Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.71 MB, 109 trang )

LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ
Người tổng hợp: Đinh Công Lợi
Email:

Mục lục
1. Khái quát về tiền cổ .................................................................................................. 4
1.1.

Hình thức tiền cổ ................................................................................................ 4

1.2.

Tên gọi tiền cổ .................................................................................................... 6

1.3.

Đơn vị và mệnh giá ............................................................................................ 7

1.4.

Chất liệu ............................................................................................................. 9

2. Tiền cổ các triều đại Việt Nam ................................................................................ 10
2.1.

Tiền đồng đầu tiên của người Việt .................................................................... 10

2.2.

Tiền nhà Tiền Lê .............................................................................................. 11


2.3.
2.4.

Tiền nhà Lý ................................................................................................... 12
Tiền nhà Trần ................................................................................................... 14

2.4.1.

Tiền trong đời sống kinh tế xã hội .............................................................. 14

2.4.2.

Tiền giấy xuất hiện .................................................................................... 15

2.4.3.

Các đồng tiền thời Trần.............................................................................. 16

2.5.

Tiền nhà Hồ ...................................................................................................... 17

2.6.

Tiền nhà Hậu Lê ............................................................................................... 19

2.7.

Tiền nhà Mạc.................................................................................................... 25


2.8.

Tiền nhà Tây Sơn ............................................................................................. 26

2.9.

Tiền nhà Nguyễn .............................................................................................. 28

2.9.1.

Gia Long thông bảo ................................................................................... 28


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

2.9.2.

Minh Mạng thông bảo ................................................................................ 29

2.9.3.

Thiệu Trịnh thông bảo................................................................................ 30

2.9.4.

Tự Đức thông bảo ...................................................................................... 30

2.9.5.

Kiến Phúc thông bảo .................................................................................. 31


2.9.6.

Hàm Nghi thông bảo .................................................................................. 31

2.9.7.

Đồng Khánh thông bảo .............................................................................. 32

2.9.8.

Thành Thái thông bảo ................................................................................ 32

2.9.9.

Duy Tân thông bảo .................................................................................... 32

2.9.10. Khải Định thông bảo .................................................................................. 32
2.9.11. Bảo Đại thông bảo ..................................................................................... 33
2.10.

Một số tiền cổ khác .................................................................................... 34

3. Tiền do Pháp phát hành (Tiền bạc Đông Dương) .................................................... 35
3.1.

Đơn vị đếm và tên gọi của chúng ...................................................................... 35

3.2.


Lịch sử ............................................................................................................. 36

3.2.1.

Tiền kim loại .............................................................................................. 36

3.2.2.

Tiền giấy đầu tiên ...................................................................................... 37

3.2.3.

Giá trị ........................................................................................................ 37

3.3.

Tiền kim loại .................................................................................................... 38

3.4.

Tiền giấy .......................................................................................................... 38

3.5.

Danh sách tiền Đông Dương ............................................................................. 40

4. Tiền Việt Nam thời hiện đại .................................................................................... 49
4.1.

Tiền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1952 – 1976) ............................................. 49


4.1.1.

Bối cảnh lịch sử ......................................................................................... 49

4.1.2.

In tiền riêng................................................................................................ 51
2


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

4.1.3.

Đổi tiền ...................................................................................................... 53

4.1.4.

Lạm phát .................................................................................................... 54

4.1.5.

Mẫu giấy .................................................................................................... 55

4.1.6.

Xưởng in .................................................................................................... 55

4.1.7.


Bộ tiền 1951 – 1959 ................................................................................... 58

4.1.8.

Bộ tiền 1959 – 1978 ................................................................................... 61

4.1.9.

Tiền kim loại 1945 – 1976 ......................................................................... 66

4.2.

Tiền Việt Nam Cộng hòa (1964 – 1977) ........................................................... 67

4.2.1.

Tiền UBTW Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam (1964 – 1967) ....... 68

4.2.2.

Tiền Ngân hàng Việt Nam ......................................................................... 72

4.2.3.

