Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.87 KB, 78 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam đang trên con đường đổi mới phát triển và đi lên, chúng
ta đã dần dần khẳng định vị trí của mình trên nhiều lĩnh vực, kinh tế, xã hội, chính
trị và văn hoá. Bây giờ mỗi khi nhắc đến Việt Nam bạn bè quốc tế sẽ không chỉ
nhắc đến một Việt Nam kiên cường trong chiến tranh mà họ đã còn biết thêm rằng
chúng ta có một nền chính trị ổn định, kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày
càng văn minh. Để có được những thành tựu đó chúng ta đã và đang phải rất cố
gắng trong công cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời nhờ có chính sách đổi mới,
mở cửa hội nhập kinh tế toàn cầu và sự quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà Nước
mà bộ mặt đất nước ta đang thay đổi từng ngày từng giờ. Xây dựng cơ bản là một
hoạt động mang tính chất tiền đề để tạo nên cơ sở vật chất cho quá trình tái sản
xuất sản phẩm cho xã hội, hay nó tạo ra tài sản cố định quyết định đến sức mạnh
của nền kinh tế và sức cạnh tranh của nền kinh tế đó. Cùng với xây dựng cơ bản,
lĩnh vực Bưu Chính Viễn Thông phát triển trên nền tảng tiến bộ của xã hội.Trong
những năm gần đây, các hệ thống thông tin được phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ
hết, đáp ứng được phần nào sự bùng nổ thông tin trên toàn thế giới. Nó đã đem lại
rất nhiều tiện ích cho con người và chúng ta đang từng ngày thấy được sự ảnh
hưởng của nó đến từng người, từng lĩnh vực và trong từng thời điểm.Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng quốc tế đó, các công trình viễn thông đang được
xây dựng rộng rãi trải rộng từ Nam ra Bắc.
Lĩnh vực XDCB được coi là một ngành kinh doanh đặc thù vì vậy trong một
thời gian phát triển nhu cầu có 1 chế độ kế toán phù hợp với những đặc điểm riêng
của ngành. Xuất phát từ nhu cầu cấp bách đó ngày 16/12/1998 Bộ Tài Chính đã
cho ban hành chế độ kế toán trong doanh nghiệp XDCB theo QĐ 1864/QĐ/CĐKT
ban hành “Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp” áp dụng cho doanh nghiệp xây
lắp từ 01/01/1999. Chính quyết định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực
hiện công tác kế toán ở doanh nghiệp xây lắp.
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào kế toán luôn là công cụ quản lý hữu hiệu
nhất, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin quản trị cho doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với các doanh nghiệp sản xuất thì kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính
giá thành sản phẩm là một trong những phần hành kế toán quan trọng nhất trong


hệ thống kế toán ở doanh nghiệp.Cũng giống như các ngành sản xuất khác, khi sản
xuất, doanh nghiệp xây lắp cần biết các hao phí vật chất mà doanh nghiệp đã bỏ
vào quá trình sản xuất và kết tinh vào công trình là bao nhiêu. Do vậy, việc xác
định giá thành sản phẩm xây lắp một cách kịp thời, chính xác, đầy đủ có một ý
nghĩa vô cùng to lớn trong công tác quản lý hiệu quả đồng thời đảm bảo chất
lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp. Hơn thế nữa, nó
còn góp phần tích cực vào việc sử dụng nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển bất cứ doanh nghiệp
nào cũng phải hướng tới hai mục tiêu hàng đầu:lợi nhuận và vị thế. Để đạt được
điều này, doanh nghiệp luôn phải tìm biện pháp hạ giá thành sản xuất cho phù hợp
với nhu cầu của thị trường. Thêm vào đó để tính giá thành một cách chính xác,
doanh nghiệp cần phải hiểu rõ chi phí sản xuất và tìm cách tiết kiệm chi phí. Xuất
phát từ ý nghĩa thiết thực của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm mà sau một thời gian thực tập tại công ty cổ phần xây lắp Bưu
Điện với mong muốn tìm hiều về tình hình thực tế và làm nền tảng cho công việc
của em sau này, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tổ chức kế toán tập hợp chi phí
sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện”
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Trong luận văn tốt nghiệp của mình em xin trình bày thành 3 chương như
sau:
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán tập hợp chi phí sản xuất
và tính giá thành sản phẩm ở doanh nghiệp xây lắp.
Chương II: Tình hình thực tế và công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và
tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây lắp Bưu Điện.
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác kế toán tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp ở công ty cổ phần xây lắp
Bưu Điện.
Trong khoảng thời gian gần 2 tháng qua, mặc dù đã được các cô, chú, anh,
chị tại phòng tài chính kế toán của công ty tạo điều kiện trong việc tìm hiểu và học
hỏi về hoạt động công ty cùng với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo hướng dẫn

nhưng thời gian thực tập có hạn nên điều kiện đi sâu tìm hiểu về đề tài còn nhiều
hạn chế. Hơn thế nữa do trình độ còn chưa đầy đủ và sâu sắc, nên dù đã rất cố
gắng luận văn tốt nghiệp của em vẫn không tránh khỏi một số thiếu sót nhất định.
Em hi vọng nhận được sự chỉ bảo của thầy cô và bạn bè, để em có thể nâng
cao hiều biết hơn và có thể vận dụng những kiến thức đó vào công việc trong
tương lai.
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp, trước tiên em xin chân thành cảm ơn
Quý thầy cô Học Viện Tài Chính, khoa Kế Toán đã tận tình giảng dạy, trang bị
cho em kiến thức trong suốt quá trình học tập tại trường từ năm 1999 đến năm
2003
Em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo Thạc sĩ Nghiêm Thị Thà đã
hướng dẫn cho em chọn đề tài và truyền đạt cho em những kiến thức quý báu để
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ nhân viên Công ty cổ phần xây lắp Bưu
Điện Hà Nội, đặc biệt là cán bộ phòng tài chính kế toán của công ty đã giúp đỡ em
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà nội, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện
TRẦN THU QUYÊN
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI
PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH
NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN
XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM Ở DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
1.1.1. Đặc điểm của ngành Xây dựng cơ bản ảnh hưởng đến công tác tổ
chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất có tính chất công nghiệp nhằm
tái sản xuất TSCĐ cho các ngành trong nền kinh tế quốc dân, tạo cơ sở vật chất kỹ

thuật cho xã hội, tăng nội lực cho nền kinh tế của đất nước.
Ngày nay, công tác xây dựng cơ bản không ngừng phát triển cả về chiều
rộng và lẫn chiều sâu, mà các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ
bản là doanh nghiệp có nguồn vốn lớn và tương đối ổn định. Thế nhưng trong cơ
chế thị trường, khi mà Nhà nước chỉ thực hiện giao quyền sử dụng vốn còn trách
nhiệm bảo toàn, phát triển vốn có hiệu quả đó là trách nhiệm của các doanh
nghiệp. Qua cơ chế mới này, các doanh nghiệp phải chủ động trong việc tổ chức
hoạt động sản xuất kinh doanh, tổ chức huy động vốn và tổ chức hạch toán phù
hợp với yêu cầu quản lý, kiểm tra của Nhà nước. Đây là khó khăn với hầu hết các
doanh nghiệp và đặc biệt là các doanh nghiệp xây lắp vì như vậy họ phải đối mặt
với việc thiếu vốn hoạt động và phải tự tìm kiếm các công trình khi mà ngân sách
và vốn cấp trên rót xuống chỉ có hạn. Biện pháp giải quyết khó khăn này đó là các
doanh nghiệp Nhà nước quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp.
Doanh nghiệp xây lắp là doanh nghiệp thuộc ngành sản xuất vật chất mang
tính chất công nghiệp nhưng đó là một ngành sản xuất công nghiệp đặc biệt. Sản
phẩm xây dựng cơ bản cũng được tiến hành sản xuất một cách liên tục, từ khâu
thăm dò, điều tra khảo sát đến thiết kế thi công và quyết toán công trình khi hoàn
thành. Sản xuất xây dựng cơ bản cũng có tính dây chuyền, giữa các khau của hoạt
động sản xuất có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, nếu một khâu ngừng trệ sẽ ảnh
hưởng đến hoạt động sản xuất của các khâu khác. Chính vì có những đặc điểm
riêng mà nó ảnh hưởng đến việc tổ chức, quản lý và hạch toán, đặc biệt đối với kế
toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm.
Ta có thể thấy những đặc điểm khác với các ngành công nghiệp khác đó là:
- Sản phẩm xây lắp không có sản phẩm nào giống sản phẩm nào, mỗi sản
phẩm có yêu cầu về mặt thiết kế mỹ thuật, kết cấu, hình thức, địa điểm xây dựng
TRẦN THU QUYÊN 4 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
khác nhau. Do vậy, mỗi sản phẩm xây lắp đều có yêu cầu tổ chức quản lý, tổ chức
thi công và biện pháp thi công phù hợp với đặc điểm của từng công trình cụ thể, có
như vậy việc sản xuất thi công mới mang lại hiệu quả cao và bảo đảm cho sản xuất

