áo bơng tơi cởi
Quẩy lên vai trần
Mùa thay áo đổi
c.

Karumi được hiểu là sự “ khinh thanh dịu nhẹ” mà vào cuối đời, Basho
thường hay nhắc tới với một phong thái ung dung tự tại. Nỗi vô thường và
vĩnh cửu của đời sống thấm đẫm tinh thần mỗi bài haiku như một sự giác
ngộ, khai sáng, trầm mặc chân không. Ở cả điểm này, haiku của Basho cũng
gặp gỡ thơ Thiền Việt Nam trong một dòng chảy tràn đầy Phật tính.

Ono no Komachi
Một trong những “ Lục ca tiên “ thời Heian , một nữ thi sĩ lạnh lùng và xinh đẹp
của nước Nhật thời Cổ đại.
Để lại trong lòng người đọc với những vần thơ nồng nàn cháy bỏng cảm xúc yêu
đương và cả những vần thơ u buồn, thấm đẫm niềm bi cảm về sự tàn phai của vạn
vật. Cuộc đời đẹp và bí ẩn của Komachi trở thành đề tài nổi bật của những vở kịch
No.
Đang héo tàn
Trong vẻ ngồi lộng lẫy
Có phải là bông hoa
Của trái tim chàng
Trong thế giới trần gian.

Ono no Komachi (tk 9)
Tôi cô đơn nhường ấy
Thân thể tôi là cây rong run rẩy
Nổi trơi, đứt lìa gốc rễ.


Làn nước dụ tôi đi
Tôi sẽ trôi theo, tôi nghĩ.
Ono no Komachi
Câu 5. Văn học nữ lưu vì sao phát triển mạnh thời Heian ?
Dòng văn học nữ lưu phát triển rực rỡ vào thời Heian ( không bao giờ lặp lại
lần thứ 2 trong lịch sử) với các thành tựu tiêu biểu:
+ Hàng loạt các nữ thi sĩ tài hoa như : Onokomachi, Izumi shikibu được tuyển
vào các sắc soạn tập.
+ Văn xuôi phát triển mạnh: thể loại monogatari hoàn chỉnh với truyện Genji
+ Văn học nhật ký-tùy bút hình thành và phát triển với các tác giả nữ cung đình
như : Kagero nikki, Izumi Shikibu Nikki, Murasaki Shikibu Nikki,..
Nguyên nhân :
+ Ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc chưa ăn sâu vào đất Nhật.
+ Ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ, do đó phụ nữ độc lập về tài sản, có trình độ học
vấn cao, đủ năng lực sáng tạo văn chương.
+ Vì muốn con gái trở thành vương phi, hồng hậu nên các gia đình q tộc gửi
con gái của mình vào cung đình để học tập.
+ Cuộc sống bình n, rảnh rỗi, người phụ nữ khơng lo nghĩ, có nhiều thời gian
cho việc sáng tác.
+ Phự nữ không bị ràng buộc bởi ngôn ngữ, văn chương, khơng phải theo quy
phạm, có hệ thống chữ kana dành riêng cho phụ nữ.
Câu 6 : Đọc 1 chương trong Genji chú ý cảm thức aware, tâm lí nhân vật ?
Câu 7: VHHĐNB. Chọn 1 tác phẩm yêu thích.
Phần 2 : VĂN HỌC TRIỀU TIÊN

Câu 8: Thần thoại lập quốc?