Tiền kim loại (1964 – 1977) ....................................................................... 75

4.3.

Tiền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1976 đến nay) ............................... 76


4.3.1.

Bộ tiền 1978 – 1985 ................................................................................... 76

4.3.2.

Bộ tiền 1985 – 1987 ................................................................................... 81

4.3.3.

Bộ tiền 1987 đến nay ................................................................................. 86

4.3.4.

Tiền kim loại (1976 đến nay) ..................................................................... 94

5. Bạc nén và vàng nén ............................................................................................... 97
6. Tiền lưu niệm .......................................................................................................... 98
7. Các bản tin về tiền Việt Nam .................................................................................. 98
7.1.

Tiền xu Đông Dương tại Việt Nam ................................................................... 98

3


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Tiền Việt Nam được phát hành lần đầu vào giữa thế kỷ 10, thời kỳ nhà nước Đại

Cồ Việt dưới sự trị vì của Đinh Bộ Lĩnh. Thời phong kiến, gần như mỗi đời vua lại cho
phát hành loại tiền mới. Nhiều khi, mỗi lần thay đổi niên hiệu, vua lại cho phát hành loại
tiền mới. Suốt một thời gian dài, tiền kim loại là thứ tiền duy nhất và mô phỏng theo tiền
kim loại của các triều đình Trung Quốc. Tiền giấy xuất hiện ở Việt Nam khá sớm so với
thế giới, vào năm 1396.
Nhiều đồng tiền cổ được một số tư liệu cho là có, nhưng chưa được khảo cổ học
kiểm chứng. Một số khác sử liệu không hề nhắc đến, nhưng khảo cổ học lại phát hiện ra
và sau đó được các nhà sử học xác minh thêm. Sử liệu cho thấy trong một số đời vua,
trong một số niên hiệu, và một số thủ lĩnh tự xưng vua có phát hành tiền, nhưng không
nói rõ tiền gì trong khi khảo cổ học cũng không tìm ra tiền nào cho các thời đó. Désiré
Lacroix trong "Tiền cổ học An Nam, với sưu tập 40 hình vẽ" công bố năm 1900 nhắc đến
một số đồng tiền cổ của Việt Nam và còn miêu tả hình thù, nhưng không đưa ra tài liệu
lịch sử hay bằng chứng khảo cổ nào hỗ trợ.
1.

Khái quát về tiền cổ

1.1.

Hình thức tiền cổ
Mặt trước
Ngoại trừ tiền giấy phát hành dưới thời Hồ Quý Ly, tiền cổ của Việt Nam đều

được đúc bằng kim loại dạng hình tròn với lỗ vuông ở chính giữa.
Mặt chính của đồng tiền có các chữ Hán mà ít nhất có hai chữ (vị trí 1 và 2)
thường là niên hiệu của nhà vua và hai chữ sau (vị trí 3 và 4) dùng để chỉ loại tiền. Cũng
có thể có loại tiền không có hai chữ này. Vị trí của bốn chữ đôi khi viết theo chiều thuận
của kim đồng hồ và đôi khi viết theo kiểu chéo.