được liên tục.
Do sản phẩm xây lắp có tính đơn chiếc và được sản xuất theo đơn đặt hàng
nên chi phí bỏ vào sản xuất thi công cũng hoàn toàn khác nhau giữa các công
trình,kể cả khi công trình thi công theo thiết kế mẫu nhưng được xây dựng ở
những địa điểm khác nhau. Vì thế tập hợp các chi phí sản xuất, tính giá thành sản
phẩm cũng được tính cho từng sản phẩm xây lắp riêng biệt.Thông thường, đối
tượng tập hợp chi phí và tính giá thành là các công trình, hạng mục công trình .
- Sản phẩm xây lắp thường có qui mô lớn cả về kích thước lẫn tiền vốn, thời
gian thi công rất dài, có công trình phải xây dựng hàng chục năm mới xong. Trong
thời gian thi công chưa tạo ra sản phẩm nhưng lại sử dụng nhiều vật tư tiền vốn.
Do đó, khi lập kế hoạch xây dựng cơ bản cần cân nhắc, thận trọng theo dõi chặt
chẽ quá trình thi công, đảm bảo sử dụng vốn tiết kiệm, bảo đảm chất lượng công
trình. Do thời gian thi công dài các doanh nghiệp xây lắp và chủ đầu tư không thể
chờ đến khi xây dựng xong mới tính toán và thanh toán. Chính vì thế,căn cứ vào
dự toán, tiến độ thi công và biên bản bàn giao khối lượng xây lắp hoàn thành, bên
A (chủ đằu tư) sẽ thanh toán cho bên B (bên nhận thi công).
Các công trình xây lắp thường có thời gian sử dụng dài nên mọi sai lầm
trong quá trình thi công thường khó sửa chữa phải phá đi làm lại. Sai lầm trong
XDCB vừa gây lãng phí vừa để lại hậu quả có khi rất nghiêm trọng, lâu dài và khó
khắc phục. Do đặc điểm này mà trong quá trình thi công cần phải thường xuyên
kiểm tra giám sát chất lượng công trình, tránh phát sinh thêm chi phí ngoài dự
toán.
- Sản phẩm xây lắp được sử dụng tại chỗ, địa điểm xây dựng luôn thay đổi
theo địa bàn thi công. Nó chịu tác động của nơi xây dựng công trình về các mặt
như giá vật liệu tại chân công trình, giá nhân công,... Mặt khác việc xây dựng còn
chịu tác động của địa chất, thuỷ văn, kết hợp với các yêu cầu về phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội trước mắt cũng như lâu dài. Khi công trình hoàn thành, điều đó có
nghĩa người công nhân sẽ không còn việc gì ở đó nữa, phải chuyển đến thi công ở
một công trình khác. Do đó sẽ phát sinh các chi phí như điều động công nhân, máy
móc thi công, chi phí xây dựng tạm thời cho công nhân và cho máy móc thi công.

Đặc điểm này khiến cho các đơn vị xây lắp thường sử dụng lực lượng lao động
thuê ngoài tại chỗ nơi thi công công trình để giảm bớt các chi phí khi di dời.
- Sản phẩm của ngành xây lắp hoàn thành không nhập kho mà thường được
tiêu thụ trước khi tiến hành sản xuất theo giá dự toán hoặc giá thoả thuận với chủ
đầu tư. Do đó tính chất hành hoá của sản phẩm thể hiện không rõ. Giá thành công
TRẦN THU QUYÊN 5 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị bản thân thiết bị do chủ đầu tư đưa vào
để lắp đặt mà chỉ bao gồm những chi phí do doanh nghiệp xây lắp bỏ ra có liên
quan đến xây lắp công trình. Bao gồm giá trị vật kết cấu, giá trị thiết bị: ống nhựa,
ống sắt, xi măng,sắt, thép, nắp đan, cột,...
Trong nền kinh tế thị trường,lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng
phương pháp đấu thầu và đây thực sự là vấn đề cạnh tranh gay gắt giữa các doanh
nghiệp. Vì vậy, để trúng thầu các doanh nghiệp xây lắp phải xây dựng được giá
tham gia đấu thầu vừa hợp lý trên cơ sở các định mức, đơn giá xây dựng cơ bản do
Nhà nước ban hành, vừa phải xem xét đến giá mang tính cạnh tranh dựa trên cơ sở
giá cả thị trường và khả năng của doanh nghiệp về tổ chức quản lý, tiến độ thi
công. Đặc biệt là việc phấn đấu hạ chi phí đảm bảo việc nếu nhận thi công công
trình phải có lãi. Chính vì cạnh tranh quá mạnh mẽ như thế, khiến cho một số
doanh nghiệp xây lắp đã xây dựng giá nhận thầu thấp, để thắng thầu hoặc là cắt
bớt chi phí trong quá trình thi công. Đây thực sự là một biểu hiện sai trái mà các
cấp, các ngành, các đơn vị chủ đầu tư và các doanh nghiệp xây lắp cần phải lựa
chọn kỹ các đơn vị đấu thầu, và kiểm tra giám sát chặt chẽ trong quá trình thi
công.
Qua các đặc điểm trên đòi hỏi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp xây lắp phải tổ chức quản lý chặt chẽ các yếu tố đầu vào đồng thời
phải tổ chức công tác kế toán phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh và yêu
cầu quản lý. Đặc biệt đối với công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm phải tính đúng, tính đủ chi phí, phải xác đinh chính xác giá thành
sản phẩm xây lắp hoàn thành, từ đó cung cấp thông tin tài liệu cần thiết để phân

tích tình hình thực hiện dự toán giá thành sản phẩm, đáp ứng nhu cầu quản lý và
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Yêu cầu quản lý, vai trò và nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất
và giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.1.2.1. Yêu cầu quản lý và vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Sự ra đời và quá trình phát triển của kế toán gắn liền với sự ra đời và phát
triển sản xuất của cải vật chất của xã hội. Nền sản xuất của xã hội càng phát triển
thì kế toán càng trở nên quan trọng. Với chức năng thu thập, xử lý, cung cấp thông
tin về tình hình tài sản, tình hình hoạt động kinh tế tài chính của doanh nghiệp, kế
toán trở thành công cụ quản lý kinh tế hữu hiệu. Trong nền kinh tế thị trường, kế
toán được coi như “nghệ thuật ghi chép, phân loại và tổng hợp” (theo khái niệm về
kế toán của Liên đoàn kế toán quốc tế), hay “kế toán là ngôn ngữ của việc kinh
doanh” (theo Giáo sư, tiến sĩ Robert Anthony - Đại học Harvard). Kế toán là công
cụ hạch toán chính xác các chi phí sản xuất thông qua tổ chức ghi chép, tính toán,
TRẦN THU QUYÊN 6 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục chi phí đã chi ra cho quá trình sản
xuất. Trong khi đó chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là những chỉ tiêu kinh tế
quan trọng luôn được các nhà quản lý quan tâm, vì chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm là những chỉ tiêu phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Vì thế mà kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có vị trí quan
trọng, đóng vai trò trung gian trong toàn bộ công tác kế toán doanh nghiệp, và có ý
nghĩa quyết định trong việc quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm.
Nhờ kế toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có thể nhanh chóng, kịp
thời, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp có thể nắm được
tình hình thực hiện các định mức về chi phí vật tư, lao động tiền vốn ở từng đơn
vị, từng công trình và từ đó có thể thực hiện công tác quản lý việc hoàn thành
nhiệm vụ hạ giá thành, đồng thời có thông tin để đánh giá mức độ ảnh hưởng của

