Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Chất lượng thể chế, chìa khóa cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia châu á thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (888.57 KB, 48 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH TRÍ

CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ,
CHÌA KHÓA CHO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CỦA CÁC QUỐC GIA CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN MINH TRÍ
CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ,
CHÌA KHÓA CHO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CỦA CÁC QUỐC GIA CHÂU Á – THÁI BÌNH DƯƠNG

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. BÙI THỊ MAI HOÀI

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của tôi. Các
thông tin, số liệu trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng và cụ thể. Kết quả nghiên
cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.

Học viên

Nguyễn Minh Trí


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG, CÁC BIỂU ĐỒ
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU .......................................................................................1
1.1. Tính cấp thiết của nghiên cứu ..........................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu .........................................................................................4
1.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................4
1.4. Đóng góp của nghiên cứu.................................................................................4
1.5. Kết cấu của luận văn ........................................................................................5
CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ KHẢO LƯỢC CÁC NGHIÊN CỨU
CÙNG CHỦ ĐỀ ..........................................................................................................6
2.1. Khung lý thuyết và phương pháp tiếp cận .......................................................6
2.2. Đo lường chất lượng thể chế ............................................................................8
2.3. Khảo lược các nghiên cứu cùng chủ đề .........................................................10
CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.............................13

3.1. Dữ liệu nghiên cứu .........................................................................................13
3.2. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................13
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...............................................................16
4.1. Kết quả bước 1 ...............................................................................................16
4.2. Kết quả bước 2 ...............................................................................................16


ii

4.3. Kết quả bước 3 ...............................................................................................21
4.4. Kết quả bước 4 ...............................................................................................25
4.5. Kết quả bước 5 ...............................................................................................28
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ...........................................29
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
- ADB: Asia Development Bank.
- CC: Control of Corruption.
- CPI: Corruption Perception Index.
- CPIA: Country Policy and Institutional Assessment.
- GDP: Gross Domestic Product.
- GDPg: Gross Domestic Product growth rate.
- GDPpc: Gross Domestic Product per capita.
- GE: Government Effectiveness.
- GII: Global Integrity Index.
- ICRG: International Country Risk Guide.
- NIE: New Institutional Economics.
- Nhóm 1: các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương.

- Nhóm 2: các quốc gia OECD.
- Nhóm 3: các quốc gia châu Phi hạ Sahara.
- Nhóm 4: các quốc gia Trung Đông – Bắc Phi.
- Nhóm 5: các quốc gia châu Mỹ Latinh và Caribê.
- Nhóm 6: các quốc gia châu Âu có mức thu nhập trung bình.
- Nhóm A: các quốc gia có chất lượng thể chế thặng dư.
- Nhóm B: các quốc gia có chất lượng thể chế thâm hụt.
- Nhóm C: các quốc gia có chất lượng thể chế không thặng dư hay thâm hụt.
- Nhóm 1-A: các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương có chất lượng thể chế
thặng dư.
- OECD: Organization for Economic Co-operation and Development.


- PEFA: Public Expenditure and Financial Accountability.
- PSNV: Political Stability and Absence of Violence/Terrorism.
- PwC: Pricewaterhouse Coopers.
- RL: Rule of Law.
- RQ: Regulatory Quality.
- VA: Voice and Accountability.
- WB: World Bank.
- WDI: World Development Indicators.
- WGI: World Governance Indicators.


DANH MỤC CÁC BẢNG, CÁC BIỂU ĐỒ
Bảng:
Bảng 1: Kết quả ước lượng phương trình (1).
Bảng 2: Kết quả chia nhóm các quốc gia (A, B, C).
Bảng 3.1: Giá trị VAtb, PSNVtb, GEtb và GDPtb trong giai đoạn 2010 – 2016.
Bảng 3.2: Giá trị RLtb, RQtb, CCtb và GDPtb trong giai đoạn 2010 – 2016.

Bảng 4.1: Kết quả ước lượng phương trình (2).
Bảng 4.2: Kết quả ước lượng phương trình (2) tiếp theo.
Biểu đồ:
Biểu đồ 1.1: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Tiếng
nói và trách nhiệm giải trình (VA).
Biểu đồ 1.2: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Ổn định
chính trị và không có bạo lực (PSNV).
Biểu đồ 1.3: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Hiệu
quả của chính phủ (GE).
Biểu đồ 1.4: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Nhà
nước pháp quyền (RL).
Biểu đồ 1.5: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Chất
lượng quy định (RQ).
Biểu đồ 1.6: Đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho chỉ số Kiểm
soát tham nhũng (CC).


