Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Thuyết các quan hệ con người trong tổ chức của mary parker pollet ứng dụng trong quản trị doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.43 KB, 16 trang )

Thuyết các quan hệ con người trong tổ chức của Mary Parker Pollet - Ứng
dụng trong quản trị doanh nghiệp

Cách mạng công nghiệp diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai
hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực sản xuất; là sự
thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế-xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước
Anh sau đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy
mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo
máy móc quy mô lớn.
Cùng với nó là sự ra đời của các học thuyết kinh tế nói chung và các học thuyết về
quản lý sản xuất để nâng cao năng suất nói riêng. Từ những học thuyết này là nền
tảng cho các nhà kinh tế học phát triển thành nhiều trường phái, nhiều lý thuyết
khác.

I. CÁC LÝ THUYẾT CƠ BẢN ĐÃ ĐƯỢC SỬ DỤNG ĐỂ QUẢN LÝ SẢN XUẤT
TRONG THẾ KỶ 19 VÀ 20 NHẰM NÂNG CAO NĂNG SUẤT.

1.Thuyết quản lý khoa học của F.W.Taylor
Xuất hiện vào đầu thế kỷ XX, trường phái quản lý cổ điển - còn gọi là trường phái
phổ biến - gồm hai thuyết quản lý chính: thuyết quản lý theo khoa học (do
F.W.Taylor là đại diện chủ yếu) và tiếp đó là thuyết quản lý tổng quát (do H.Fayol
đề xướng). Trường phái cổ điển đã đặt nền móng đầu tiên cho khoa học quản lý với
những đóng góp có ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ hoạt động quản lý trong xã hội
công nghiệp, mà những nội dung cơ bản của nó vẫn có giá trị cao cho đến bây giờ.


Nội dung quản lý theo khoa học dựa trên các nguyên tắc sau:
- Xác định một cách khoa học khối lượng công việc hàng ngày của công
nhân với các thao tác và thời gian cần thiết để bố trí quy trình công nghệ phù hợp
(chia nhỏ các phần việc) và xây dựng định mức cho từng phần việc. Định mức


được xây dựng qua thực nghiệm (bấm giờ từng động tác).
- Lựa chọn công nhân thành thạo từng việc, thay cho công nhân “vạn năng”
(biết nhiều việc song không thành thục). Các thao tác được tiêu chuẩn hóa cùng
với các thiết bị, công cụ, vật liệu cũng được tiêu chuẩn hóa và môi trường làm việc
thuận lợi. Mỗi công nhân được gắn chặt với một vị trí làm việc theo nguyên tắc
chuyên môn hóa cao độ.
- Thực hiện chế độ trả lương (tiền công) theo số lượng sản phẩm (hợp lệ về
chất lượng) và chế độ thưởng vượt định mức nhằm khuyến khích nỗ lực của công
nhân.
- Phân chia công việc quản lý, phân biệt từng cấp quản lý. Cấp cao tập
trung vào chức năng hoạch định, tổ chức và phát triển kinh doanh, còn cấp dưới
làm chức năng điều hành cụ thể. Thực hiện sơ đồ tổ chức theo chức năng và theo
trực tuyến; tổ chức sản xuất theo dây chuyền liên tục.
Với các nội dung nói trên, năng suất lao động tăng vượt bậc, giá thành thấp; kết
quả cuối cùng là lợi nhuận cao để cả chủ và thợ đều có thu nhập cao. Qua các
nguyên tắc kể trên, có thể rút ra các tư tưởng chính của thuyết Taylor là: tối ưu hóa
quá trình sản xuất (qua hợp lý hóa lao động, xây dựng định mức lao động); tiêu
chuẩn hóa phương pháp thao tác và điều kiện tác nghiệp; phân công chuyên môn
hóa (đối với lao động của công nhân và đối với các chức năng quản lý); và cuối
cùng là tư tưởng “con người kinh tế” (qua trả lương theo số lượng sản phẩm để


kích thích tăng năng suất và hiệu quả sản xuất). Từ những tư tưởng đó, đã mở ra
cuộc cải cách về quản lý doanh nghiệp, tạo được bước tiến dài theo hướng quản lý
một cách khoa học trong thế kỷ XX cùng với những thành tựu lớn trong ngành chế
tạo máy.
Thuyết quản lý theo khoa học chủ yếu đề cập đến công việc quản lý ở cấp cơ sở
với tầm vi mô. Tuy nhiên, nó đã đặt nền móng rất cơ bản cho lý thuyết quản lý nói
chung, đặc biệt về phương pháp làm việc tối ưu (có hiệu quả cao), tạo động lực
trực tiếp cho người lao động và việc phân cấp quản lý. Các thuyết quản lý và

trường phái quản lý khác vừa kế thừa thành tựu đó, vừa nâng cao những nhân tố
mới để đưa khoa học quản lý từng bước phát triển hoàn thiện hơn.