từng nhân tố đến nhiệm vụ hạ giá thành sản phẩm. Đây là những thông tin hết sức
quan trọngđối với công tác chỉ đạo và phân tích đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh. Đồng thời trên cơ sở đó khai thác thế mạnh, tiềm năng để khắc phục những
mặt yếu kém, nâng cao năng suất lao động, hạ bớt chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm.
Chính vì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn là các chỉ tiêu kinh tế
quan trọng, phản ánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh được các nhà quản
lý hết sức quan tâm, nên công tác tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm luôn là nội dung cơ bản, trọng tâm của toàn bộ tổ chức công tác kế toán
trong doanh nghiệp và nó giữ những vai trò rất quan trọng:
- Kế toán chi phí sản xuất kinh doanh và tính giá thành sản phẩm cung cấp
thông tin về tình hình chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm giúp các
nhà quản lý kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ và kiểm soát việc sử dụng chi phí nhằm
nâng cao hiệu quả của chi phí, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực trong quản lý.
- Kế toán giúp các nhà quản lý nắm được chi phí sản xuất kinh doanh và giá
thành thực tế của từng loại sản phẩm, từng công trình, từng hoạt động và của từng
bộ phận để xác định chi phí cần bù đắp để thực hiện tái sản xuất, để phân tích đánh
giá tình hình thực hiện các định mức chi phí, dự toán chi phí và kế hoạch giá
thành.
- Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm còn giúp các nhà quản
lý tính toán, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2. Nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp.
TRẦN THU QUYÊN 7 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Để phát huy vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong các doanh nghiệp xây lắp, tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Căn cứ vào đặc điểm quy trình công nghệ, đặc điểm tổ chức sản xuất của
doanh nghiệp để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính

giá thành đúng đắn và phù hợp.
- Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng
tập hợp chi phí sản xuất đã xác định và bằng phương pháp thích hợp đã chọn, cung
cấp kịp thời những số liệu, thông tin tổng hợp về các khoản mục chi phí và yếu tố
chi phí quy định .
- Xác định phương pháp kế toán và quy nạp các chi phí vào các đối tượng
một cách thích ứng với đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng
yêu cầu kiểm soát tập hợp chi phí và kiểm tra các dự toán, các định mức chi phí .
- Lựa chọn phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang, phương pháp tính giá
thành sản phẩm đảm bảo tính đúng, tính đủ giá thành sản phẩm hoàn thành.
- Định kỳ cung cấp báo cáo về chi phí sản xuất và giá thành cho lãnh đạo
doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện các kế hoạch giá thành,
phát hiện kịp thời các khả năng tiềm tàng đề xuất biện pháp thích hợp để phấn đấu
không ngừng tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm.
* Sự cần thiết tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp xây lắp:
Ngày nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ yếu áp dụng phương thức
đấu thầu xây dựng. Chính vì thế mà các sản phẩm xây lắp thường được xác định
giá trị ngay từ đầu. Vậy công việc xác định giá trị xây lắp để có thể tiến hành tham
dự đấu thầu, doanh nghiệp xây lắp phải tiến hành tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Thêm vào đó trong quá trình thi công do đặc điểm của các sản phẩm xây lắp
có khối lượng lớn, chi phí phát sinh liên quan đến nhiều, có tính đơn chiếc chính vì
thế mà cần thiết phải tiến hành theo dõi tập hợp chi phí sau đó tính giá thành sản
phẩm để có thể so sánh được với giá trị xây lắp đã được dự toán từ đầu.
Chính vì thế phải khẳng định rằng, trong doanh nghiệp xây lắp thì việc tập
hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hết sức cần thiết giúp cho lãnh
đạo công ty có thể bám sát tình hình thực tế để đưa ra được các quyết định nhanh
chóng phù hợp và đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản
phẩm mà các sản phẩm đó vẫn đảm bảo chất lượng nâng cao uy tín của doanh
nghiệp trong xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra như vũ bão

1.2. CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG
DOANH NGHIỆP XÂY LẮP.
TRẦN THU QUYÊN 8 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
1.2.1. Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.1.1. Khái niệm, bản chất kinh tế của chi phí sản xuất trong doanh
nghiệp xây lắp.
Quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây lắp là quá trình biến
đổi các yếu tố về tư liệu sản xuất, đối tượng lao động (biểu hiện cụ thể là các hao
phí về lao động vật hoá) với sự tác động có mục đích của sức lao động (biểu hiện
là hao phí về lao động sống) sẽ trở thành các sản phẩm, công trình... Qua quá trình
sản xuất sản phẩm xây lắp cũng là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố
đó. Chính vì vậy, sự hình thành nên các chi phí sản xuất để tạo nên giá trị sản
phẩm xây lắp là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
người sản xuất.
Như vậy, ta có thể hiểu chi phí sản xuất kinh doanh trong xây dựng cơ bản
là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá
mà doanh nghiệp xây lắp đã bỏ ra trong quá trình sản xuất, thi công và bàn giao
sản phẩm xây lắp trong một kỳ nhất định. Trong đó chi phí về lao động sống gồm:
Chi phí tiền lương, trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi
phí về lao động vật hoá gồm: chi phí nguyên nhiên vật liệu, chi phí khấu hao tài
sản cố định,...
Tuy nhiên trên góc độ quản lý khác nhau sẽ có các cách thể hiện, cách hiểu
khác nhau về chi phí sản xuất:
- Đối với nhà quản trị doanh nghiệp: Chi phí sản xuất kinh doanh là tổng số
tiền phải bỏ ra để mua các yếu tố cần thiết tạo ra sản phẩm mang lại lợi ích kinh tế
cho doanh nghiệp.
- Đối với kế toán: chi phí sản xuất kinh doanh luôn gắn kiền với một kỳ sản
xuất kinh doanh nhất định và các chi phí đó phải là chi phí thực.
Trong doanh nghiệp xây lắp ta cần phải xem xét kỹ đâu là chi phí thực, vì

thế cần phải phân biệt hai khái niệm và chi tiêu(expenditure) và chi phí (expense).
Chi tiêu là sự hao phí vật chất tại một thời điểm tiêu dùng. Nói cách khác,
chi tiêu của doanh nghiệp trong kỳ gồm: chi tiêu mua sắm nguyên vật liệu hàng
hoá, chi tiêu cho quá trình tiêu thụ. Cụ thể hơn, đó là các khoản chi tiêu làm tăng
(giảm) tài sản này nhưng lại làm giảm (tăng) một tài sản khác, do đó không làm
cho nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên hay giảm đi.
Còn chi phí là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ lao động sống và lao động vật
hoá cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính cho một kỳ kinh doanh.
Ta thấy rằng chi phí và chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan
hệ mật thiết với nhau, trong đó chi tiêu là cơ sở của chi phí. Không có chi tiêu thì
TRẦN THU QUYÊN 9 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
không có chi phí. Chi phí và chi tiêu khác nhau về lượng, về thời giá, chẳng hạn có
những khoản mục chi tiêu kỳ này nhưng được tính chi phí cho nhiều kỳ sau (xuất
dụng cụ, công cụ dụng cụ nhưng phân bổ vào chi phí nhiều kỳ TK1421 “chi phí trả
trước”), hay có những khoản được tính vào chi phí kỳ này nhưng thực tế lại chưa
chi tiêu (TK335 “chi phí phải trả”)
Như vậy, việc phân biệt chi phí và chi tiêu không chỉ có ý nghĩa trong việc
hiểu rõ bản chất của chi phí mà còn để xác định đúng nội dung, phạm vi và
phương pháp hạch toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp.
Độ lớn của chi phí sản xuất xây lắp là một đại lượng xác định và phụ thuộc
vào 2 nhân tố chủ yếu:
- Khối lượng lao động và tư liệu sản xuất đã tiêu hao vào sản xuất trong một
thời kỳ nhất định.
- Giá cả các tư liệu sản xuất đã tiêu dùng và tiền công (tiền lương) của một
đơn vị lao động đã hao phí.
Chi phí sản xuất bao gồm nhiều khoản chi có nội dung, công dụng và mục
đích sử dụng không giống nhau. Vì vậy, để phục vụ cho công tác quản lý nói
chung và kế toán nói riêng, cần phân loại chi phí sản xuất theo tiêu thức thích
hợp .