Buổi đầu trong lịch sử Hàn Quốc được đánh dấu vào năm 2333 TCN khi vua
Tangun lập ra vương quốc đầu tiên mang tên Choson. Huyền thoại kể rằng: xưa
có một thần là hoàng tử tên gọi Huanung, con của vua Huanin (thần nhà trời)
được vua cha cho phép đã cùng với 3000 người xuống mặt đất để cai quản trần
gian. Huanung hạ xuống gần một khu rừng gỗ đàn hương thiêng liêng trên rừng
T'aeback (Thái Bạch), rồi tự xưng là Thiên Vương (tức vua nhà trời). Sau đó, ơng
chỉ định ba thương thủ phụ trách gió, mưa, mây; đồng thời dạy dân 360 nghề có
ích gồm nghề nơng, nghề y, mộc, dệt, đánh cá... Hoàng tử cũng đã dạy cho dân
biết phân biệt thiện ác và đặt ra một bộ luật để duy trì cuộc sống cõi dương gian.
Thuở ấy, gần nơi Huanung ngự trị, có một con gấu và một con hổ sống chung
trong hang núi. Ngày nào chúng cũng gặp Huanung để cầu xin được làm người.
Huanung đồng ý, gọi chúng lại, đưa cho chúng 20 củ tỏi và một nắm ngải cứu
thiêng, giao ước rằng: "ở trong hang sâu, khơng ra ngồi nắng, 100 ngày ăn tỏi và
ngải thiêng thì sẽ biến thành người". Gấu và Hổ vui mừng trở về hang động, ăn
tỏi và ngải cứu rồi cùng nhau thực thi điều kiện mà Huanung đặt ra. Nhưng Hổ
không đủ kiên nhẫn để chịu đựng sự thử thách này và rời hang trong một thời
gian ngắn. Cịn gấu thì kiên trì chờ và chỉ sau 21 ngày đã trở thành một cô gái
xinh đẹp sống giữa trần gian, nhưng chỉ có một mình. Nàng rất buồn và lại một
lần nữa đến gốc cây linh đàn xin Huanung được mang thai. Một thời gian sau
Huanung trở thành chàng trai đạo mạo và kết hôn với cô gái tên Gấu, sinh được
một người con trai đặt tên là Tangun. Tangun lập nước Choson, sau trở thành thần
Núi.
Trên đây là thần thoại cổ nhất của Hàn Quốc và mọi vấn đề đều được "mã
hố" trong huyền thoại này
Ngồi ra cịn có các huyền thoại khác:
• Huyền thoại Koguryo kể rằng vua Keumwa một hôm đi săn gặp nàng
Yoo Wua (Liễu Hoa). Vua đưa nàng về cung, một thời gian thì nàng sinh

được quả trứng to bằng 5 cái đấu. Lúc đầu, mọi người đều sợ hãi, nhưng
ít lâu, từ trứng bước ra là một cậu bé khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là
Choomong. Choomong tài giỏi lại được vua cha yêu mến nên bị các
hoàng tử con vua hãm hại. Chàng bỏ đi, trốn đến Eum Soo (bây giờ là


vùng Đông Bắc Áp Lục Giang), qua một con sông, sang bờ bên kia rồi
dừng lại xây một quốc gia mới tên là Koguryo.
• Huyền thoại Kaya lại kể về câu chuyện sáu người con được sinh ra từ
cái bọc gồm 6 quả trứng màu vàng. Sau này, toàn bộ số họ chia nhau cai
quản sáu vùng của đất nước Kaya.
• Huyền thoại về vương quốc Peakche (Bách Tế) được dân gian tưởng
tượng bằng chi tiết đứa bé Yoori đi tìm cha (chính là đức vua
Choomong). Qua bao gian nan thử thách, chàng tìm được báu vật, yết
kiến và được phong làm thiên tử. Nhưng ngoài Yoori, khi đến Chubon
(Tốt Bản), vua còn sinh được hai người con nữa. Trước tình hình ấy, họ
quyết định tìm nơi khác để định cư. Biury (người anh) chọn nơi "đất lành
chim đậu" - gần núi Book-a-ak-san (Bắc Hà San), lập ra nước Bách Tế
mn đời.
• Cuối cùng là huyền thoại Silla: Ở huyền thoại này khơng có người cha
con Trời, cũng khơng có giọng nói trực tiếp thơng báo ý trời, nhưng cặp
song sinh Ngọc Đồng Tử và Ngọc Đồng Nữ (sau này chính là vua Park
Huyek Keose và hồng hậu Alyoung - người sáng lập ra triều đại Silla)
lại được sinh ra từ bào thai của người mẹ - thánh mẫu Saso - một phụ nữ
có năng lực thánh thần.Ngay từ thời cổ xưa, trên bán đảo này đã có một
khơng gian văn hố khá hồn chỉnh, định hình. Đó là một thế giới tự
nhiên bao gồm Núi - Sông - Biển - Hồ, vừa đa dạng, vừa phù hợp với cư
dân nơi đây trong việc canh tác, cấy cày, trồng trọt để phục vụ nghề nông,
đảm bảo cuộc sống và sự sinh tồn trong buổi đầu tiên khi con người còn
phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong hệ thống Núi - Sơng - Biển - Hồ ấy