2. Thuyết quản lý tổng quát của H.Fayol.
Qua tác phẩm chủ yếu “Quản lý công nghiệp và tổng quát” xuất bản năm 1949,
Henri Fayol (người Pháp, 1841 – 1925) đã tiếp cận vấn đề quản lý ở tầm rộng hơn
và xem xét dưới góc độ tổ chức – hành chính.
Tư tưởng chủ yếu của thuyết Fayol là nhìn vấn đề quản lý ở cả tổng thể tổ chức
quản lý xí nghiệp, xem xét hoạt động quản lý từ trên xuống, tập trung vào bộ máy
lãnh đạo cao với các chức năng cơ bản của nhà quản lý. Ông cho rằng thành công
của quản lý không chỉ nhờ những phẩm chất của các nhà quản lý, mà chủ yếu nhờ
các nguyên tắc chỉ đạo hành động của họ và những phương pháp mà họ sử dụng.
Với các nhà quản lý cấp cao phải có khả năng bao quát, còn đối với cấp dưới thì
khả năng chuyên môn là quan trọng nhất. Tư tưởng quản lý đó phù hợp với hệ
thống kinh doanh hiện đại, và từ những nguyên lý đó có thể vận dụng cho việc
quản lý các loại tổ chức thuộc lĩnh vực khác.


Những vấn đề mà thuyết Fayol đã giải đáp khá rõ ràng là nội hàm của khái niệm
quản lý, các chức năng cơ bản của quản lý, cơ cấu tổ chức quản lý và nguyên tắc
vận hành của guồng máy tổ chức.
Trước hết, ông phân chia toàn bộ các hoạt động của xí nghiệp thành 6 nhóm công
việc chính gồm:
- Kỹ thuật (khai thác, chế tạo, chế biến)
- Thương mại (mua bán, trao đổi)
- Tài chính (huy động vốn, sử dụng vốn)
- An ninh (bảo vệ tài sản và nhân viên)
- Kế toán (kiểm kê tài sản, theo dõi công nợ, hạch toán giá thành, thống
kê)
- Quản lý - điều hành (kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối hợp, kiểm tra).

Mặt khác, Fayol cũng cho rằng quản lý không phải là đặc quyền và trách nhiệm
riêng của cá nhân người đứng đầu, mà được phân chia cho các thành viên khác
trong hệ thống tổ chức quản lý. Từ đó, ông đưa ra trật tự thứ bậc trong hệ thống đó
gồm 3 cấp cơ bản: cấp cao là Hội đồng quản trị và giám đốc điều hành; cấp giữa là
các người tham mưu và chỉ huy thực hiện từng phần việc, từng công đoạn; cấp thấp
là các người chỉ huy tác nghiệp ở từng khâu. Trật tự đó thể hiện sự phân phối
quyền lực và trách nhiệm với ranh giới rõ ràng.

Fayol cũng đề ra 14 nguyên tắc về quản lý để vận dụng linh hoạt:
- Phân chia công việc: sự phân chia công việc, đảm bảo sự chuyên môn hóa
là rất cần thiết. Nó đảm bảo công việc được hoàn thành nhanh chóng và có chất
lượng cao.