1.2.1.2. Phân loại chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp.
Chi phí sản xuất có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ
thuộc vào yêu cầu và mục đích của công tác quản lý. Việc hạch toán chi phí sản
xuất theo từng tiêu thức sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin, là cơ sở cho việc
phấn đấu giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cường hạch toán kinh tế
trong các đơn vị xây lắp. Thông thường chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp
xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau: Biểu 01
1.2.1.2.1 Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo quan hệ đầu vào
của quá trình sản xuất kinh doanh xây lắp.
Theo tiêu thức này thì chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được
chia thành chi phí ban đầu và chi phí luân chuyển nội bộ,
Căn cứ vào tính chất kinh tế và hình thái nguyên thuỷ, chi phí ban đầy được
chia thành các yếu tố chi phí, không kể chi phí đó dùng để làm gì, phát sinh ở đâu,
đối tượng nào chịu chi phí. Các yếu tố chi phí ban đầu gồm:
TRẦN THU QUYÊN 10 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
+ Chi phí nguyên vật liệu: bao gồm các chi phí nguyên vật liệu chính, vật
liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu và thiết bị xây dựng...
+ Chi phí nhân công: là toàn bộ tiền công và các khoản phải trả khác cho
người lao động trong doanh nghiệp xây lắp.
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định: là toàn bộ chi phí khấu hao của tất cả tài
sản cố định trong doanh nghiệp.
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: là số tiền phải trả cho các dịch vụ mua ngoài
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: là các chi phí khác bằng tiền phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh ngoài các yếu tố chi phí nói trên.
Chi phí ban đầu gồm các yếu tố chi phí có nội dung kinh tế khác biệt không
thể phân chia được nữa về nội dung kinh tế. Vì vậy, mỗi yếu tố chi phí là các yếu
tố đơn nhất.
- Chi phí luân chuyển nội bộ là các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất

kinh doanh do quá trình phân công hợp tác giữa các bộ phận, các đơn vị trong nội
bộ doanh nghiệp.
Chi phí luân chuyển nội bộ phát sinh do có sự kết hợp các yếu tố đầu vào
của quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, chi phí luân chuyển nội bộ là chi phí
tổng hợp được cấu thành bởi nhiều yếu tố chi phí đơn nhất ban đầu.
Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo tiêu thức quan hệ đầu vào của
quá trình sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với quản lý vĩ mô và quản
trị doanh nghiệp.
+ Chi phí ban đầu theo yếu tố là cơ sở lập dự toán và kiểm tra việc thực hiện
các dự toán chi phí với kế hoạch cung cấp vật tư, lao động... trong doanh nghiệp
+ Là cơ sở để xác định mức tiêu hao vật chất và tính thu nhập quốc dân của
doanh nghiệp, ngành và toàn bộ nền kinh tế quôc dân.
1.2.1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ của chi phí
với các khoản mục trên báo cáo tài chính.
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi
phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
Cách phân loại này giúp các nhà quản lý doanh nghiệp xác định nguồn bù
đắp chi phí . Chi phí thời kỳ phát sinh ở thời kỳ nào được tính ngay vào kỳ đó và
ảnh hưởng đến lợi tức của kỳ mà chúng phát sinh. Còn chi phí sản phẩm chỉ phải
tính để xác định kết quả ở kỳ mà sản phẩm đó được tiêu thụ, không phải ở kỳ mà
chúng phát sinh.
1.2.1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo mối quan hệ chi
phí với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm và quá trình kinh doanh
TRẦN THU QUYÊN 11 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi
phí cơ bản và chi phí chung.
Phân loại chi phí sản xuất theo phương thức này giúp các nhà quản lý doanh
nghiẹp xác định được phương hướng và các biện pháp tiết kiệm chi phí, hạ giá
thành sản phẩm. Đối với chi phí cơ bản là các chi phí liên quan trực tiếp đến quá

trình công nghệ, thiếu chúng không thể sản xuất được sản phẩm, vì thế không thể
tiết kiệm bằng cách cắt bỏ mà phải phấn đấu hạ thấp định mức tiêu hao, cải tiến
công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, tìm kiếm vật liệu thay thế. Còn đối với chi phí
chung phải tiết kiệm, hạn chế thậm chí loại trừ các chi phí không cần thiết.
1.2.1.2.4. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo mối quan hệ giữa chi
phí với đối tượng chịu chi phí
Theo mối quan hệ giữa chi phí và đối tượng gánh chịu chi phí, chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia thành chi phí trực tiếp và chi phí gián
tiếp.
- Chi phí trực tiếp: đối với doanh nghiệp xây lắp thì chi phí trực tiếp là
những chi phí phát sinh liên quan trực tiếp đến việc sản xuất một công trình, hạng
mục công trình, một hoạt động sản xuất xây lắp hoặc một địa điểm nhất định và
hoàn toàn có thể hạch toán, quy nạp trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình,
hoạt động hay địa điểm đó.
- Chi phí gián tiếp: là chi phí phát sinh đến nhiều công trình, hạng mục công
trình, hoạt động hoặc địa điểm nhất định. Vì thế mà không thể hạch toán, quy nạp
trực tiếp được mà được tính cho các đối tượng liên quan bằng các phương pháp
phân bổ gián tiếp.
Ta cần phân biệt cặp chi phí cơ bản và chi phí chung với cặp chi phí trực
tiếp và chi phí gián tiếp. Chi phí cơ bản thường là chi phí trực tiếp nhưng chi phí
cơ bản cũng có thể là chi phí gián tiếp trong trường hợp có liên quan đến nhiều
công trình, hạng mục công trình, hoạt động xây lắp, địa điểm sản xuất ...Hay chi
phí chung là chi phí gián tiếp nhưng cũng có thể là chi phí trực tiếp nếu chi phí đó
chỉ phát sinh liên quan đến một công trình, một hạng mục công trình..
Cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh này có ý nghĩa thuần tuý với kỹ
thuật hạch toán. Đối với chi phí trực tiếp có thể căn cứ vào chứng từ gốc để tập
hợp cho từng đối tượng chịu chi phí. Đối với chi phí gián tiếp nếu có liên quan
nhiều đối tượng chịu chi phí thì bắt buộc phải áp dụng phương pháp phân bổ. Mức
độ chính xác của chi phí gián tiếp tập hợp cho từng đối tượng phụ thuộc vào tính
hợp lý và khoa học của tiêu chuẩn phân bổ chi phí. Vì vậy, các nhà quản lý doanh