4



LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Mặt trước của đồng tiền, viền tròn của rìa tiền và viền vuông của lỗ tiền thường
được viền nổi để giảm bớt sự hao mòn của chữ đúc và việc mài dũa mặt tiền để lấy bớt
chất đồng của kẻ gian.
Mặt sau
Mặt sau của tiền thường không có chữ, tuy nhiên một số nhỏ có chữ để chỉ một
trong các ý nghĩa sau:
• Triều đại nhà vua, như chữ Ðinh của tiền Thái Bình hưng bảo, chữ Lê của tiền
Thiên Phúc Trấn Bảo của nhà Tiền Lê, chữ Trần của tiền Thiệu Phong thông bảo
của vua Trần Dụ Tông.
• hoặc năm phát hành của tiền, như Nhâm Tuất của tiền Cảnh Hưng Thông Bảo để
chỉ tiền đúc trong năm Nhâm Tuất 1742, như chữ Tỵ của tiền Vĩnh Thịnh Thông
Bảo để chỉ năm đúc Qúy Tỵ 1713.
• hoặc lòng yêu qúy của vua như chữ Càn Vương, để chỉ Càn Vương Lý Nhật Trung
là con vua Lý Thái Tông, trên tiền Thiên Cảm Thông Bảo của Lý Thái Tông.
• hoặc nơi đúc đồng tiền như Hà Nội hoặc Sơn Tây trên tiền Tự Ðức Thông bảo,
như chữ Công cho Bộ Công - một trong 6 Bộ - trên tiền Quang Trung Thông Bảo.
• hoặc một chữ có ý nghĩa tốt đẹp như chữ Chính, để chỉ đến chính pháp công bằng,
trên tiền Quang Trung Thông Bảo.
• hoặc mang những ký hiệu đặc biệt đánh dấu đợt tiền đúc, như 4 hình cong úp vào
hay vểnh ra từ lỗ vuông của tiền Quang Trung Thông Bảo, như 1 dấu chấm và 1
dấu hình cong tượng trưng cho 2 chữ Nhật Nguyệt, tức chữ Minh, để tưởng nhớ
nhà Minh, trên tiền Thái Bình Thông Bảo do Mạc Thiên Tứ đúc ở Hà Tiên.
5


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ


• hoặc ghi trọng lượng của tiền như chữ Thất Phân trên tiền Gia Long Thông Bảo
• hoặc ghi trị giá ấn định của tiền như chữ Lục Văn trên tiền Tự Ðức Thông Bảo.
Kích thước và trọng lượng.
Các đồng tiền cổ có đường kính trung bình từ 22mm- 24mm, những đồng lớn có
đường kính 25 - 26mm (như tiền Thành Thái thông bảo) và những đồng nhỏ 18 20mm (như đồng Bảo Ðại thông bảo).
Kích thước của lỗ vuông trung bình vào khoảng 5 mm, nhưng cũng có những đồng
tiền có lỗ vuông to đến 7 mm như trường hợp tiền ngoại thương Trường Kỳ tiêu dùng ở
Hội An vào thế kỷ 17. Chiều dày của tiền cổ thường vào khoảng 0,5mm, ngoại lệ tiền
Ðoan Khánh thông bảo của Lê Uy Mục dày đến 1 mm.
Ðường kính và bề dày là hai yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến trọng lượng của đồng
tiền. Những đồng tiền có kích thước và trọng lượng cân đối vừa đủ, không quá dày nặng
sẽ dễ dàng trong việc tiêu dùng. Tiền quá nhẹ mỏng thì dễ gãy vỡ. Với kích thước trung
bình như trên, trọng lượng khoảng 3,5 - 4 gram là vừa phải. Tiền Ðoan Khánh Thông Bảo
của Lê Uy Mục được coi là ngoại cỡ so với các đồng tiền khác, vừa dày vừa to, có đồng
nặng đến 6,2 gram.
1.2.

Tên gọi tiền cổ
Hai chữ ở vị trí 1 và 2 trên đồng tiền thường là niên hiệu của vị vua cho đúc tiền.

Hai chữ này do đó thường phản ánh thời gian tiền được đúc.
Các chữ thứ 3 và thứ 4 trên đồng tiền có ý nghĩa, nguồn gốc khác nhau, trong đó
có những chữ noi theo cách gọi của tiền cổ do các triều đại Trung Quốc phát hành; hoặc
do hoàn cảnh, sự kiện lịch sử đương thời; hoặc đơn giản chỉ là hàm ý nhấn mạnh giá trị
đồng tiền:


Thông bảo 通寶 là chữ thường thấy nhất trên các đồng tiền, nghĩa là đồng


tiền lưu hành thông dụng. Hai chữ này xuất hiện đầu tiên trong tiền Khai Nguyên
Thông Bảo do Đường Cao Tổ của Trung Quốc đúc năm 621.
6


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ



Nguyên bảo 元寶: tiền mới đầu tiên



Đại bảo 大寶: tiền có giá trị lớn

Ngoài những chữ trên hay được dùng, còn có những chữ khác đúc trên tiền cổ là:


Vĩnh bảo 永寶: tiền lưu thông mãi mãi



Chí bảo 至寶: tiền cao quý nhất. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ "chí bảo"

là tiền Gia Định Chí Bảo của Tống Ninh Tông (1208-1224).