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Trong phần mở đầu quyển sách “Asia’s rise in the 21st century” của
McDonald và Lemco (2011) đã nhận định rằng, từ nhiều thế kỷ trước, châu Á đã
phát triển trước châu Âu ở một số khu vực. Cho đến khoảng năm 1500, hai châu lục
này bắt đầu phân kỳ và châu Á đã tụt lại phía sau. Phương Tây (bao gồm cả Bắc
Mỹ) đã đi trước về cả kinh tế lẫn quân sự; được thúc đẩy bởi khuynh hướng toàn
cầu hoá của người Iberia, Hà Lan, Pháp, Anh và hiện đang chiếm ưu thế là Mỹ. Tuy
nhiên, điều đó đang thay đổi với sự hồi sinh vững chắc của các nền kinh tế châu Á
kể từ nửa sau của thế kỷ XX. Sự nổi lên của Trung Quốc là một chất xúc tác đặc
biệt trong quá trình này, sự phát triển trên cũng được đóng góp bởi những tiến bộ

trong các nền kinh tế châu Á mới nổi khác như Ấn Độ, Hàn Quốc, Singapore, Thái
Lan hay Indonesia.
Theo báo cáo “The Long View: How will the global economic order change
by 2050” tháng 02/2017 của PWC, châu Á đang là khu vực có tốc độ tăng trưởng
cao nhất thế giới và dự báo vào năm 2050 sẽ có 10 trong số 20 nền kinh tế lớn nhất
thế giới là các nền kinh tế châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Saudi
Arabia, Pakistan, Iran, Hàn Quốc, Philippines và Việt Nam).
Trong báo cáo Triển vọng Phát triển châu Á tháng 04/2018 (Asia
Development Outlook, 2018) của ADB đã dự báo rằng: tăng trưởng tổng sản phẩm
quốc nội (GDP) của các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương sẽ đạt mức 6% trong
năm 2018 và 5,9% năm 2019, giảm nhẹ so với mức tăng 6,1% đạt được trong năm
2017. Nếu không tính các nước công nghiệp hóa mới có mức thu nhập cao, thì tăng
trưởng của khu vực này được dự báo đạt 6,5% trong năm 2018 và 6,4% năm 2019,
so với mức tăng trưởng 6,6% năm ngoái. Những con số trên đều là khả quan nhất
trong tất cả các khu vực trên thế giới, cho thấy vai trò dẫn đầu của kinh tế châu Á –
Thái Bình Dương trong giai đoạn hiện tại.


2

Theo phần lời tựa quyển sách “Governance in Developing Asia: Public
Service Delivery and Empowerment” được ADB và Edward Elgar đồng xuất bản
(2015) cho rằng, không phải cuộc khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997 –
1998 hay cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu một thập kỷ sau đó đã làm sụt giảm sự
phát triển của khu vực châu Á. Việc các nền kinh tế đang phát triển một cách nhanh
chóng mang đến những thách thức mới cho chính phủ; các hộ gia đình và doanh
nghiệp mong đợi các dịch vụ công ngày càng tốt hơn, sự minh bạch hơn trong chính
phủ và quyền của họ trong việc đưa ra các quyết định công. Hiệu quả về thể chế
không tương xứng với hiệu quả về kinh tế của các quốc gia này. Trong các cuộc
nghiên cứu giữa các bên liên quan của ADB luôn cho thấy quản trị quốc gia kém và

tham nhũng là một trong năm mối quan tâm hàng đầu về phát triển.
Qua các vấn đề được nêu trên, chúng ta thấy, dù được dự báo có tốc độ tăng
trưởng kinh tế tốt, các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương vẫn còn gặp khá nhiều
vấn đề liên quan đến thể chế và quản trị quốc gia. Các vấn đề này nếu không được
cải thiện, có khả năng sẽ làm cản trở quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
trong khu vực, làm mất đi cơ hội cùng các quốc gia trên thế giới phát triển.
Về học thuật, vấn đề liên quan đến thể chế và phát triển kinh tế đã được quan
tâm từ thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Lý thuyết về thể chế của North (1990) đã
khẳng định rằng, thứ nhất, thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một
chính quyền tốt và hạn chế tham nhũng. Thứ hai, những quốc gia có thể chế chính
trị dân chủ và quyền tự do dân sự có lợi cho phát triển kinh tế. Thứ ba, những thành
quả kinh tế đạt được to lớn hơn là do có môi trường kinh tế tự do hơn. Theo ông,
chất lượng thể chế tốt sẽ làm giảm chi phí giao dịch, tăng lợi nhuận và thúc đẩy đầu
tư qua đó tác động đến tăng trưởng kinh tế.
Rodrik và cộng sự (2004) chỉ ra rằng, cùng với địa lý và thương mại quốc tế,
thể chế là một trong ba yếu tố quyết định sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Haggard (2004) bằng một nghiên cứu ở khu vực Đông Á đã cho thấy rằng những
thỏa thuận, sắp xếp về thể chế có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở khu vực này.


3

Yildirim và Gokalp (2016) đã sử dụng 23 yếu tố về thể chế trong giai đoạn 2000 –
2011 cho 39 quốc gia đang phát triển cho thấy đa số các yếu tố có ảnh hưởng tích
cực đến tăng trưởng kinh tế. Huang và Ho (2016) sử dụng 6 chỉ số WGI của 12
quốc gia Đông và Đông Nam Á trong giai đoạn 1996 – 2014 đã cho ra nhiều kết
quả về mối quan hệ giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế. Vianna và Mollick (2017)
cũng đã sử dụng chỉ số tổng hợp của 6 chỉ số quản trị toàn cầu WGI để xem xét mối
quan hệ giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia Mỹ Latinh trong giai
đoạn 1996 – 2015.