nghiệp phải hết sức quan tâm đến việc lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí.
1.2.1.2.5. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp theo mối quan hệ
của chi phí với khối lượng hoạt động.
TRẦN THU QUYÊN 12 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Theo cách phân loại này chi phí được phân thành biến phí, định phí, chi phí
hỗn hợp.
Phân loại theo mối quan hệ giữa chi phí với khối lượng hoạt động có ý
nghĩa quan trọng đối với công tác quản lý của doanh nghiệp. Nó giúp các nhà quản
lý trong việc thiết kế, xây dựng các mô hình chi phí trong mối quan hệ giữa chi
phí, sản lượng và lợi nhuận, xác định điểm hoà vốn và các quyết định quan trọng
khác trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn thế nữa, cách phân loại này giúp
các nhà quản lý xác định đúng đắn phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả
chi phí sản xuất kinh doanh. Đối với biến phí cần tiết kiệm tổng chi phí và chi phí
cho mỗi đơn vị khối lượng hoạt động.Còn đối với định phí cần phấn đấu để nâng
cao hiệu lực của chi phí trong sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra các nhà quản lý còn có thể sử dụng một số thuật ngữ như: chi phí
cơ hội, chi phí chìm, chi phí chênh lệch...
1.2.2.Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp.
1.2.2.1. Khái niệm, bản chất của giá thành sản phẩm xây lắp.
Trong doanh nghiệp xây lắp ta có thể hiểu bản chất của giá thành sản phẩm
là sự chuyển dịch giá trị của các yếu tố vật chất vào giá trị sản phẩm ( công trình,
hạng mục công trình) được hoàn thành. Nếu chưa có sự chuyển dịch này thì không
thể nói đến chi phí và giá thành sản phẩm. Để đánh giá chất lượng của việc tổ chức
kinh tế sản xuất kinh doanh, chi phí sản xuất phải được xem trong mối quan hệ với
kết quả mà nó tạo ra. Đó chính là sự chuyển dịch của các yếu tố chi phí tạo nên giá
thành sản phẩm xây lắp.
Giá thành sản phẩm xây lắp là toàn bộ chi phí về lao động sống, lao động
vật hoá và các chi phí cần thiết khác biểu hiện bằng tiền mà doanh nghiệp xây lắp
phải bỏ ra để hoàn thành công trình, hạng mục công trình theo quy định.

Giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp có ý nghĩa rất quan
trọng đối với công tác quản lý của các doanh nghiệp. Vì thế mà giá thành có
những chức năng đặc thù riêng có:chức năng bù đắp chi phí, chức năng lập giá và
chức năng đòn bẩy kinh tế.
1.2.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm.
Trong sản xuất xây lắp, để công tác kế toán tính giá thành sản phẩm phù hợp
với đặc thù riêng của ngành. Đồng thời tạo điều kiện cho việc nghiên cứu, quản lý
giá thành sản phẩm chặt chẽ hơn tránh thất thoát lãng phí chi phí dẫn đến tính sai
TRẦN THU QUYÊN 13 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
giá trị công trình, hạng mục công trình, cần phải phân loại giá thành sản phẩm xây
lắp.
* Phân loại theo thời điểm và cơ sở số liệu tính giá thành sản phẩm.
- Giá thành dự toán: là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây
lắp công trình.
Sản phẩm xây lắp có giá trị lớn, thời gian thi công dài mang tính chất đơn
chiếc, do đó công trình, hạng mục công trình đều có giá trị dự toán riêng.
Giá thành dự toán đều được xác định trên cơ sở các định mức và đơn giá
quy định của Nhà nước. Giá thành dự toán được lập trước khi tiến hành xây lắp,
đó chính là giá nhận thầu của đơn vị xây lắp . Như vậy, giá thành dự toán là tổng
các chi phí dự toán, được xác định như sau:
Giá thành
dự toán
Giá trị dự toán xây lắp sau thuế
Thuế GTGT
Thu nhập chịu thuế tính trước
_
=
_
Giá trị dự toán xây lắp: là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các kết cấu

kiến trúc, lắp đặt máy móc thiết bị sản xuất.
Giá trị dự toán xây lắp sau thuế bao gồm: chi phí trực tiếp, chi phí chung và
thu nhập chịu thuế tính trước và thuế GTGT.
Thu nhập chịu thuế tính trước: là khoản thu nhập mà doanh nghiệp xây lắp
được hưởng tính vào chi phí xây lắp ngay trên bảng dự toán công trình từ khi đấu
thầu. Theo quy định, do giá trị của sản phẩm xây lắp được tính ngay từ khi tham
gia đấu thầu nên doanh nghiệp có thể xác định ngay khoản lợi nhuận định mức mà
doanh nghiệp có được khi thi công công trình.
- Giá thành kế hoạch:giá thành kế hoạch được xác định xuất phát từ những
điều kiện cụ thể ở một xí nghiệp xây lắp nhất định, trên cơ sở biện pháp thi công,
các định mức và đơn giá áp dụng trong doanh nghiệp xây lắp
Giá thành kế hoạch
Giá thành dự toán
TRẦN THU QUYÊN 14 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Mức hạ giá thành dự toán
Khoản bù chênh lệch vượt dự toán
+
=
_
Giá thành kế hoạch nhỏ hơn giá thành dự toán một lượng bằng mức hạ giá
thành dự toán và lớn hơn giá thành dự toán khoản bù chênh lệch dự toán để trang
trải các chi phí không tính đến trong dự toán. Với các doanh nghiệp không có giá
thành dự toán thì giá thành kế hoạch được xác định trên cơ sở giá thành thực tế
năm trước và các định mức kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch của sản phẩm xây lắp là mục tiêu phấn đấu của doanh
nghiệp xây lắp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế
hoạch giá thành và kế hoạch hạ giá thành. Tuy nhiên, khi tính giá thành kế hoạch,
việc quan trọng nhất là xác định đúng số tiết kiệm do hạ giá thành dự toán nhờ các
biện pháp kỹ thuật.

- Giá thành thực tế: Phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn thành bàn giao
khối lượng xây lắp mà doanh nghiệp nhận thầu. Giá thành thực tế bao gồm: chi phí
định mức, vượt định mức, và các chi phí khác (gồm những chi phí thực tế phát
sinh như mất mát, bội chi vật tư... do nguyên nhân chủ quan của bản thân doanh
nghiệp).
Giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp chỉ có thể tính toán được sau khi
hoàn thành khối lượng xây lắp nhất định. Giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp
là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong
việc tổ chức và sử dụng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật để tiến hành quá trình sản
xuất và là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp xây lắp.
* Mối quan hệ giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế:
Xuất phát từ đặc điểm xây dựng và để đáp ứng được công tác quản lý về chi
phí sản xuất và giá thành trong doanh nghiệp xây dựng, giá thành công tác xây lắp
còn được theo dõi thành: giá thành của khối lượng hoàn chỉnh và giá thành của
khối lượng hoàn thành quy ước.
TRẦN THU QUYÊN 15 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn chỉnh là giá thành của những công trình,
hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo kỹ thuật, đúng thiết kế, đúng hợp
đồng, bàn giao và đã được bên A (chủ đầu tư) nghiệm thu và chấp nhận thanh toán.
Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là giá thành của một khối
lượng công tác xây lắp đạt đến một điểm dừng kỹ thuật nhất định. Sau đó tiến
hành kiểm kê những chi phí thực tế phát sinh và điều chỉnh kịp thời ở những giai
đoạn sau khi phát hiện được nguyên nhân gây tăng giảm chi phí.
*Phân loại giá thành theo phạm vi các chi phí cấu thành.
Theo các phân loại này, chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp được chia thành
giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ.
Giá thành sản xuất của sản phẩm xây lắp chỉ bao gồm những chi phí phát
sinh liên quan đến việc xây dựng hay lắp đặt sản phẩm xây lắp như; chi phí

nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy thi
công, chi phí sản xuất chung.
Giá thành toàn bộ sản phẩm xây lắp bao gồm giá thành sản xuất sản phẩm
xây lắp cộng với các chi phí quản lý doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm xây lắp.
Theo các phân loại này giúp nhà quản lý biết được kết quả kinh doanh của
từng công trình, hạng mục công trình mà doanh nghiệp đã thực hiện. Tuy nhiên do
những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí quản lý doanh
nghiệp cho từng công trình, hạng mục công trình chỉ mang ý nghĩa nghiên cứu vì
việc phân bổ rất phức tạp do không có một tiêu thức cụ thể để tiến hành phân bổ.
1.2.2.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp.
Do đặc điểm của ngành xây dựng, sản phẩm của ngành là những công trình,
hạng mục công trình mang tính đơn chiếc. Mỗi một sản phẩm có dự toán thiết kế,
dự toán thi công riêng nên mức hao phí về vật liệu, nhân công, máy thi công cũng
không giống nhau (về mức chi phí và kết cấu chi phí). Các yếu tố lao động, thiết bị
máy móc thi công không có tính chất cố định như đối với sản xuất sản phẩm công
nghiệp.
Vì vậy, trong giá thành sản phẩm xây lắp , chi phí máy thi công cũng coi
như khoản mục chi phí trực tiếp giống như khoản mục: vật liệu, nhân công, sản
xuất chung. Và chi phí máy thi công là chi phí chỉ phát sinh ở các doanh nghiệp
xây lắp.
Như vậy, nội dung chi phí của bốn khoản mục giá thành sản phẩm xây lắp
có điểm khác với nội dung ba khoản mục chi phí: chi phí vật liệu trực tiếp, chi phí
nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Tuy nhiên, theo quyết định
TRẦN THU QUYÊN 16 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
1864/TC/CĐKT ngày 16/12/1998 của Bộ Tài Chính thì giữa 3 khoản mục chi phí
và 4 khoản mục giá thành sản phẩm xây lắp có mối quan hệ thể hiện ở biểu 1:
Hơn thế nữa giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp có quan hệ
chặt chẽ biện chứng với nhau. Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền tổng hợp
những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá trong một kỳ nhất định. Còn

giá thành sản phẩm lại tổng hợp các hao phí đó gắn liền với một khối lượng sản
phẩm xây lắp được hoàn thành, nghiệm thu và bàn giao.
Vì thế ta còn có thể xây dựng một mô hình khác tổng quát về mối quan hệ
giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm qua sơ đồ:
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm xây lắp
Chi phí sản xuât dở dang cuối kỳ
Tổng giá thành sản phẩm xây lắp
=
Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất phát sinh trongkỳ
_
TRẦN THU QUYÊN 17 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Chi phí sản xuất dở dang cuối kỳ
Trong trường hợp không có sản phẩm dở dang đầu kỳ và cuối kỳ hoặc chi
phí sản xuất dở dang đầu kỳ và cuối kỳ bằng nhau thì tổng giá thành sản phẩm
bằng tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ.
Tuy có mối quan hệ qua lại chặt chẽ, nhưng chi phí sản xuất và giá thành
sản phẩm là hai khái niệm khác nhau. Đó là: Chi phí sản xuất không những chỉ
liên quan đến khối lượng sản phẩm đã hoàn thành mà còn liên quan đến sản phẩm
dở dang cuối kỳ, sản phẩm hỏng. Còn giá thành sản phẩm không bao gồm những
chi phí cho khối lượng dở dang cuối kỳ, những chi phí không liên quan đến hoạt
động sản xuất, những chi phí chi ra nhưng chờ phân bổ kỳ tới. Nhưng nó lại bao
gồm những chi phí dở dang cuối kỳ trước chuyển sang, những chi phí trích trước
vào giá thành nhưng thực tế chưa phát sinh và những chi phí của kỳ trước chuyển
sang phân bổ cho kỳ này.
Việc nghiên cứu mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm giúp cho

công tác quản lý được dễ dàng hơn. Vì mức tiết kiệm hay lãng phí các nguồn lực
sẽ ảnh hưởng tới giá thành dẫn đến kết quả tài chính (lãi – lỗ) khi thi công công
trình. Như vậy tính giá thành sản phẩm xây lắp phải dựa vào hạch toán chi phí sản
xuất xây lắp.
1.3. PHƯƠNG PHÁP TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM XÂY LẮP.
1.3.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
1.3.1.1. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất xây lắp.
Khi chuẩn bị tiến hành một hoạt động, ta cần xác định rõ mục đích, đối
tượng của hoạt động. Vì thế mà công việc hạch toán chi phí sản xuất cần phải
được xác định rõ đối tượng của nó.
Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn mà chi phí
phát sinh được tập hợp theo đó nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm soát chi phí và tính giá
thành sản phẩm .
Giới hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là:
- Nơi phát sinh chi phí:như là tổ, đội, xưởng, các xí nghiệp, công trường xây
dựng.
TRẦN THU QUYÊN 18 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
- Nơi gánh chịu chi phí đó là công trình, hạng mục côngtrình, khối lượng
xây lắp....
Như vậy việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất thực chất
là xác định phạm vi hay giới hạn của chi phí nhằm phục vụ cho việc kiểm tra,
phân tích chi phí một cách kịp thời và chính xác cho từng đối tượng để làm tiền đề
cho việc tính giá thành sản phẩm.
Việc xác định đối tương tập hợp chi phí sản xuất phải căn cứ vào:Đặc điểm
quy trình công nghệ sản xuất như sản xuất giản đơn hay phức tạp,liên tục hay song
song; Loại hình sản xuất là đơn chiếc hay hàng loạt;Đặc điểm tổ chức sản xuất là
chuyên môn hoá theo sản phẩm mỗi đơn vị đảm nhận một khâu hay là theo đơn

đặt hàng..; và căn cứ vào yêu cầu kiểm tra, kiểm soát chi phí và yêu cầu tổ chức
hạch toán chi phí ..; đối tượng tính giá.
Do có những đặc điểm đặc thù nên đối tượng tập hợp chi phí trong các
doanh nghiệp XDCB có những điểm khác biệt so với bất cứ ngành sản xuất vật
chất nào. Đặc điểm công tác xây lắp là quy trình công nghệ sản xuất phức tạp, yêu
cầu kỹ thuật, nghiệp vụ cao, loại hình sản xuất đơn chiếc. Hơn thế nữa trong nền
kinh tế thị trường, mục đích phục vụ cho việc tính giá thành sản phẩm không phải
chỉ là để phục vụ cho việc xác định giá thành mà còn mục đích kiểm tra, kiểm soát
chi phí, đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh và thúc đẩy hạch toán kinh tế trong
doanh nghiệp. Vì thế mà đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp
xây lắp được xác định là từng công trình, từng hạng mục công trình.
1.3.1.2. Đối tượng tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc do doanh nghiệp
sản xuất ra và cần được tính giá thành và giá thành đơn vị.
Việc xác định đối tượng tính giá thành là côngviệc đầu tiên quan trọng trong
toàn bộ côngtác tính giá thành sản phẩm .Đối tượng tính giá thành có tính đa dạng
phụ thuộc vào đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp, vì thế kế toán phải căn cứ vào
các đặc điểm, tính chất sản phẩm và yêu cầu quản lý để xác định đối tượng tính giá
thành một cách thích hợp.
Trong doanh nghiệp xây lắp, do tính chất sản phẩm là đơn chiếc, mỗi sản
phẩm có lập dự toán riêng đối tượng tính giá thành thông thường là: hạng mục
công trình, công trình hoàn thành hay khối lượng công tác xây lắp hoàn thành.
Kỳ tính giá thành sản phẩm xây lắp thường được chọn là thời điểm mà công
trình, hạng mục công trình hoàn thành bàn giao. Hàng tháng kế toán tiến hành tập
hợp chi phí sản xuất theo đối tượng tính giá thành. Khi nhận được biên bản
nghiệm thu bàn giao công trình hoàn thành, kế toán mới sử dụng số liệu chi phí
sản xuất đã tập hợp theo từng đối tượng từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành để
TRẦN THU QUYÊN 19 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
tính giá thành và giá thành đơn vị nếu có. Như vậy, kỳ tính giá thành có thể không