Chính bảo 正寶: tiền chính thống. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ "chính

bảo" là tiền Gia Định Chính Bảo của Tống Ninh Tông (1208-1224).



Cự bảo 巨寶: tiền có giá trị to



Trọng Bảo 重寶: Đồng tiền trọng yếu. Đồng tiền đầu tiên dùng hai chữ

"trọng bảo" là tiền Càn Nguyên Trọng Bảo của Đường Túc Tông (758-759).


Thuận Bảo 順寶: tiền của vua Lê Hiển Tông, kỷ niệm dịp chiếm đóng

Thuận Hóa và lấy súng đồng của chúa Nguyễn ở Thuận Hoá mà đúc thành tiền
1.3.

Đơn vị và mệnh giá

Đơn vị đếm
Tiền kim loại cổ của Việt Nam cũng giống như tiền kim loại của Trung Quốc
đương thời có hình tròn có lỗ ở giữa để xỏ dây qua. Tiền kim loại khi dùng đơn độc thì
gọi là văn (文). Khi cần dùng nhiều văn thì người ta thường luồn một sợi dây (gọi là
"cưỡng" 繦, "mân" 緡, "quán" 貫) qua cái lỗ trên văn tạo thành dây tiền. "Cưỡng",
"mân", "quán" được dẫn thân làm đơn vị tính toán tiền. Số văn tương ứng với "cưỡng",
"mân", "quán" giữa các triều đại là không giống nhau. "Bách" 陌 là dạng viết đại tả của
chữ "bách" 百 có nghĩa là một trăm ban đầu được dùng để chỉ 100 văn nhưng về sau thì
một bách không nhất định là bằng 100 văn.

7



LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Năm Kiến Trung (建中) thứ 2 (Tây lịch năm 1266) vua Trần Thái Tông (陳太宗)
hạ chiếu cho dân gian dùng "sảnh bách" (省陌), mỗi bách là 69 văn. Tiền nộp cho nhà
nước (上供錢 thượng cung tiền) thì mỗi bách là 70 văn.
Ðời nhà Nguyên, người Việt mua bán ở biên giới Trung Quốc thì dùng đơn vị 1
mân bằng 67 văn.
Năm Thuận Thiên nguyên niên (順天元年, Tây lịch năm 1428), triều Lê cho đúc
tiền Thuận Thiên thông bảo (順天通寶), quy định 50 văn là một bách.
Năm Thiệu Bình (紹平) thứ 6 (Tây lịch năm 1439), Lê Thái Tông (黎太宗) hạ
chiếu quy định 60 văn là một bách.
Thời Nam Bắc triều, chiến tranh đã khiến đồng tiền được đúc nhỏ dần so với
những đồng tiền cổ đời trước. Tiền nhỏ bấy giờ gọi là sử tiền (使錢) biệt xưng là "tiền
nhàn" (閒錢 nhàn tiền), còn tiền cổ to gọi là cổ tiền (古錢), biệt xưng là "tiền quý" (貴錢
quý tiền). Mỗi bách sử tiền là 36 văn, mỗi bách cổ tiền là 60 văn. Mười bách là một quán
(貫). Một quán sử tiền (10 bách sử tiền) bằng 6 bách cổ tiền, tức là bằng 360 văn. Một
quán cổ tiền (10 bách cổ tiền) bằng 1 quán 6 bách 24 văn sử tiền, tức là bằng 600 văn.
Ðơn vị tiền tệ ở Đại Việt thay đổi khi tiền kẽm bắt đầu xuất hiện vào thế kỷ 18 bởi
nhiều lý do. Một văn tiền đồng ăn 3 văn tiền kẽm.
Khi vua Gia Long thành lập nhà Nguyễn, đã cho đúc cả hai thứ tiền đồng và tiền
kẽm. Giá trị tiền kẽm lúc ban đầu không khác biệt tiền đồng, nhưng dần dần tiền đồng ăn
2 tiền kẽm, rồi 3, rồi 6, cho đến đời vua Thành Thái, tiền Thành Thái Thông Bảo Thập
Văn ăn ngang 10 tiền kẽm.
Hiện nay các đơn vị hoá tệ này thường bị gọi bằng các đơn vị hoá tệ thông dụng ở
Việt Nam thời cận hiện đại, cụ thể "văn" bị gọi là "đồng", "bách" gọi là "tiền", "cưỡng",
"mân", "quán" gọi là "quan" (biến âm của "quán" 貫).
8



LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Từ thời Pháp thuộc, ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện các đơn vị đếm là hào (毫), xu
(sou), trinh, cắc (đọc chệch âm chữ "giác" 角), đồng [biến chữ "đồng" trong "đồng tiền"
銅錢 (tiền làm bằng đồng) từ tên gọi của một thứ kim loài trở thành lượng từ dùng để đo
đếm tiền nong]. Tiền Việt Nam kể từ sau khi đất nước giành độc lập có các đơn vị đếm là
đồng, hào và xu. Một đồng bằng mười hào. Một hào bằng mười xu. Hiện nay, tiền giấy
và tiền kim loại chỉ được phát hành với một đơn vị đếm duy nhất là đồng.
Mệnh giá
Tiền cổ thường chỉ có một mệnh giá, đó là 1 văn. Một bách là một xâu tiền 1 văn.
Và một mân thường là mười xâu một bách. Tiền giấy do nhà Hồ có nhiều mệnh giá khác
nhau. Mệnh giá lớn nhất là 10 văn. Mệnh giá nhỏ nhất là 1 văn. Tiền kim loại từ thời nhà
Nguyễn cũng bắt đầu có các mệnh giá khác nhau. Tiền Việt Nam hiện nay còn lưu hành
loại có mệnh giá thấp nhất là 200 đồng, loại có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng (tiền
polymer).
1.4.

Chất liệu

Tiền cổ Việt Nam có nhiều loại:
• Đồng tiền (銅錢, có nghĩa là tiền đồng): là kim loại thông dụng nhất dùng đúc hầu
hết tiền cổ của Việt Nam. Ðây là một hợp kim của đồng gồm thêm kền, sắt, thiếc
mà thành phần rất thay đổi bởi kỹ thuật luyện kim thời xa xưa chưa được tiêu
chuẩn hóa. Tác giả Tạ Chí Ðại Trường đã trích dẫn một bảng kết quả phân tích
thành phần hóa học của tiền Trị Bình Nguyên Bảo gồm 63,6% đồng, 21% chì,
0,14% thiếc và 0,27% sắt. Ðến thời nhà Nguyễn, nhờ kiến thức phát triển hơn,
đồng dùng đúc tiền chỉ gồm đồng và kẽm theo tỷ lệ 6/4, 7/3 hay 8/2.
• Tiền đúc bằng kẽm: kẽm là kim loại thông dụng thứ nhì sau đồng được dùng để
đúc tiền, nhất là từ thế kỷ 17 trở về sau. Như hợp kim đúc tiền đồng, người ta sử
dụng những tạp chất có thành phần kẽm khá cao, gọi chung là ô diên mà đúc tiền.