Đặc biệt, Quibria (2006) đã sử dụng đường tham chiếu quốc tế (international
reference line) về thể chế để chia 29 quốc gia châu Á đang phát triển thành 2 nhóm
(thặng dư và thâm hụt về thể chế) và cho thấy tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia
thâm hụt về thể chế tốt hơn các quốc gia thặng dư về thể chế trong giai đoạn 1999 –
2003. Trong một nghiên cứu khác của Han và cộng sự (2014) cũng sử dụng đường
tham chiếu quốc tế để chia các quốc gia trên thế giới thành 3 nhóm (thặng dư, thâm
hụt và không thặng dư hay thâm hụt) và cho thấy có tác động của chất lượng thể chế
đến tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển ở châu Á, Trung Đông và Bắc
Phi trong giai đoạn 1998 – 2011.
Từ việc sơ lược các nghiên cứu trước, chúng ta rút ra một số nhận xét như
sau: (1) Các nghiên cứu trước chỉ mới xem xét trên một quốc gia hay một khu vực
nhất định, chưa có nhiều sự so sánh so với phần còn lại của thế giới; (2) Phần lớn
các bài viết tập trung vào sử dụng mô hình kiểm định, việc phân tích tác động của
thể chế đến tăng trưởng kinh tế bằng đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia
chưa thật sự được quan tâm.
Qua những lý do thực tiễn và học thuật nêu trên, tác giả quyết định lựa chọn
đề tài “ Chất lượng thể chế, chìa khóa cho sự phát triển kinh tế của các quốc gia
châu Á – Thái Bình Dương” để thực hiện nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ kinh tế
của mình.


4

1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở lý thuyết và kết quả nghiên cứu, tác giả sẽ trả lời 03 câu hỏi
nghiên cứu: (1) Tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương dưới
tác động của chất lượng thể chế là như thế nào?; (2) Yếu tố nào của thể chế nên
được quan tâm nhiều hơn để giúp các nền kinh tế châu Á – Thái Bình Dương tăng
trưởng tốt? và (3) Tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế ở các
quốc gia châu Á – Thái Bình Dương có gì khác biệt so với phần còn lại của thế

giới?. Qua đó đưa ra những khuyến nghị, hỗ trợ cho Chính phủ các quốc gia có thể
bàn hành những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Để kiểm tra tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế, bài
nghiên cứu này được thực hiện trên khung lý thuyết về thể chế của North (1990) và
phương pháp tiếp cận được xây dựng bởi Kaufmann và Kraay (2002) về đường
tham chiếu quốc tế về thể chế.
Cụ thể, tác giả sẽ sử dụng đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia cho
từng chỉ số WGI để xem xét tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh
tế cho các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương và so sánh với phần còn lại của thế
giới cho bộ dữ liệu 186 quốc gia (trong đó có 40 quốc gia châu Á – Thái Bình
Dương) trong giai đoạn 2010 – 2016. Bằng việc sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM
cho mô hình biến công cụ (IV), với biến công cụ chính là các chỉ số WGI.
1.4. Đóng góp của nghiên cứu
Đóng góp của nghiên cứu thể hiện ở hai điểm:
(1) Cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế
đến tăng trưởng kinh tế cho các nền kinh tế ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
có xem xét đến việc so sánh với các nền kinh tế và khu vực còn lại trên thế giới;
(2) Dựa vào kết quả nghiên cứu để tìm ra chỉ số quản trị toàn cầu WGI nào
nên được quan tâm nhiều hơn, giúp cho Chính phủ các quốc gia đưa ra các chính
sách phù hợp hướng đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế.


5

1.5. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 05 chương như sau:
+ Chương 1: Giới thiệu.
+ Chương 2: Khung lý thuyết và khảo lược các nghiên cứu cùng chủ đề.
+ Chương 3: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu.

+ Chương 4: Kết quả nghiên cứu.
+ Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.


6

CHƯƠNG 2: KHUNG LÝ THUYẾT VÀ KHẢO LƯỢC CÁC
NGHIÊN CỨU CÙNG CHỦ ĐỀ
2.1. Khung lý thuyết và phương pháp tiếp cận
Theo Zhuang và cộng sự (2010), mối quan tâm của lý thuyết kinh tế cho vai
trò của thể chế và quản trị quốc gia (cũng như địa lý, văn hóa,…) có thể được xem
như một phần của việc tìm kiếm ra yếu tố quyết định cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế của một quốc gia. Đã có những sự không đồng thuận vào cuối những năm
1980 về mô hình tăng trưởng tân cổ điển được giới thiệu vào năm 1956 bởi Solow
và Swan. Mô hình Solow hay mô hình Solow - Swan là mô hình kinh tế về tăng
trưởng kinh tế dài hạn được thiết lập dựa trên nền tảng và khuôn khổ của kinh tế
học tân cổ điển. Mô hình này được đưa ra để giải thích sự tăng trưởng kinh tế dài
hạn bằng cách nghiên cứu quá trình tích lũy vốn, lao động hoặc tăng trưởng dân số,
và sự gia tăng năng suất, thường được gọi là tiến bộ công nghệ. Bản chất của nó là
hàm tổng sản xuất tân cổ điển, thường là dưới dạng hàm Cobb-Douglas.
Ngay cả khi tích lũy vốn hoặc đổi mới công nghệ tạo ra những sự khác biệt
đáng kể về sản lượng trên đầu người trong dài hạn, câu hỏi đặt ra là lý do tại sao
một số quốc gia thành công trong khi những quốc gia khác lại thất bại trong việc
thực hiện. North và Thomas (1973) chỉ ra rằng, các yếu tố: tích lũy vốn, đổi mới
công nghệ, quy mô nền kinh tế, giáo dục,…không phải là nguyên nhân dẫn đến tăng
trưởng, mà là hệ quả của tăng trưởng.
Trong bối cảnh này, một dòng lý thuyết kinh tế mới đã nổi lên để giải quyết
vấn đề trên, được gọi là kinh tế học thể chế mới (NIE), chủ yếu từ công trình của
Douglass North (North và Thomas 1976; North 1981, 1990 và 2005). NIE cố gắng
mở rộng kinh tế học tân cổ điển bằng cách kết hợp phân tích thể chế, tập trung vào