phù hợp với kỳ báo cáo kế toán mà phù hợp với chu kỳ sản xuất sản phẩm. Do đó,
việc phản ánh và giám sát kiểm tra của kế toán đối với tình hình thực hiện kế
hoạch chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi chu kỳ sản xuất sản phẩm đã kết
thúc.
Xác định đối tượng là cơ sở để kế toán lập phiếu tính giá thành sản phẩm, tổ
chức tính giá thành theo từng đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra tình hình thưc
jhiện kế hoạc giá thành, các định hiệu quả sản xuất kinh doanh để có kế hoạch,
biện pháp giảm giá thành.
Việc xác định đối tượng tính giá sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng, nó
đáng giá việc tập hợp chi phí có chính xác và phù hợp không và nó là nền tảng cho
việc kiểm tra và đánh giá hiệu quả tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đối với từng công trình, hạng mục công trình hay khôi lượng công tác xây lắp.
1.3.1.3. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá
thành sản phẩm xây lắp.
Qua hai khái niệm trên ta thấy đối tượng tính giá thành và đối tượng tập hợp
chi phí có những điểm khác nhau. Đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là căn cứ để
mở các tài khoản, các sổ chi tiết, tổ chức ghi chép ban đầu, tập hợp số liệu chi phí
sản xuất chi tiết theo từng đối tượng. Còn việc xác định đối tượng tính giá thành
lại là căn cứ để kế toán lập các biểu chi tiết tính giá thành và tổ chức công tác tính
giá thành theo từng đối tượng.
Tuy nhiên giữa đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành lại có
mối quan hệ mật thiết với nhau. Về bản chất, đối tượng tập hợp chi phí là tiền đề,
là cơ sở và căn cứ để tính giá thành. Mối quan hệ giữa đối tượng tập hợp chi phí
sản xuất và đối tượng tính giá thành biểu hiện theo ba trường hợp sau:
- Tương ứng với một đối tượng tập hợp chi phí sản xuất là một đối tượng
tính giá thành
- Tương ứng với nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí có một đối tượng
tính giá thành
- Tương ứng với nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí có nhiều đối tượng
tính giá thành

Trong các doanh nghiệp xây lắp đối tượng tính giá thành thường trùng với
đối tượng tập hợp chi phí sản xuất, đó có thể là: công trình, hạng mục công trình,
khối lượng công tác xây lắp hoàn thành bàn giao.
1.3.2. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây
lắp
TRẦN THU QUYÊN 20 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh là phương pháp thể hiện
cách thức tập hợp, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh trong một kỳ sản xuất
kinh doanh theo các đối tượng đã được xác định trước.
Thông thường kế toán tập hợp chi phí theo hai cách sau:
1.3.2.1. Phương pháp tập hợp trực tiếp
Phương pháp này được áp dụng với các chi phí có liên quan trực tiếp đến
đối tượng kế toán tập hợp chi phí đã xác định và công tác hạch toán, ghi chép ban
đầu cho phép quy nạp trực tiếp các chi phí này.
1.3.2.1. Phương pháp phân bổ gián tiếp.
∑T
i
×
=
∑C
C
i
T
i
Phương pháp này áp dụng khi một loại chi phí có liên quan đến nhiều đối
tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, và khôngthể tập hợp trực tiếp cho từng đối
tượng. Trong trường hợp này phải lựa chọn tiêu thức phân bổ hợp lý cho từng đối
tượng liên quan theo công thức:



Trong đó: - C
i
: Chi phí phân bổ cho đối tượng thứ i
- ∑C: Tổng chi phí phát sinh cần phân bổ
- ∑ T
i
: Tổng đại lượng của tiêu thức chuẩn dùng để phân bổ
- T
i
: Đại lượng của tiêu thức chuẩn dùng để phân bổ của đối
tượng i.
Việc lựa chọn tiêu chuẩn dùng để phân bổ gián tiếp phải sao cho phù hợp
chính xác tuỳ thuộc vào đối tượng. Độ tin cây của thông tin về chi phí phụ thuộc
vào tính hợp lý của tiêu chuẩn phân bổ được lựa chọn.
Trong các doanh nghiệp xây lắp tuỳ vào đặc điểm của sản phẩm xây lắp là
các công trình, hạng mục công trình có tính chất đơn chiếc và được lập dự toán
trước khi tiến hành thi công, vì thế việc tập hợp chi phí sản xuất được thực hiện
theo các khoản mục chi phí nhằm phục vụ cho công tác tính giá thành được chính
xác và công tác kiểm tra, phân tích tình hình thực hiện dự toán chi phí. Chính vì
vậy mà phương pháp tập hợp chi phí tuỳ thuộc vào từng khoản mục chi phí:
TRẦN THU QUYÊN 21 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
+ Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi
phí máy thi công là các khoản mục chi phí phát sinh liên quan đến từng công trình,
hạng mục công trình thường được tập hợp trực tiếp cho công trình, hạng mục công
trình đó.
Nếu các chi phí này liên quan đến nhiều công trình thì phải tiến hành phân
bổ cho từng công trình, hạng mục công trình theo tiêu chuẩn hợp lý của từng
khoản mục chi phí. Ví dụ như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp có thể phân bổ

theo định mức tiêu hao, khối lượng xây lắp hoàn thành; Chi phí nhân công trực
tiếp có thể phân bổ theo định mức giờ công lao động, khối lượng xây lắp hoàn
thành; đối với chi phí máy thi công phân bổ theo ca máy, khối lượng xây lắp hoàn
thành...
+ Đối với chi phí sản xuất chung: Chi phí chung là các chi phí quản lý và
phục vụ sản xuất phát sinh ở các tổ đội, xí nghiệp, xưởng sản xuất. Trường hợp
nếu thực hiện sản xuất thi công một công trình, hạng mục công trình thì chi phí sản
xuất chung là chi phí trực tiếp và được tập hợp trực tiếp cho công trình, hạng mục
công trình đó. Còn trường hợp thi công nhiều công trình, hạng mục công trình thì
chi phí sản xuất chung phát sinh được phân bổ cho từng công trình, hạng mục
công trình.
Theo nguyên tắc thì mỗi một nội dung trong chi phí sản xuất chung phải
được phân bổ cho từng công trình, hạng mục công trình theo các tiêu chuẩn phân
bổ khác nhau. Điều này đảm bảo kết quả phân bổ chi phí đúng đắn và đáng tin cậy
nhưng việc tính toán phân bổ rất phức tạp, khối lượng phân bổ rất lớn. Vì thế mà
trên thực tế, việc phân bổ chi phí chung được áp dụng phương pháp đồng nhất và
tiêu chuẩn phân bổ là phí nhân công trực tiếp, định mức chi phí sản xuất chung...
1.3.3. Kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
Việc kế toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên cho
phép kiểm soát các nghiệp vụ phát sinh, tại bất kỳ thời điểm nào các hoạt động
nhập, xuất, tồn vật tư, hàng hoá, thành phẩm.
1.3.3.1. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị thực tế của vật
liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển
tham gia cấu thành thực thể sản phẩm xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và
hoàn thành khối lượng xây lắp . Trong điều kiện thực tế sản xuất xây lắp không
cho phép tính chi phí nguyên vật liệu trực tiếp cho từng công trình, hạng mục công
trình thì đơn vị có thể áp dụng phương pháp phân bổ vật liệu cho đối tượng sử
TRẦN THU QUYÊN 22 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