- Thẩm quyền và trách nhiệm: có quan hệ mật thiết với nhau. Quyền hạn
phải gắn liền với trách nhiệm. Giao trách nhiệm mà không giao quyền thì công
việc không hoàn thành được. Có quyền quyết định mà không chịu trách nhiệm về
quyết định đã đưa ra thì sẽ dẫn tới thói vô trách nhiệm và hậu quả xấu.
- Kỷ luật: là sự tôn trọng những thỏa thuận đạt đến sự tuân lệnh, tính
chuyên cần. Fayol tuyên bố rằng kỷ luật đòi hỏi có những người lãnh đạo tốt ở
mọi cấp, chất lượng và hiệu quả cao trong kinh doanh.
- Thống nhất chỉ huy: Nguyên tắc này có nghĩa là nhân viên chỉ được nhận
mệnh lệnh từ một thượng cấp mà thôi.
- Thống nhất điều khiển: theo nguyên tắc này thì một nhóm hoạt động có
cùng một mục tiêu phải có người đứng đầu và phải có kế hoạch thống nhất.
Nguyên tắc này có liên quan đến đoàn nhóm hơn là đối với cá nhân, nhân viên như
ở nguyên tắc trên.
- Cá nhân lợi thuộc lợi ích chung: nguyên tắc này tự nó đã giải thích rõ. Tuy
nhiên, theo H. Fayol khi có sự khác biệt không thống nhất giữa lợi ích cá nhân và
lợi ích chung thì cấp quản trị phải hòa giải hợp lý.

- Thù lao: cách trả công phải công bằng, hợp lý và mang lại sự thỏa mãn tối
đa có thể cho chủ và thợ.
- Tập trung và phân tán: nguyên tắc này của H. Fayol nói lên mức độ quan
hệ và thẩm quyền giữa tập trung và phân tán. Chuẩn mực của mối quan hệ này
phải dẫn đến ‘năng suất toàn bộ cao nhất’.
- Cấp bậc, tuyến hay ‘xích lãnh đạo’: trong quản trị phải có ‘xích lãnh đạo’
từ cấp cao nhất đến cấp thấp nhất. Phải đảm bảo nguyên tắc, không được đi trật
khỏi đường dây. Sự vận dụng phải linh hoạt, không cứng nhắc.


-Trật tự hay sắp xếp người và vật vào đúng chỗ cần thiết: H.Fayol cho rằng
vật nào, người nào cũng có chỗ riêng của nó. Phải đặt cho đúng vật nào, người
nào vào chỗ nấy. Đây là một nguyên tắc quan trọng trong việc sắp xếp, sử dụng
người và dụng cụ, máy móc.
- Công bằng: sự công bằng trong cách đối xử với cấp dưới và nhân viên
cũng như lòng tử tế đối với họ là sự cần thiết tạo nên lòng trung thành và sự tận
tụy của nhân viên đối với xí nghiệp.
- Ổn định nhiệm vụ: sự ổn định nhiệm vụ là nguyên tắc cần thiết trong quản
trị. Nó đảm bảo cho sự hoạt động với mục tiêu rõ ràng và có điều kiện để chuẩn bị
chu đáo. Sự thay đổi luôn luôn không cần thiết và thiếu căn cứ tạo nên những nguy
hiểm do thiếu ổn định kèm theo những lãng phí và phí tổn to lớn.
- Sáng kiến: sáng kiến được quan niệm là sự nghĩ ra và thực hiện công việc
một cách sáng tạo. Fayol khuyên các nhà quản trị nên ‘hy sinh lòng tự kiêu cá
nhân’ để cho phép cấp dưới thực hiện sáng kiến của họ. Điều này rất có lợi cho
công việc.
- Tinh thần đoàn kết: nguyên tắc này nói rằng đoàn kết luôn tạo ra sức
mạnh. Sự thống nhất, sự đoàn kết nhất trí trong cộng đồng mang lại những hiệu
quả to lớn.
Cùng với thuyết Taylor, thuyết này đã đề ra được hàng loạt vấn đề quan trọng của
quản lý (như chức năng, nguyên tắc, phương pháp), vừa chú trọng việc hợp lý hóa

lao động vừa quan tâm cao đến hiệu lực quản lý, điều hành .

3. Thuyết các quan hệ con người trong tổ chức của Mary Parker Pollet.
Thuyết quản lý của bà Mary Parker Follet (1868 – 1933) thể hiện các nội dung
chủ yếu sau:


Giải quyết mâu thuẫn:
M.P.Follet quan niệm mâu thuẫn không phải là sự tranh chấp mà là sự khác biệt về
ý kiến. Nó không xấu và cũng không tốt, tất cả tuỳ thuộc sự nhận biết của nhà quản
lý để có thể sử dụng hay loại trừ (giống như hiện tượng ma sát trong vật lý).
Có 3 phương pháp chủ yếu để lựa chọn khi giải quyết mâu thuẫn, đó là: áp chế,
thỏa hiệp và thống nhất. Áp chế đem lại thắng lợi dễ dàng cho nhà quản lý, nhưng
không làm cho người lao động tự nguyện chấp nhận, để lại hậu quả lâu dài. Thỏa
hiệp thường được các Công đoàn thực hiện song chỉ là chấp nhận tạm thời. Phương
pháp thống nhất là tốt nhất vì nó tạo ra giá trị phụ trội lớn hơn tổng giá trị của các
cá thể, giải quyết được triệt để mâu thuẫn. Cần công khai mâu thuẫn, sau đó xem
xét ý muốn của mỗi bên, tìm ra “tiếng nói chung” như là nhu cầu chung cần đạt.
Ra mệnh lệnh:
Ra mệnh lệnh quản lý là việc cần thiết, song không coi đó là sự áp đặt theo “chủ
nghĩa ông chủ” khiến người chấp hành thụ động thiếu tự nguyện. Ra mệnh lệnh
phải đạt tới sự thống nhất với thái độ phù hợp tâm lý đối tượng, trong đó họ thấy
sự cần thiết và phần trách nhiệm chung, không bị thúc ép miễn cưỡng.
Quyền lực và thẩm quyền:
Phân biệt quyền lực do tổ chức “ban” cho với thẩm quyền (quyền hạn) được sử
dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ cần tiến hành. Nhà quản lý cần tập trung vào
thẩm quyền (quyền lực liên kết) thay vì quyền lực tuyệt đối; gắn với chức năng
thay vì chức vị.
Trách nhiệm tích luỹ:
Đó là trách nhiệm chung mà mỗi cấp quản lý dự phần trong việc ra quyết định và

người thừa hành ý thức được. Cần tăng cường các mối quan hệ ngang (phối hợp –
cộng tác) thay vì chỉ điều khiển – phục tùng.


Lãnh đạo và điều khiển:
Quyền điều khiển thuộc về người lãnh đạo (đứng đầu). Người đó phải có hiểu biết
sâu rộng nhất về hoàn cảnh cần có quyết định; phải có năng lực thuyết phục; biết
tạo điều kiện và rèn luyện cho cấp dưới biết cách tự điều khiển, tự ra quyết định và
chịu trách nhiệm.
Pollet cho rằng, trong quá trình làm việc, người lao động có các mối quan hệ giữa
họ với nhau và giữa họ với một thể chế tổ chức nhất định bao gồm:
-Quan hệ giữa công nhân với công nhân
-Quan hệ giữa công nhân với các nhà lãnh đạo, quản trị
Ðồng thời tác giả cũng nhấn mạnh, hiệu quả của lãnh đạo, quản trị phụ thuộc vào
việc giải quyết các mối quan hệ này.
* Những quan điểm về hành vi con người: các tác giả trong trường phái này cho
rằng hoạt động của con người phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tâm lý xã hội. Chính
các yếu tố này tạo nên các quan hệ tốt đẹp trong quá trình lao động, từ đó mà có
thể đạt hiệu quả cao trong quá trình làm việc.
Ðiển hình trong quan điểm này là các nghiên cứu về các tác động tâm lý vào quá
trình lao động tại Western Electric’s Hawthorne Plant. Công trình nghiên cứu này
gọi là những nghiên cứu Hawthorne. Trong nghiên cứu đó, các tác giả đã sử dụng
các biện pháp tạo cho công nhân cảm giác tâm lý là họ đang được các nhà lãnh
đạo, quản trị chú ý đến như:
- Thay đổi chế độ sáng (tăng và giảm độ sáng).
- Thay đổi về tiền lương.
- Thay đổi thời gian làm việc.


Sự thay đổi này đã dẫn đến các tác động tâm lý làm tăng năng suất lao động. Tiếp

cận các động cơ về hành vi của con người: các tác giả đã tập trung nghiên cứu vào
các yếu tố tác động vào hành vi của con người trong quá trình làm việc với tư cách
là động cơ làm việc của họ.
Chúng ta có thể để ý rằng kỹ thuật nhận thức, với nghĩa hết sức thực tiễn, là hiện
thân của sự suy xét cả những khía cạnh kỹ thuật lẫn những khía cạnh con người
của tổ chức. Cho đến nay, khái niệm kỹ năng, với tư cách là khả năng biến kiến
thức thành hành động, phải giúp cho con người ta phân biệt được ba kỹ năng:

Kỹ năng kỹ thuật
Kỹ năng kỹ thuật là yếu tố tạo ra nhiều điểm ưu việt của công nghiệp hiện đại. Nó
là yếu tố không thể thiếu của một hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên, kỹ năng kỹ
thuật có tầm quan trọng lớn nhất là tại những cấp quản Việc phân tách công việc
quản lý hiệu quả thành ba chức năng cơ bản như vậy trước hết có ích cho mục đích
phân tích.