vai trò của thể chế trong việc giải thích hiệu quả kinh tế trong dài hạn. North định
nghĩa thể chế là "các quy tắc của trò chơi", nghĩa là các ràng buộc chính thức và
không chính thức do con người tạo ra, hình thành các tương tác của con người. Các
hình thức thể chế chính thức đề cập chủ yếu đến hiến pháp, các quy chế, quy tắc và
quy định của chính phủ được cơ chế hóa và thực thi; quan trọng nhất là nhà nước có


7

quyền lực và khả năng cưỡng chế. Mặt khác, các hình thức thể chế không chính
thức bao gồm các quy tắc về truyền thống, các quy tắc ứng xử và các cơ chế xã hội
được thực thi thông qua quan hệ giữa các cá nhân.
Một số nghiên cứu khác về kinh tế thể chế mới như Weingast (1993) lập luận
rằng, một chính phủ đủ mạnh để bảo vệ tài sản và thực thi các thỏa thuận cũng đủ
mạnh để tịch thu lại sự giàu có của các công dân của mình. Nghịch lý vốn có này
cung cấp lý do cho sự minh bạch trách nhiệm giải trình; kiểm tra và cân bằng; và sự
tham gia rộng rãi của các tổ chức khác nhau như là một phần của các yêu cầu về trật
tự và kiểm soát xã hội. Lauth (2005) xem xét cách thức các hình thức thể chế chính
thức và không chính thức tương tác với nhau trong xã hội bằng cách phân biệt giữa
ba loại mối quan hệ: bổ sung, khi các hình thức thể chế chính thức và không chính
thức cùng tồn tại song song và củng cố, hỗ trợ lẫn nhau; thay thế, khi các hình thức
thể chế chính thức đóng vai trò chủ thể và không chính thức thể hiện sự thiếu hiệu
quả, hoặc ngược lại; và xung đột, khi hai hệ thống quy tắc không tương thích. Bằng
chứng thực nghiệm cho thấy rằng, các hình thức thể chế không chính thức có thể
giải thích một phần sự khác biệt giữa các quốc gia về hiệu quả tăng trưởng kinh tế.
Trong xu hướng phát triển của kinh tế học thể chế, Kaufmann và Kraay
(2002) đã sử dụng đường tham chiếu quốc tế về thể chế để kiểm tra mối quan hệ
giữa thể chế và tăng trưởng kinh tế. Theo đó, bằng việc thực hiện một hồi quy OLS
đơn giản cho hai biến (chỉ số chất lượng thể chế và logarit tự nhiên thu nhập bình
quân đầu người) ứng với tất cả các quốc gia được chọn và tại một năm t nhất định,

đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia (đường hồi quy) được vẽ ra dựa trên
kết quả hồi quy. Qua đó, các quốc gia được chia làm hai nhóm: thặng dư và thâm
hụt về thể chế. Một quốc gia được phân loại là thặng dư về thể chế nếu điểm giá trị
ước lượng của quốc gia này nằm phía trên đường tham chiếu được đo lường. Ngược
lại, một quốc gia được phân loại là thâm hụt về thể chế nếu điểm giá trị ước lượng
của quốc gia đó nằm phía dưới đường tham chiếu được đo lường. Sau khi các quốc
gia được chia làm hai nhóm, hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình được xác định


8

trong một quãng thời gian kể từ năm t để kiểm tra xem giá trị thể chế ban đầu có
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo hay không.
Từ đó, để kiểm tra tác động của chất lượng thể chế đến tăng trưởng kinh tế,
bài nghiên cứu này được thực hiện trên khung lý thuyết về thể chế của North (1990)
và phương pháp tiếp cận được xây dựng bởi Kaufmann và Kraay (2002) về đường
tham chiếu quốc tế về thể chế.
2.2. Đo lường chất lượng thể chế
Cho đến giữa những năm 1990, hầu hết các nghiên cứu về thể chế được viết
mà không có số liệu thích hợp vì vào thời điểm đó các yếu tố về thể chế được coi là
không thể đo lường được. Barro (1991) đã sử dụng các biểu hiện liên quan đến bất
ổn chính trị như những cuộc đảo chính, ám sát chính trị và các cuộc cách mạng để
đại diện cho mối đe dọa đối với an ninh của chính phủ cầm quyền. Kaufmann
(2003) thực hiện một nghiên cứu, trong đó, ông đã sử dụng tỷ lệ phần trăm số lượng
tù nhân trên tổng dân số trong nỗ lực đo lường chất lượng các quy chế, quy định của
pháp luật.
Hiện nay, đã có nhiều chỉ số để đo lường chất lượng thể chế được công bố
trên giới giới, ví dụ như: bộ chỉ số CPIA – đánh giá về thể chế và chính sách quốc
gia, CPI – chỉ số nhận thức tham nhũng, GII – chỉ số liêm chính toàn cầu, PEFA –
Chi tiêu công và Trách nhiệm giải trình tài chính, bộ chỉ số WGI – chỉ số quản trị