thì núi non vẫn là chủ đạo. Núi là nơi đầu tiên Huanung đặt chân xuống
trần gian cai trị loài người, núi là nơi gặp gỡ và kết hôn giữa chàng và
nàng Gấu, núi cũng là nơi sau này khi Tangun cai quản đất nước được
1.500 năm rồi lên đó ở ẩn, trở thành thần núi. Núi non còn là địa bàn cư
trú của nhiều vương quốc cổ ở Hàn Quốc. Điều này có liên quan đến
cảnh quan địa lý nơi đây. Bởi cả bán đảo Hàn chạy dọc từ Bắc xuống
Nam hàng ngàn cây số thì đất đai có đến 70% là núi đồi. Và thuộc về
"giang san" ấy là những ông vua. Ở Hàn Quốc, các đời vua - ngoài nguồn
gốc thiên giới - cịn có nhiều tình tiết ly kỳ (để tăng sức hấp dẫn): sự sinh
nở thần kỳ, sự kết hôn thần kỳ, và những mơtíp thử thách thần kỳ. Đằng
sau những cái "kỳ" ấy là ý niệm giàu trí tuệ của người xưa trong việc


phác thảo ra bức chân dung tinh thần của vị vua mà nhân dân trên bán
đảo Hàn Quốc tôn sùng. Đối với họ, vua vừa phải là người có tài năng,
nhưng đồng thời luôn nỗ lực, vượt qua thử thách thì mới vươn đến đỉnh
cao của đời sống, mới có năng lực giao cảm với thánh thần. Về phương
diện này, ý niệm bên kia ngồi ước mơ cịn liên quan đến loại tín ngưỡng
Shaman rất lâu đời. Tín ngưỡng này biểu hiện sự cộng cảm giữa con
người với thế giới tự nhiên và các lực lượng siêu nhiên (giống hiện tượng
hát Then của người Tày và lên đồng của người Kinh ở Việt Nam). Song
việc biến khát vọng, khả năng ấy vào một số con người đặc biệt - khi sự
tu luyện đạt đến mức độ nào đấy sẽ hiểu được thánh thần - thì chỉ thấy
nổi bật lên đậm nét ở Hàn Quốc. Và trong đời sống hiện đại, tín ngưỡng
ấy vẫn cịn, thậm chí nó là tâm thức toàn dân.
Câu 9: Thơ Sijo và Hwang Chin Y
Sijo là một trong những hình thức diễn ca Triều Tiên thời Trung thế
kỷ. Còn tên gọi khác là Đoản ca hoặc Thời tiết ca.
Sijo hình thành vào cuối thế kỷ 14 (cuối nhà Cao Ly), bắt nguồn từ ca
dao Cao Ly và hương ca Tân La.

Nói chung thơ Sijo là một thể thơ ngắn, khá trau chuốt, cá tính, riêng
tư và mang đậm bản sắc hơn là thể loại thành ngữ, nó được kết thúc bằng những ý
tưởng sắc sảo, thâm thuý và tao nhã. Tuy nhiên linh hồn của thơ Sijo khơng phải là
lý tính mà là cảm tính.
Thơ Sijo là một loại hình nghệ thuật mà trong đó ngơn từ và âm nhạc
tạo thành một chỉnh thể. Hầu hết các bài thơ Sijo đều được tập hợp trong những
hợp tuyển thơ văn suốt thế kỷ 18 và 19.14 đến 16 âm tiết, trong mỗi dòng tổng số
các âm tiết khơng bao giờ vượt q 45.
Hình thức cơ bản của thơ Sijo được trình bày như sau:
Dịng một : 3 4 4 4
Dòng hai :3 4 4 4
Dòng ba : 3 5 4 3
Nội dung thơ Sijo là những tác phẩm ứng tác. Chúng vừa mang nội
dung hồi tưởng quá khứ lại vừa là văn chương tán tụng. Nhiều bài thơ châm biếm,
đả kích chính trị, xã hội đã ra đời. Chúng không thẳng thừng, thô mộc mà trau
chuốt và tao nhã rất đáng gọi là thơ.
Các tác giả tiêu biểu như: Hwang Chin Y, Yun Son Do, Pak Hyo-gwan, An
Min-yong.
Hwang Jin Yi