Lacroix Désiré dẫn từ Agenda du chimiste của Ad Wurtz cho thấy thứ kẽm tạp này
chứa 55% đồng, 23% kền, 17% kẽm, 3% sắt và 2% thiếc. Tương tự tiền đồng,
9


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

triều đình nhà Nguyễn cũng biết tinh luyện kẽm hoặc mua kẽm nguyên chất từ
nước ngoài mà đúc tiền.
• Duyên tiền (鉛錢, tiền đúc bằng chì): chì là kim loại mềm được pha thêm kim loại
khác để có một hợp kim đúc tiền chì. Loại tiền có lượng chì cao khá mềm, đặt nhẹ
giữa hai ngón tay, ấn nhẹ là đồng tiền có thể bị bẻ cong. Hiện nay, hơn 400 mẫu
tiền chì Việt Nam đã được nhận diện nhưng nguồn gốc của thứ tiền này vẫn còn là
một nghi vấn chưa được giải đáp thỏa đáng.
• Thiết tiền (鐵錢, tiền sắt): Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, khi Mạc Đăng Dung lấy
ngôi vua của nhà Hậu Lê, sử thần cho rằng nhà Mạc không được lòng trời nên đúc
tiền đồng không thành mà phải đúc tiền sắt để tiêu dùng. Ðó là lần đầu tiên tiền sắt
được nhắc đến. Tuy vậy, di chỉ khảo cổ hiện đại cho thấy không có tiền sắt Minh
Ðức Thông Bảo của nhà Mạc, mà chỉ thấy tiền đồng. Và trong tiền cổ Việt Nam
có một số mẫu tiền đồng nhưng lại rỉ sét đỏ khá bất thường của sắt, nhất là tiền
Hồng Ðức Thông Bảo và Minh Ðức Thông Bảo. Các nhà nghiên cứu đặt giả thiết,
có thể vào lúc đó, hợp kim đồng có chứa nhiều sắt hơn lúc bình thường được sử
dụng, vì ngẫu nhiên hoặc vì cho dễ đúc, chứ không có loại tiền sắt.
• Tiền đúc bằng vàng: Thường là tiền dùng để ban thưởng của vua
• Ngân tiền (銀錢, tiền bạc): Thường là tiền dùng để ban thưởng của vua
• Sáo (鈔, tiền giấy): của nhà Hồ phát hành
2.

Tiền cổ các triều đại Việt Nam


2.1.

Tiền đồng đầu tiên của người Việt
Đồng Thái Bình hưng bảo dưới thời Đinh Tiên Hoàng. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh

dẹp xong loạn 12 sứ quân xưng hoàng đế. Từ năm 970, Vua đặt niên hiệu Thái Bình, Việt
Nam mới có đồng tiền đúc đầu tiên mang niên hiệu của vị hoàng đế nước mình là tiền
Thái Bình hưng bảo. (Theo nhà biên khảo Phạm Thăng thì tiền đúc bằng đồng đầu tiên
của người Việt là dưới triều nhà Tiền Lý. Vua Lý Nam Đế cho đúc đồng Thiên Đức
thông bảo năm 541 nhưng đến năm 602 thì triều đại này kết thúc và loại tiền này cũng
thất truyền nên ta không có mẫu nào để căn cứ hình dạng. Đời nhà Tống bên Tàu năm
10


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

944 cũng cho phát hành đồng Thiên Đức thông bảo nên dễ ngộ nhận đồng Thiên đức thế
kỷ thứ 10 của vua Tàu và đồng Thiên đức thế kỷ thứ sáu của vua Việt.)
Khi lên làm vua, Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình và cho đúc tiền Thái
Bình hưng bảo bằng đồng. Đây là tiền duy nhất được phát hành trong thời nhà Đinh, vì
cho dù sau này có sự thay đổi ngôi vua trong họ Đinh nhưng không có sự thay đổi niên
hiệu. Hiện các nhà sử học và khảo cổ học chưa được xác định chính xác thời điểm xuất
hiện tiền này.
Khảo cổ học cho thấy Thái Bình hưng bảo có ba loạt khác nhau. Cả ba loạt đều có
lỗ hình vuông ở giữa và có đường kính không đều nhưng bình quân khoảng 22 mm. Cả
ba loạt đều có mặt trước ghi chữ Thái Bình hưng bảo bằng chữ Hán. Có một loạt thay vì
chữ Thái lại là chữ Đại. Hiện chưa rõ: do lâu ngày đồng tiền đó bị hỏng nên mất một
chấm, hay đó thực sự là chữ Đại nhưng được đọc là Thái. Về mặt sau, thường có chữ
Đinh (họ của vua) đúc nổi; nhưng có một loạt không có chữ gì.
Sử liệu cũ của Việt Nam không đề cập đến việc nhà Đinh có đúc tiền. Tuy nhiên,