Kỹ năng con người
Kỹ năng con người là khả năng của người quản lý trong việc lao động một cách có
hiệu quả với tư cách là một thành viên của nhóm và động viên cố gắng hợp tác
trong nhóm mà ông ta lãnh đạo. Kỹ năng này được phổ diễn trong cái cách một cá
nhân nhận thức các cấp trên của anh ta, nhận thức những người ngang cấp với anh
ta và những người cấp dưới của anh ta, cũng như trong cái cách anh ta hành động
sau đó.


Để hoạt động có hiệu quả, kỹ năng này phải được phát triển một cách tự nhiên và
vô ý thức, cũng như phải phù hợp, phô diễn trong những hành vi cá nhân đó. Nó
phải trở thành một bộ phận cấu thành của toàn bộ bản chất của anh ta.

Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng nhận thức bao gồm khả năng bao quát doanh nghiệp như một tổng thể.

Khả năng này bao gồm việc thừa nhận các tổ chức khác nhau của tổ chức phụ
thuộc lẫn nhau như thế nào, và những thay đổi trong một bộ phận bất kỳ ảnh hưởng
đến tất cả những bộ phận khác như thế nào. Khả năng này cũng mở rộng đến việc
hình dung được mối quan hệ giữa một cá thể doanh nghiệp với tất cả ngành công
nghiệp, với cả cộng đồng, và các lực lượng chính trị, xã hội và kinh tế trên cả nước
với tư cách là một tổng thể. Thừa nhận những mối quan hệ này và nhận thức được
những yếu tố nổi bật trong bất kỳ tình huống nào, người quản lý khi đó sẽ có thể
hành động theo cách nào nâng cao được phúc lợi tổng thể của toàn bộ tổ chức.

Trên thực tế, những kỹ năng này có liên quan mật thiết với nhau đến mức khó mà
xác định được đâu là điểm một kỹ năng kết thúc và kỹ năng khác bắt đầu. Mặc dầu
tất cả ba kỹ năng đều quan trọng tại mỗi cấp quản lý, song tầm quan trọng tương
đối của kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng con người và kỹ năng nhận thức của nhà quản lý
cũng thay đổi tùy theo những cấp trách nhiệm khác nhau.

Phương pháp ba kỹ năng này chỉ ra rằng có thể thu được những lợi ích đáng kể từ
việc xác định lại các mục tiêu của các chương trình phát triển cán bộ điều hành, từ
việc xem xét lại cách bố trí các cán bộ điều hành trong các tổ chức và từ việc xem
xét lại các chu trình kiểm tra và lựa chọn các cán bộ điều hành có triển vọng.


II) TÍNH ỨNG DỤNG CỦA CÁC LÝ THUYẾT TRÊN.

Hiện nay các lý thuyết này vẫn được áp dụng trong các doanh nghiệp bởi vì bên
cạnh những mặt hạn chế, một số quan điểm của chúng phản ánh những quy luật
kinh tế khách quan. Do yếu tố lịch sử và ảnh hưởng của yếu tố giai cấp nên một số
quan điểm không còn phù hợp tuy nhiên không vì thế mà có thể phủ nhận đóng
góp của chúng trong việc tăng năng suất cho cả nền kinh tế của từng thời kỳ cũng
như tạo tiền đề cho các học thuyết, các mô hình hiện đại ra đời mà điển hình là Hệ
thống sản xuất tinh gọn (Lean Manufacturing)

Nhiều khái niệm về Lean Manufacturing bắt nguồn từ Hệ thống sản xuất Toyota
(TPS) và đã được dần triển khai xuyên suốt các hoạt động của Toyota từ những
năm 1950. Cụm từ “Lean Manufacturing” hay “Lean Production” đã xuất hiện lần
đầu tiên trong quyển “Cỗ máy làm thay đổi Thế giới” xuất bản năm 1990.
Lean Manufacturing, còn gọi là Lean Production, là một hệ thống các công cụ và
phương pháp nhằm liên tục loại bỏ tất cả những lãng phí trong quá trình sản xuất.
Lợi ích chính của hệ thống này là giảm chi phí sản xuất, tăng sản lượng, và rút
ngắn thời gian sản xuất.