Yếu tính về những truyền thống vẻ vang của thơ Sijo được giữ gìn và tiếp
nối bởi Hwang Chin Y (Hoàng Chân Y: 1506 - 1544) nhà thơ Triều Tiên vĩ đại nhất
của mọi thời đại. Nàng là một Kisaeng (Kỹ sinh) danh tiếng của đất Song Do
(Tùng Đô). Tiếng tăm của nàng trong thơ ca và âm nhạc lan toả khắp kinh thành.
Nàng là một bậc thầy điêu luyện về cách khai triển những hình ảnh chọn lọc trên
một bình diện đầy kịch tích. Những hình ảnh trong thơ nàng luôn đơn sơ và gợi
cảm được phản ánh trực tiếp từ thiên nhiên nhưng chúng luôn được chọn lựa trong
cái nhìn tương quan và đa nghĩa..
Hwang Jin-yi sinh ra trong một gia đình vốn thuộc dịng dõi q tộc

Yangban(lưỡng ban) ở Gaeseung nhưng mẹ của nàng có xuất thân từ tầng lớp tiện
dân thấp kém có tên gọi là Jin Hyun-geum. Vì thế dù có đọc được Tứ thư Tam kinh
và am hiểu về âm luật thơ, thư nhưng theo như quy phạm của xã hội Joseon thế kỷ
16 thì Hwang Jin-yi mang thân phận sẽ chỉ là tỳ thiếp của các gia đình Yangban.
Tuy thân phận kỹ nữ thấp hèn nhưng Hwang Jin-yi dung mạo, học
thức, và tài năng nghệ thuật xuất chúng, nàng là bạn của những nhà nho tri thức, là
đối tượng của sự thèm muốn khát khao, đã khơng để lại gì trong tình u và khơng
có gì vướng nợ trong cuộc đời. Đặc biệt, trong xã hội Joseon người phụ nữ vốn bị
hạn chế các hoạt động xã hội đi kèm các hà khắc thì Hwang Jin-yi rất nổi danh khi
vừa là mỹ nhân vừa
là nữ sĩ tài ba.
Tác phẩm
Cho đến nay, người ta chỉ cịn lưu giữ được một số lượng khá ít các bài sijo
và geomungo của Hwang Jin-yi, nhưng cũng đủ thấy được sự kết hợp tài tình giữa
kỹ năng vận dụng từ ngữ và tính nhạc. Chủ đề chính là vẻ đẹp và cảnh sắc vùng
Gaeseong, ví dụ như Manwoldae và thác Pakyon, hoặc thổ lộ tâm trạng của bà khi
tuyệt vọng vì tình, hoặc xướng họa những tác phẩm thi ca Trung Quốc.
Chiếc bách
Một con thuyền bách trắng,
Trên sóng biếc lênh đênh.
Trải qua bao năm tháng.
Ai đầu tiên lên thuyền?
Phụng biệt So seyang
Dưới trăng, lá ngô đồng rụng.
Trong sương, hoa dã cúc tàn.
Chén nồng, ta say tuý luý
Lầu cao, trời bén tấc gang.
Hương mơ lẫn vào sáo trúc.
Nước trôi mát tận cung đàn



Sớm mai đời ta chia biệt
Tình xanh vơ tận sóng xanh.
Sijo 1
Núi biếc, suối xanh ơi
chớ cuống ngạo mà trôi.
Một khi ra đến biển
thì biết làm sao lui.
Núi đồi đầy trăng sáng
chi bằng lãng đãng chơi
Câu 10: Tiểu thuyết cổ điển: tiểu thuyết mộng du và Pansori?