toàn cầu hay bộ dữ liệu về thể chế được công bố bởi Tổ chức hướng dẫn quốc tế về
rủi ro quốc gia (ICRG).
Tương tự với phương pháp tiếp cận của Kaufmann và Kraay (2002) về
đường tham chiếu quốc tế về thể chế và các bài nghiên cứu sau đó được thực hiện
theo cách tiếp cận này, bài nghiên cứu này sử dụng bộ chỉ số WGI để đo lường chất
lượng thể chế nhằm kiểm tra tác động của thể chế đối với tăng trưởng kinh tế. Chỉ
số Quản trị toàn cầu (WGI) được xây dựng và phát triển bởi Kaufmann, Kraay và
Mastruzzi (2003, 2009); và được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố hằng năm. Số
liệu bao gồm 215 quốc gia từ năm 1996 trên sáu khía cạnh quản trị quốc gia và có


9

thang đo từ -2,5 (chất lượng thấp nhất) đến 2,5 (chất lượng cao nhất). 6 khía cạnh
bao gồm:
+ Tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA), được đo lường theo mức độ công
dân của một quốc gia có thể tham gia lựa chọn chính phủ của họ, cũng như quyền tự
do ngôn luận, báo chí và tham gia các hiệp hội.
+ Ổn định chính trị và không có bạo lực (PSNV), được đo bằng khả năng
chính phủ có thể bị bất ổn bởi các hành vi vi phạm hoặc bạo lực, bao gồm cả chủ
nghĩa khủng bố;
+ Hiệu quả của chính phủ (GE), được đo lường bởi chất lượng của các dịch
vụ công, năng lực của dịch vụ dân sự cùng với sự độc lập của nó từ những áp lực về
chính trị, và chất lượng của việc xây dựng chính sách;
+ Nhà nước pháp quyền (RL), được đo lường theo mức độ đáng tin cậy của
các cơ quan nhà nước và việc tuân thủ các quy tắc của xã hội, bao gồm chất lượng
quyền sở hữu, cảnh sát và tòa án, cũng như nguy cơ tội phạm;
+ Chất lượng quy định (RQ), được đo lường bởi khả năng của chính phủ để
cung cấp các chính sách và quy định giúp cho phép và thúc đẩy phát triển khu vực
tư nhân;

+ Kiểm soát tham nhũng (CC), được đo lường theo mức độ quyền lực nhà
nước bị lợi dụng để đạt được những mục đích cá nhân, bao gồm cả hình thức tham
nhũng nhỏ và lớn.
Mặc dù được sử dụng phổ biến và ứng dụng rộng rãi trong các nghiên cứu
thực nghiệm, các chỉ số quản trị quốc gia dựa trên quan điểm chủ quan đã phải chịu
nhiều phê bình khác nhau, với nhiều khuyến nghị cho rằng hãy sử dụng các chỉ số
này một cách thận trọng hơn. Do sự ảnh hưởng rộng lớn của chúng, các chỉ số WGI
đã dễ dàng bị xem xét một cách kỹ lưỡng. Kaufmann và Kraay (2008); Kaufmann,
Kraay và Mastruzzi (2009) đã thừa nhận rằng, việc đo lường chất lượng quản trị
quốc gia là khó khăn và các chỉ số quản trị có thể là không chính xác, các tác giả


10

tóm tắt những phê bình chính về những vấn đề liên quan đến bộ chỉ số này, bao
gồm: (i) yếu tố liên quan đến sự so sánh theo thời gian và giữa các quốc gia, (ii) các
thành kiến trong đánh giá của chuyên gia, (iii) các lỗi nhận thức tương quan, (iv)
các vấn đề về định nghĩa và (v) dựa vào dữ liệu “chủ quan”.
2.3. Khảo lược các nghiên cứu cùng chủ đề
Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa
chất lượng thể chế và phát triển kinh tế. Mauro (1995) cho thấy, tham nhũng làm
giảm đầu tư tư nhân và tăng trưởng kinh tế. Knack và Keefer (1995) cung cấp bằng
chứng cho thấy mức thu nhập thấp hơn có thể được mong đợi trong các nền kinh tế
trong đó những quyết định chính sách kinh tế và đầu tư công không hiệu quả và
quyền tài sản không được bảo vệ. La Porta và cộng sự (1999) công nhận vai trò
quan trọng của các thể chế cũng như lịch sử chính trị đối với hiệu quả kinh tế. Hall
và Jones (1999) xem xét một bộ dữ liệu của 127 quốc gia và cho thấy rằng các
chính sách của chính phủ xác định hiệu suất kinh tế lâu dài của đất nước.
Acemoglu, Johnson và Robinson (2002) cho rằng việc mở rộng lãnh thổ của các
quốc gia châu Âu ra nước ngoài từ thế kỷ 15 đã tạo ra một “sự đảo ngược thể chế”