sử liệu cũ của Trung Quốc thì có nhắc đến và dựa vào đó Bành Tín Uy viết rằng năm 970
Đinh Bộ Lĩnh ở Việt Nam đúc tiền Thái Bình hưng bảo. Theo Đỗ Văn Ninh, việc sử liệu
cũ của Việt Nam không nhắc đến việc này có thể là do nền kinh tế tiền tệ thời nhà Đinh
còn mới manh nha, tiền không thực sử được sử dụng nhiều, trao đổi hàng hóa là chính,
lương bổng và thuế má đều bằng hiện vật.
2.2.

Tiền nhà Tiền Lê
Nhà Tiền Lê khởi đầu từ Lê Hoàn. Khi cai trị, Lê Hoàn đã dùng ba niên hiệu, song

chỉ đúc duy nhất tiền Thiên Phúc trấn bảo, lấy tên theo niên hiệu đầu tiên. Các vua tiền
Lê sau không cho đúc tiền.
Sử liệu cũ của Việt Nam là Đại Việt sử ký toàn thư và Việt sử thông giám cương
mục đều có nhắc đến việc tiền Thiên Phúc được đúc từ mùa xuân năm 984. Điều này cho
thấy: thứ nhất, bốn năm đầu khi lên làm vua nhà Lê vẫn dùng tiền do nhà Đinh phát hành;
thứ hai, tiền đã được sử dụng nhiều hơn.
Khảo cổ học cho thấy Thiên Phúc trấn bảo có ba loạt đều có hình thù giống tiền

11


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

của nhà Đinh. Một loạt mặt trước có bốn chữ Thiên Phúc trấn bảo và mặt sau có chữ Lê
(họ của vua), một loạt mặt trước giống như loạt trên nhưng mặt sau lại không có chữ gì,
và một loạt nữa mặt sau có chữ Lê nhưng mặt trước lại không có chữ gì. Theo Đỗ Văn
Ninh, sở dĩ có sự khác nhau như vậy có thể là vì trong quá trình đúc tiền, xưởng đúc đã
ráp nhầm hai mặt của các khuôn đúc.

Đồng Thiên Phúc trấn bảo, mặt trước (trái) và mặt sau ghi chữ Lê (phải)

2.3.

Tiền nhà Lý

Thuận Thiên đại bảo (1010-1028)

Thuận Thiên đại bảo

Đây là tiền kim loại được giới nghiên cứu tiền cổ ở Việt Nam cho là của Lý Thái
Tổ vì ông vua này có một niên hiệu là Thuận Thiên. Bên Trung Quốc có Sử Tư Minh khi
làm vua cũng có niên hiệu Thuận Thiên, nhưng ông này cho đúc tiền Thuận Thiên
nguyên bảo đương bách. Sau này, Lê Thái Tổ cũng lấy niên hiệu Thuận Thiên, nhưng
tiền đúc ra gọi là Thuận Thiên thông bảo hoặc Thuận Thiên nguyên bảo.
Đại Việt sử ký toàn thư cho thấy tiền đã được sử dụng và phát hành nhiều trong
thời Lý Thái Tổ. Cả lương bổng lẫn tô thuế đều có thể trả bằng tiền.

12


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Càn Phù nguyên bảo (1039-1041)

Càn Phù nguyên bảo
Sử liệu cũ của Việt Nam và kết quả khảo cổ đều không cho thấy có loại tiền này.
Song, Lacroix và các tác giả Lịch sử phong kiến Việt Nam (tập I) đều cho là có và cũng
do Lý Thái Tông phát hành.
Như vậy theo một số tài liệu, Việt Nam vào thời vua Lý Thái Tông đã đúc hai loại
Minh Đạo thông bảo và Càn Phù nguyên bảo. Song, khảo cổ học Việt Nam chưa cho thấy
cả hai loại tiền này.