dụng theo tiêu chuẩn hợp lý.Các tiêu chuẩn đối với khoản mục chi phí nguyên vật
liệu trực tiếp có thể là định mức tiêu hao nguyên vật liệu,..
- Nguyên liệu vật liệu trực tiếp sử dụng cho xây dựng hạng mục công trình
nào phải tính trực tiếp cho sản phẩm, hạng mục công trình đó trên cơ sở chứng từ
gốc theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo giá xuất thực tế (giá bình quân gia
quyền; nhập trước, xuất trước,... ). Chứng từ gốc dùng để phản ánh chi phí nguyên
vật liệu trực tiếp là:các phiếu xuất kho, mẫu phiếu xin cấp vật tư, mẫu bảng tổng
hợp nguyên liệu vật liệu mua ngoài dùng cho công trình, hoá đơn GTGT..v..v.
- Tài khoản kế toán sử dụng là TK 621 “Chi phí nguyên liệu trực tiếp”Tài
khoản này không có số dư và được mở chi tiết theo từng công trình xây lắp: công
trình, hạng mục công trình, khối lượng công tác xây lắp có dự toán riêng. và các
tài khoản liên quan: TK152, TK111, TK331,TK 133..v..v..
-Trình tự hạch toán (xem biểu 02)
1.3.3.2. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
- Chi phí nhân công trực tiếp là khoản chi phí mà doanh nghiệp trả cho công
nhân xây lắp các công trình
- Tài khoản sử dụng: TK 622 “chi phí nhân công trực tiếp”, TK này phản
ánh các khoản tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp công trình, công
nhân phục vụ lắp đặt (kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật tư trong mặt bằng
thi công). Tài khoản này cuối kỳ không có số dư và được mở chi tiết theo từng
công trình, hạng mục công trình, khối lượng công tác xây lắp.. và có các tài khoản
liên quan: TK334, TK111, TK112,TK 338..v..v..
- Chứng từ ban đầu để hạch toán khoản mục chi phí nhân công là bảng chấm
công mẫu được lập hàng tháng cho từng đội sản xuất, từng bộ phận sản xuất; hợp
đồng giao khoán mẫu. Hình thức trả lương theo khối lượng công việc giao khoán
cần phải xây dựng được định mức kinh tế kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xây dựng
đơn giá tiềnlương đối với từng loại công việc một cách hợp lý

Hàng tháng căn cứ vào bảng chấm công, hợp đồng giáo khoán và các chứng
từ khác có liên quan, kế toán làm bảng thanh toán lương theo tổ, đội sản xuất, và

kiểm tra việc trả lương cho cán bộ công nhân viên.
Trong chi phí của công nhân xây lắp, các khoản trích BHXH,BHYT,KPCĐ
tính theo tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp và tiền ăn ca của công
TRẦN THU QUYÊN 23 K37/21/09
=
x
Khối lượng công việc
giaokhoán hoàn thành
Đơn giá
tiền lương
Tiền lương
phải trả
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
nhân xây lắp không hạch toán vào chi phí nhân công trực tiếp mà hạch toán vào
chi phí sản xuất chung.
-Trình tự hạch toán: xem biểu 02
1.3.3.3. Kế toán chi phí sử dụng máy thi công
-Máy thi công là các loại xe, máy có động cơ được sử dụng trực tiếp để thi
công xây lắp các công trình xây dựng như: máy trộn bê tông, máy đào đất, máy
khoan đường, xúc đất, ô tô vận chuyển đất đá, gạch, cát trong công trường,... Các
loại phương tiện máy thi công doanh nghiệp xây lắp có thể thuê ngoài hoặc tự
trang bị để khai thác sử dụng lâu dài.
Chi phí sử dụng máy thi công gồm toàn bộ các chi phí về vật tư, lao động,
khấu hao và chi phí bằng tiền trực tiếp cho quá trình sử dụng máy thi công của
doanh nghiệp. Do đặc điểm hoạt động của máy thi công trong xây lắp mà chi phí
máy còn chia làm hai loại:
+ Chi phí tạm thời: là những chi phí có liên quan đến việc tháo lắp, chạy
thử, van chuyển,... máy thi công và chi phí về những công trình tạm thời phục vụ
máy thi công. Chi phí này được phân bổ dần theo thời gian máy ở công trường.
+ Chi phí thường xuyên là những chi phí hàng ngày cần thiết cho việc sử

dụng máy móc thi công gồm tiền khấu hao máy móc, tiền thuê xe máy, lương của
công nhân điều khiển và phục vụ máy, nhiên liệu động lực phục vụ khác dùng cho
máy...
- Tài khoản sử dụng là TK623 “ Chi phí sử dụng máy thi công”. Tài khoản
này để tập hợp và phân bổ chi phí sử dụng máy phục vụ trực tiếp cho hoạt động
xây lắp công trình.
Tài khoản này chi sử dụng trong những doanh nghiệp xây lắp tổ chức thi
công xây lắp hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp bằng máy. Còn nếu doanh nghiệp
thực hiện thi công hoàn toàn bằng máy (sản xuất chính là máy thi công) thì mọi
chi phí sản xuất cho máy hoạt động tập hợp vào TK 621, 622, 627 cuối kỳ kết
chuyển vào TK 154 “Chi phí sản xuất dở dang”
Không được hạch toán vào TK 623 chi phí về trích BHXH,BHYT,KPCĐ
tính theo lương công nhân điều khiển máy và tiền ăn ca, các khoản này được hạch
toán vào TK 627
Tài khoản 623 cuối kỳ không có số dư và chi tiết làm 6 khoản cấp hai:
+ TK6231 “Chi phí nhân công”
+ TK6232 “Chi phí nguyên liệu, vật liệu”
+ TK 6233 “ Chi phí dụng cụ sản xuất”
+ TK 6234 “Chi phí khấu hao máy thi công”
TRẦN THU QUYÊN 24 K37/21/09
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
+ TK 6237 “Chi phí dịch vụ mua ngoài”
+ TK 6238 “Chi phí bằng tiền khác”
ngoài ra để theo dõi khoản chi phí máy thi công còn có các tài khoản liên
quan: TK152,TK334, TK214...v..v..
-Trình tự hạch toán; xem biểu 02
1.3.3.4. Kế toán chi phí sản xuất chung.
Chi phí sản xuất chung của doanh nghiệp xây lắp là các chi phí liên quan
đến việc quản lý công trình, trong phạm các phân xưởng, các đội thi công xây lắp
và ở các công trường xây dựng. Chi phí sản xuất chung thi công xây lắp bao gồm

chi phí về tiền công nhân viên quản lý đội, trích BHXH, BHYT,KPCĐ theo tỉ lệ
quy định trên tổng số lương công nhân viên chức của đội, khấu hao tài sản cố định
dùng chung cho đội, chi phí về vật liệu, dụng cụ dùng cho quản lý các công
trường, chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác.
- Tài khoản sử dụng là TK627 “Chi phí sản xuất chung”. Tài khoản này
phản ánh những chi phí sản xuất chung phục vụ xây lắp tại các đội, các bộ phận
sản xuất trong doanh nghiệp. Các khoản chi phí chung thường được hạch toán
riêng theo từng địa điểm phát sinh chi phí, tổ đội công trình. Sau đó tiến hành phân
bổ cho từng đối tượng chịu chi phí liên quan. Các khoản chi phí chỉ liên quan đến
một công trình, hạng mục công trình sẽ được tập hợp trực tiếp cho từng công trình,
hạng mục công trình đó.
- Tài khoản này không có số dư cuối kỳ và chi tiết thành 6 tiểu khoản:
+ TK 6271: Chi phí nhân viên phân xưởng
+ TK 6272: Chi phí nguyên vật liệu
+ TK 6273: Chi phí dụng cụ sản xuất
+ TK 6274: Chi phí khấu hao tài sản cố định
+ TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ TK 6278: Chi phí bằng tiền khác
và các tài khoản liên quan: TK 152, TK 334, TK111,TK 214,...v..v..
- Trình tự hạch toán: xem biểu 02
1.3.3.5. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp.
Kế toán tập hợp chi phí sản xuất toàn doanh nghiệp thường được căn cứ vào
đối tượng kế toán chi phí sản xuất
Chí sản xuất và phương pháp kế toán chi phí đã được xác định tương ứng để
tiến hành hạch toán và tổng hợp chi phí sản xuất
- Căn cứ vào đối tượng hạch toán đã xác định mở sổ hoặc thẻ chi tiết chi phí
sản xuất và khi chi phí phát sinh trong tháng liên quan tới đối tượng kếtoán nào thì
TRẦN THU QUYÊN 25 K37/21/09

×