giữa các xã hội thuộc địa; những can thiệp này khuyến khích đầu tư vào những
vùng, quốc gia nghèo hơn. Engerman và cộng sự (2002) thảo luận rằng, những
thành kiến trong các con đường phát triển thể chế giải thích sự bất bình đẳng lâu dài
ở châu Mỹ Latinh và châu Phi. Wilson (2016) phân tích dữ liệu cấp tỉnh từ thời kỳ
cải cách sau Mao Trạch Đông ở Trung Quốc và cho thấy mối quan hệ nhân quả tích
cực giữa tăng trưởng kinh tế và quản trị quốc gia, cho rằng chính quyền tỉnh có thể
sử dụng tiềm năng tạo ra bởi tăng trưởng kinh tế để cải thiện quản trị. D’Agostino
và cộng sự (2016) cung cấp bằng chứng từ bộ dữ liệu của 106 quốc gia cho rằng, sự
tương tác giữa đầu tư và tham nhũng cũng như giữa chi tiêu quân sự và tham nhũng
có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế.
Các bài nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu WGI để kiểm tra mối quan hệ giữa
quản trị quốc gia và tăng trưởng kinh tế cũng khá phổ biến. Meisel và Aoudia
(2008), sử dụng WGI để kiểm chứng mối quan hệ giữa chất lượng thể chế với GDP


11

bình quân đầu người và hiệu quả của chính phủ cho 85 quốc gia. Tebaldi và Mohan
(2010) sử dụng tám chỉ số về thể chế, bao gồm sáu chỉ số của WGI cho thấy rằng,
một nền kinh tế với một chính phủ hiệu quả, kiểm soát tham nhũng tốt và hệ thống
chính trị ổn định sẽ thúc đẩy một môi trường thuận lợi để tăng trưởng kinh tế cao
hơn và giảm khoảng cách về thu nhập và nghèo đói. Alonso (2011) sử dụng các
biến WGI trong mô hình chiết trung xem xét vai trò của chất lượng thể chế, địa lý,
thương mại quốc tế và vốn con người như các yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế
và khẳng định vai trò quan trọng của các thể chế đến tăng trưởng dài hạn. Gần đây
hơn, Law và cộng sự (2013) sử dụng hai bộ dữ liệu khác nhau - cơ sở dữ liệu của
WGI và cơ sở dữ liệu của Tổ chức hướng dẫn quốc tề về rủi ro quốc gia (ICRG), để
nghiên cứu hiệu ứng ngưỡng cho mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng
trưởng tài chính. Mặc dù các giá trị ngưỡng cho ra những giá trị khác nhau do các
thang đo khác nhau của các cơ sở dữ liệu, nhưng kết quả chung là khá giống nhau,

đó là một dấu hiệu mạnh mẽ cho thấy cơ sở dữ liệu WGI cung cấp một thước đo tốt
về chất lượng thể chế.
Các nghiên cứu sử dụng đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia để
kiểm tra mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và tăng trưởng kinh tế tuy còn khá
hạn chế nhưng cũng đã có những sự hoàn thiện qua thời gian. Kaufmann và Kraay
(2002) đã sử dụng đường tham chiếu từ 175 nước trong năm 2000–2001 để chia 26
quốc gia Mỹ Latinh và Caribê thành 2 nhóm thặng dư và thâm hụt về thể chế với cả
6 chỉ số WGI. Tiếp đó, tác giả sử dụng ước lượng OLS và IV cho thấy các quốc gia
thặng dư về thể chế có hiệu quả tăng trưởng kinh tế tốt hơn các quốc gia thâm hụt
về thể chế. Radelet và Steve (2004) đã thực hiện một nghiên cứu tương tự cho các
quốc gia châu Phi bằng đường tham chiếu từ 159 quốc gia trong năm 2001–2002,
nhưng kết quả lại cho thấy chất lượng quản trị quốc gia không tác động đến tăng
trưởng kinh tế trong khu vực này. Qua đường tham chiếu được xây dựng từ 151
quốc gia trong năm 2003, Quibria (2006) đã chia 29 quốc gia châu Á – Thái Bình
Dương thành 2 nhóm. Kết quả dù cho thấy chất lượng thể chế có tác động đến hiệu
quả kinh tế trong giai đoạn 1999–2003, nhưng các nước thâm hụt về thể chế lại các


12

tăng trưởng tốt hơn các nước thặng dư về thể chế. Trong bài viết này, tác giả sử
dụng trung bình cộng 6 chỉ số WGI làm giá trị đo lường thể chế của các quốc gia.
Gần đây hơn, Zhuang và cộng sự (2010) sử dụng dữ liệu từ 169 quốc gia
trong năm 1998 để chia 36 quốc gia châu Á – Thái Bình Dương thành 2 nhóm cho
từng chỉ số WGI. Kết quả về hiệu quả kinh tế được đo lường trong giai đoạn 1998–
2008 cho thấy, các quốc gia thặng dư tương ứng với chỉ số quản trị quốc gia GE,
RL và RQ có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn các quốc gia thâm hụt. Bên cạnh đó, các
chỉ số VA, PSNV và CC lại không chỉ ra mối quan hệ giữa chất lượng thể chế và
tăng trưởng kinh tế. Trong một nghiên cứu được ADB công bố năm 2014, Han và
cộng sự đã chia 215 quốc gia thành 6 nhóm (châu Á – Thái Bình Dương; các nước

OECD; châu Phi hạ Sahara; Trung Đông – Bắc Phi; châu Mỹ Latinh và Caribê; và
châu Âu có mức thu nhập trung bình), với từng chỉ số WGI, nhóm tác giả sử dụng
đường tham chiếu quốc tế về quản trị quốc gia để chia từng nhóm quốc gia theo khu
vực (6 nhóm) thành 3 nhóm (thặng dư, thâm hụt và không thăng dư hay thâm hụt)
tại năm 1998. Hiệu suất kinh tế trung bình được đo lường trong giai đoạn 1998–
2011 cho thấy rằng, các chỉ số VA, GE, RQ, CC ở khu vực châu Á – Thái Bình
Dương; PSNV, GE, CC ở khu vực Trung Đông – Bắc Phi; và PSNV ở nhóm các
nước OECD có tác động đến tăng trưởng ở các nhóm khu vực này.