Tiểu thuyết cổ điển Hàn Quốc do Kim – Man – Chung (Kim Vạn Trọng:
1637-1692) sáng tác.



Tương truyền đây là tác phẩm được sáng tác với mục đích đầu tiên là để giải
buồn cho mẹ của tác giả Kim Vạn Trọng.



Có ý kiến cho rằng khi Kim Vạn Trọng đi sứ Trung Quốc, mẫu thân dặn tác
giả mua tặng bà một cuốn tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nhưng vì lãng
quên nên Kim Vạn Trọng vội sáng tác “Cửu vân mộng” để dâng lên mẹ.



Lời chỉ bảo lớn nhất của “Cửu vân mộng” là tất cả những điều như vinh hoa

phú quý, tình yêu và tước phẩm đều chỉ như một giấc mộng xuân. Cuộc sống
giàu sang, vinh hoa tột bậc của Dương Thiếu Du (nhân vật trong tác phẩm)
cũng chỉ là một giấc mộng ở chín tầng mây.



Tuy nhiên khơng dừng lại ở đó tác phẩm cịn mở ra những hy vọng ở kiếp
sau theo thuyết luân hồi của đạo Phật. Âm hưởng của toàn bộ tác phẩm
mang đậm ba yếu tố Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.

Phạm Vĩnh Hà (29/10/2008), Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam-Viện
Nghiên
cứu
Đông
Nam
Á,
/>ItemID=267



Trước hết, về cốt truyện kẻ mê ngộ- đầu thai- giải thoát.








“Cửu vân mộng” là câu chuyện của Tính Chân và tám tiên nữ, vốn tu hành

trên núi thiêng, tâm trong sạch sáng suốt, vì gặp nhau bỗng động lịng phàm.
Đây là q trình đi từ “vơ tâm” đến “si”.

Ứng với kết cấu truyện người cõi tiên, vật thiêng đầu thai xuống phàm trần rồi tỉnh
ngộ trở về tiên giới là kết cấu khơng gian thiêng- tục- thiêng.


“Cửu vân mộng” quả thực đã tn theo kết cấu vịng trịn về khơng gian ấy.



Chính vì tơn trọng hồn tồn kết cấu này, “Cửu vân mộng” có dáng vẻ một
câu chuyện cổ tích mang âm hưởng thần tiên và Phật giáo.

Với kết cấu không gian thiêng- tục- thiêng vừa nêu, theo lẽ thường không gian
“thiêng” phải ứng với thế giới ảo, thế giới mộng, cịn khơng gian tục là thế giới thực,
vậy kết cấu truyện phải là mộng- thực- mộng.


Cửu vân mộng” có kết cấu giấc mộng- một kiểu kết cấu quen thuộc trong
văn học Á Đơng.



Tiểu thuyết mộng du xuất hiện từ đầu thời Cho-son (1392-1910), cấu trúc
thường là phần dẫn nhập trước khi có giấc mộng và phần kết là phần sau khi
đã thức tỉnh, ôm lấy phần trung tâm là mộng ảo.




“Cửu vân mộng” của Kim-Man-Chung chính là một giấc mộng trong dịng
mộng ảo ấy.



Tác phẩm có sự đan xem hai thế giới mộng- thực trong suốt phần thân
truyện. Nhân vật có thể đi lại giữa hai thế giới qua phương tiện là những
giấc mơ.



“Cửu vân mộng” cũng có kết cấu là một giấc mộng lớn ôm lấy nhiều giấc
mộng nhỏ.



Tác phẩm đi đến hồi kết là vinh hoa tan như bèo nước, tình ái như gió
thoảng bay, nhân vật chính về với cõi Phật, đã phản ánh sâu sắc triết lý sắckhông của Phật giáo.
Vũ Thị Thanh Tâm, Mộng trong “Hồng lâu mộng” của Tào Tuyết Cần và
“Cửu vân mộng” của Kim Vạn Trọng, khoavanhoc-ngonngu.edu.vn




×