- Triết lý: liên tục tìm kiếm và giải quyết các vấn đề trong sản xuất nhằm làm
giảm tồn kho và tăng năng suât sản xuất. Lean nhấn mạnh vào việc liên tục cải
tiến, tôn trọng nhân viên, trao quyền và thực hành công việc được tiêu chuẩn
hóa. Lean mang đến cho khách hàng những sản phẩm họ cần khi họ cần và
loại bỏ mọi dạng lãng phí.


Các quan điểm chính của lean:
- Sáng tạo trước khi bỏ vốn: lean quan tâm đến tập hợp sáng kiến và giải
pháp của cả nhóm thay vì đầu tư với chi phí vốn lớn. Những người làm việc trong
cùng quá trình phải cùng nhau thảo luận để khai thách những kinh nghiệm, kỹ năng
và trí óc của tập thể nhằm tạo ra kế hoạch giảm lãng phí và có các cải tiến quá
trình.
- Áp dụng ngay một giải pháp tuy chưa hoàn hảo nhưng đúng lúc thì tốt hơn
là áp dụng một giải pháp hoàn thiện nhưng lại muộn. Cần tiến hành kịp thời.
- Lưu kho không phải là có tài sản dự trữ mà là lãng phí hoặc phải mất chi
phí.
- Sử dụng phương pháp Hoạch định – Tiến hành – Kiểm tra – Khắc phục để
triển khai các cải tiến cả khi phát triển và sửa đổi.
Khi đã được bắt đầu thì sẽ phải tiến hành liên tục lean vì nó là quá trình không có
điểm kết thúc.


Mục Tiêu của Lean Manufacturing
- Phế phẩm và sự lãng phí: Giảm phế phẩm và các lãng phí hữu hình không
cần thiết, bao gồm sử dụng vượt định mức nguyên vật liệu đầu vào, phế phẩm có
thể ngăn ngừa, chi phí liên quan đến tái chế phế phẩm, và các tính năng trên sản
phẩm vốn không được khách hàng yêu cầu;
- Chu kỳ sản xuất: Giảm thời gian quy trình và chu kỳ sản xuất bằng cách
giảm thiểu thời gian chờ đợi giữa các công đoạn, cũng như thời gian chuẩn bị cho
quy trình và thời gian chuyển đổi mẫu mã hay quy cách sản phẩm;


- Mức tồn kho: Giảm thiểu mức hàng tồn kho ở tất cả công đoạn sản xuất,
nhất là sản phẩm dở dang giữa các công đoạn. Mức tồn kho thấp hơn đồng nghĩa
với yêu cầu vốn lưu động ít hơn;
- Năng suất lao động: Cải thiện năng suất lao động, bằng cách vừa giảm thời
gian nhàn rỗi của công nhân, đồng thời phải đảm bảo công nhân đạt năng suất cao
nhất trong thời gian làm việc (không thực hiện những công việc hay thao tác không
cần thiết);
- Tận dụng thiết bị và mặt bằng: Sử dụng thiết bị và mặt bằng sản xuất hiệu
quả hơn bằng cách loại bỏ các trường hợp ùn tắc và gia tăng tối đa hiệu suất sản
xuất trên các thiết bị hiện có, đồng thời giảm thiểu thời gian dừng máy;
- Tính linh động: Có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm khác nhau một
cách linh động hơn với chi phí và thời gian chuyển đổi thấp nhất.
- Sản lượng: Nếu có thể giảm chu kỳ sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm
thiểu ùn tắc và thời gian dừng máy, công ty có thể gia tăng sản lượng một cách
đáng kể từ cơ sở vật chất hiện có.
Một cách hiểu khác về Lean Manufacturing đó là việc nhắm đến mục tiêu: với
cùng một mức sản lượng đầu ra nhưng có lượng đầu vào thấp hơn – ít thời gian
hơn, ít mặt bằng hơn, ít nhân công hơn, ít máy móc hơn, ít vật liệu hơn và ít chi phí
hơn.