13

CHƯƠNG 3: DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu sử dụng trong bài viết được thu thập từ 186 quốc gia trên thế giới,
đặc biệt là 40 quốc gia thuộc châu Á – Thái Bình Dương trong giai đoạn từ năm
2010 – 2016. Bao gồm các biến:
+ GDPg: tốc độ tăng trưởng GDP hằng năm (%)
+ lnGDPpc: logarit tự nhiên thu nhập bình quân đầu người (USD);
+ VA: tiếng nói và trách nhiệm giải trình;
+ PSNV: ổn định chính trị và không có bạo lực;
+ GE: hiệu quả của chính phủ;
+ RL: nhà nước pháp quyền;
+ RQ: chất lượng quy định;
+ CC: kiểm soát tham nhũng.
Số liệu của biến GDPg và lnGDPpc là giá trị ngang giá sức mua theo giá cố
định năm 2011 (PPP constant 2011) được thu thập từ cơ sở dữ liệu World
Development Indicators – WDI của Worldbank. Còn các biến về thể chế VA,
PSNV, GE, RL, RQ và CC có thang đo từ -2,5 (chất lượng thất nhất) đến 2,5 (chất
lượng cao nhất) được thu thập từ cơ sở dữ liệu World Governance Indicators - WGI

cũng của Worldbank.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của bài viết được xây dựng dựa trên khung lý
thuyết về thể chế của North (1990), bài nghiên cứu của Kaufmann và Kraay (2002)
về đường tham chiếu quốc tế về thể chế và các bài nghiên cứu khác có liên quan.
Theo đó, bằng việc thực hiện một hồi quy OLS đơn giản cho hai biến (chỉ số
chất lượng thể chế và logarit tự nhiên thu nhập bình quân đầu người) ứng với tất cả
các quốc gia được chọn và tại một năm t nhất định, đường tham chiếu quốc tế về


14

quản trị quốc gia (đường hồi quy) được vẽ ra dựa trên kết quả hồi quy. Từ đó, bài
viết chia các quốc gia thành ba nhóm: thặng dư, thâm hụt và không thặng dư hay
thâm hụt về thể chế. Trong đó, một quốc gia được phân loại là thặng dư về thể chế
nếu điểm giá trị ước lượng của quốc gia này nằm phía trên đường tham chiếu và
ngược lại, một quốc gia được phân loại là thâm hụt về thể chế nếu điểm giá trị ước
lượng của quốc gia đó nằm phía dưới đường tham chiếu được đo lường. Trong khi
đó, một quốc gia được xác định là không thặng dư hay thâm hụt về thể chế nếu
điểm giá trị ước lượng của quốc gia này nằm sát đường tham chiếu (giải pháp này
được Han và cộng sự, 2014 thực hiện để hạn chế sự dịch chuyển của một quốc gia
từ nhóm thặng dư sang thâm hụt hoặc ngược lại trong quãng thời gian nghiên cứu).
Sau đó, hiệu suất tăng trưởng kinh tế trung bình được xác định trong một quãng thời
gian kể từ năm t để kiểm tra xem giá trị chất lượng thể chế ban đầu có ảnh hưởng
đến tăng trưởng kinh tế những năm tiếp theo hay không.
Cụ thể, các bước để thực hiện bài nghiên cứu bao gồm:
Bước 1: Trước tiên, để có thể so sánh giữa khu vực châu Á – Thái Bình
Dương với các khu vực khác trên thế giới, bài viết sẽ chia các quốc gia trên thế giới
thành 6 nhóm (châu Á – Thái Bình Dương; các nước OECD; châu Phi hạ Sahara;
Trung Đông – Bắc Phi; châu Mỹ Latinh và Caribê; và châu Âu có mức thu nhập

trung bình) theo Han và cộng sự (2014).
Bước 2: Chia từng nhóm quốc gia theo khu vực (6 nhóm) thành 3 nhóm
(thặng dư, thâm hụt và không thặng dư hay thâm hụt) bằng đường tham chiếu quốc
tế về quản trị quốc gia cho từng chỉ số WGI tại năm 2010 được xác định qua
phương trình hồi quy:

Gi = β0 + β1lnGDPpc + εi

(1)

Trong đó: i là quốc gia, ε là sai số;
G là đại diện cho từng chỉ số chất lượng thể thế.


15

Bước 3: Xác định giá trị chất lượng thể chế trung bình (WGItb) và hiệu suất
tăng trưởng kinh tế trung bình (GDPgtb) cho 2 nhóm (thặng dư, thâm hụt) và theo
từng khu vực bằng cách lấy trung bình cộng hằng năm với trọng số bằng nhau trong
giai đoạn 2010 – 2016.
Bước 4: Kiểm định tác động của chất lượng thể chế lên tăng trưởng kinh tế
cho mỗi nhóm (thặng dư, thâm hụt) và theo từng nhóm quốc gia (6 nhóm) bằng
phương trình hồi quy:
GDPgit = β0 + β1lnGDPpc + β2G + пit

(2)

Trong đó: i là quốc gia, t là năm và п là sai số.
Bằng việc sử dụng kỹ thuật ước lượng GMM cho mô hình biến công cụ (IV),
với biến công cụ chính là các chỉ số WGI, chúng ta xem xét độ tin cậy của các biến

và đưa ra kết luận về kết quả có được từ việc tính toán GDPtb trong bước 3.
Bước 5: So sánh kết quả về tác động của chất lượng thể chế lên tăng trưởng
kinh tế giữa khu vực châu Á – Thái Bình Dương và các khu vực còn lại trên thế giới.


16

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Như được trình bày trong Phần 3, bài nghiên cứu đã thực hiện theo 5 bước và
có kết quả như sau:
4.1. Kết quả bước 1
Bài viết chia 186 quốc gia trên thế giới thành 6 nhóm:
+ Nhóm 1: các quốc gia châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm 40 quốc gia.
Trong đó, Nhật Bản và Hàn Quốc dù có vị trí địa lý thuộc khu vực này nhưng được
xếp vào các nước OECD theo danh sách được tổ chức này công bố;
+ Nhóm 2: các quốc gia OECD, bao gồm 35 quốc gia;
+ Nhóm 3: các quốc gia châu Phi hạ Sahara, bao gồm 45 quốc gia;
+ Nhóm 4: các quốc gia Trung Đông – Bắc Phi, bao gồm 16 quốc gia;
+ Nhóm 5: các quốc gia châu Mỹ Latinh và Caribê, bao gồm 31 quốc gia;
+ Nhóm 6: các quốc gia châu Âu có mức thu nhập trung bình, bao gồm 19
quốc gia.
(Bảng tổng hợp chi tiết các quốc gia thuộc mỗi nhóm quốc gia được trình
bày trong Phụ lục 1)
4.2. Kết quả bước 2
Để tiến hành chia các quốc gia thành 3 nhóm (thặng dư, thâm hụt và không
thặng dư hay thâm hụt), bài nghiên cứu tiến hành ước lượng phương trình (1).
Bảng 1: Kết quả ước lượng phương trình (1)
G

Kết quả ước lượng


R2

R2 hiệu
chỉnh

Số quan
sát

VA

Gi = -3,404 + 0,372xlnGDPpc
(0,00) (0,00)

0,324

0,32

186

PSNV

Gi = -3,814 + 0,412xlnGDPpc
(0,00) (0,00)

0,368

0,364

186



17

GE

Gi = -5,729 + 0,626xlnGDPpc
(0,00) (0,00)

0,711

0,709

186

RL

Gi = -5,302 + 0,577xlnGDPpc
(0,00) (0,00)

0,618

0,616

186

RQ

Gi = -5,257 + 0,575xlnGDPpc
(0,00) (0,00)


0,649

0,646

186

CC

Gi = -5,157 + 0,562xlnGDPpc
(0,00) (0,00)

0,571

0,569

186

Số liệu trong ngoặc đơn ( ) là giá trị p-value của ước lượng
(Nguồn: Tính toán của tác giả bằng phần mềm Stata)
Bảng 1 cho thấy kết quả ước lượng đường tham chiếu quốc tế về quản trị
quốc gia cho mỗi chỉ số WGI. Tất cả các phương trình cho từng chỉ số đều có kết
quả thống kê khá tốt, với R2 và R2 hiệu chỉnh lần lượt dao động từ 0,324 và 0,32
ứng với biến tiếng nói và trách nhiệm giải trình (VA) đến 0,711 và 0,709 ứng với
biến hiệu quả chính phủ (GE). Bên cạnh đó, hệ số tương quan của biến lnGDPpc là
dương, dao động từ 0,372 đến 0,626 và có nghĩa thống kê. Điều này cho thấy mức
thu nhập bình quân đầu người có thể giải thích được các biến về chất lượng thể chế.
Biểu đồ 1 biểu thị đường tham chiếu quốc tế về thể chế cho mỗi chỉ số WGI.
Các đường tham chiếu được vẽ dựa trên kết quả ước lượng phương trình (1) (đã được
tổng hợp trong Bảng 1) bằng phần mềm Stata. Một quốc gia được phân loại là thặng

dư về thể chế (nhóm A) nếu điểm giá trị ước lượng của quốc gia này nằm phía trên
đường tham chiếu và một quốc gia được phân loại là thâm hụt về thể chế (nhóm B)
nếu điểm giá trị ước lượng của quốc gia đó nằm phía dưới đường tham chiếu được đo
lường. Đặc biệt, để hạn chế sự dịch chuyển của một quốc gia từ nhóm thặng dư sang
thâm hụt hoặc ngược lại trong quãng thời gian nghiên cứu, bài viết đã loại bỏ các
quốc gia có điểm giá trị ước lượng nằm sát đường tham chiếu để hình thành (nhóm
C) bao gồm các quốc gia không thặng dư hay thâm hụt về thể chế.


×