Các Nguyên Tắc Chính của Lean Manufacturing
- Nhận thức về sự lãng phí: Bước đầu tiên là nhận thức về những gì có và
những gì không làm tăng thêm giá trị từ góc độ khách hàng. Bất kỳ vật liệu, quy
trình hay tính năng nào không tạo thêm giá trị theo quan điểm của khách hàng


được xem là thừa và nên loại bỏ. Ví dụ như việc vận chuyển vật liệu giữa các phân
xưởng là lãng phí và có khả năng được loại bỏ.
- Chuẩn hoá quy trình: Lean đòi hỏi việc triển khai các hướng dẫn chi tiết
cho sản xuất, gọi là Quy Trình Chuẩn, trong đó ghi rõ nội dung, trình tự, thời gian
và kết quả cho tất các thao tác do công nhân thực hiện. Điều này giúp loại bỏ sự
khác biệt trong cách các công nhân thực hiện công việc.
- Quy trình liên tục: Lean thường nhắm tới việc triển khai một quy trình sản
xuất liên tục, không bị ùn tắc, gián đoạn, đi vòng lại, trả về hay phải chờ đợi. Khi
được triển khai thành công, thời gian chu kỳ sản xuất sẽ được giảm đến 90%.
- Sản xuất “Pull”: Còn được gọi là Just-in-Time (JIT), sản xuất Pull chủ
trương chỉ sản xuất những gì cần và vào lúc cần đến. Sản xuất được diễn ra dưới
tác động của các công đoạn sau, nên mỗi phân xưởng chỉ sản xuất theo yêu cầu
của công đoạn kế tiếp.
- Chất lượng từ gốc: Lean nhắm tới việc loại trừ phế phẩm từ gốc và việc
kiểm soát chất lượng được thực hiện bởi các công nhân như một phần công việc
trong quy trình sản xuất.
- Liên tục cải tiến: Lean đòi hỏi sự cố gắng đạt đến sự hoàn thiện bằng cách
không ngừng loại bỏ những lãng phí khi phát hiện ra chúng. Điều này cũng đòi
hỏi sự tham gia tích cực của công nhân trong quá trình cải tiến liên tục.

III. THỰC TẾ TRONG DOANH NGHIỆP.

Công ty Cổ phần May Vạn Xuân - Với ngành nghề sản xuất chính là gia công

hàng may mặc đã không ngừng tìm tòi, cải tiến kỹ thuật, mẫu mã, đa dạng sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Sản phẩm của Công ty bao


gồm các mặt hàng cao cấp và bình dân như áo jacket cho người lớn, quần áo
thường cho người lớn, trẻ em, quần áo bảo hộ lao động, quần áo thể thao, vỏ chăn,
túi vải, tất... Công ty đang áp dụng nhiều phương thức cải tiến quy trình để tăng
năng suất lao động.

Phương thức được công ty áp dụng hiện nay là quy trình sản xuất tinh gọn (Lean
Manufacturing ), tức là loại bỏ tất cả những lãng phí trong quá trình sản xuất, như
các thao tác thừa, loại bỏ tối đa thời gian dừng máy... Áp dụng Lean Manufacturing
giúp công ty giảm chi phí, tăng sản lượng và rút ngắn thời gian sản xuất.
Sau khi áp dụng quy trình Lean Manufacturing, đến nay công ty đã giảm được thời
gian tăng ca, công nhân cũng không phải làm việc ngày chủ nhật như trước, nhưng
năng suất lao động lại tăng hơn 10% so với cùng kỳ. Cùng với Lean
Manufacturing, hiện tại công ty cũng áp dụng quy trình 5S (sàng lọc, sắp xếp, sẵn
sàng, sạch sẽ, săn sóc) để người lao động làm việc chuyên nghiệp hơn, không mất
nhiều thời gian cho việc làm sạch máy, hay dây chuyền vì vậy công việc cũng đi
vào nề nếp hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Giáo trình “Quản trị hoạt động” - Đại học Griggs, Chương trình đào tạo
thạc sỹ Quản trị kinh doanh
2. Giáo trình “Quản trị hoạt động sản xuất và tác nghiệp”, Ian Fleming, NXB
Thống kê, 2003.

3. Các website:



/> /> /> />


×