Minh Đạo thông bảo (1042-1043)
Tương truyền là do Lý Thái Tông cho phát hành. Sử liệu Lịch triều hiến chương
loại chí có ghi rằng vua Lý Thái Tông cho đúc tiền Minh Đạo, nhưng không ghi rõ có
phải là Minh Đạo thông bảo hay không.
Thiên Phù nguyên bảo (1120-1127)
Được cho là do Lý Nhân Tông phát hành vì ông có hai niên hiệu có chữ Thiên Phù
trong đó. Sử liệu cũ của Việt Nam không nhắc đến tiền này. Nhưng khảo cổ học cho thấy
có tiền Thiên Phù thông bảo với đường kính chừng 20 mm với mặt trước có bốn chữ
Thiên Phù nguyên bảo đọc theo vòng tròn, mặt sau để trơn, có lỗ, không có gờ. Đỗ Văn
Ninh cho rằng kích thước đồng tiền này nhỏ hơn so với các đồng tiền thời trước là vì thời
Lý Nhân Tông trị vì có nhiều chiến tranh, nên giành được ít đồng hơn cho việc đúc tiền.

13


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Thiên Thuận thông bảo (1128-1132)
Đại Định thông bảo (1140-1162)
Thiên Cảm thông bảo (1174-1175)
Lacroix có nhắc đến tiền này và còn công bố hình thù đồng tiền. Ông cho rằng đây
là tiền do Lý Anh Tông phát hành vì vua này có một niên hiệu trong đó có chữ Thiên
Cảm. Tiền có gờ và mép rõ ràng. Khảo cổ học Việt Nam chưa tìm ra loại tiền này. Các
vua Trung Quốc không có ai có niên hiệu có chữ Thiên Cảm.
Thiên Tư thông bảo (1186-1201)
Không thấy chính sử đề cập đến đồng tiền này. Lacroix đã từng công bố một mẫu
tiền mà mặt trước có bốn chữ Thiên tư thông bảo, mặt sau để trơn. Lý Cao Tông có một
niên hiệu trong đó có chữ Thiên Tư. Các vua Trung Quốc không ai có niên hiệu có chữ
này.
Trị Bình thông bảo (1205-1210)

Trị Bình nguyên bảo (1205-1210)
2.4.

Tiền nhà Trần

2.4.1. Tiền trong đời sống kinh tế xã hội
Trước thời Trần, sách sử Việt Nam không nói rõ quan hệ giữa các đơn vị tiền tệ.
Thời Trần Thái Tông được các nhà nghiên cứu ghi nhận là lần đầu tiên sử sách phản ánh
quan hệ này. Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép vào năm 1226, triều đình "xuống
chiếu cho dân gian dùng tiền "tỉnh bách" (hay "tỉnh mạch) mỗi tiễn là 69 đồng. Tiền nộp
cho nhà nước (tiền "thượng cung") thì mỗi tiễn là 70 đồng".
Tiền tỉnh mạch là tiền rút bớt giá trị của bạc đi. Theo truyền thống, 1 lạng bạc = 1
quan = 1000 đồng nhưng từ thời Ngũ Đại rút bớt giá trị, sang thời Tống cũng theo tỉ lệ
này: 1 quan chỉ còn tương đương 770 đồng. Nhà Trần cũng theo lệ tỉnh mạch, nghĩa là
trong lưu thông 1 quan = 10 tiền = 690 đồng (còn gọi là văn), nhưng khi nộp thuế cho
14


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

triều đình thì phải đóng thành 700 đồng. Sách An Nam chí lược của Lê Tắc cũng ghi
nhận điều này, đồng thời phản ánh việc đồng tiền nhà Tống và nhà Đường lưu hành trong
nước như thời Lý.
Mặc dù triều đình ấn định tỷ lệ tiền tệ nhưng trong thực tế không hoàn toàn theo
đúng như vậy. Giá trị đồng tiền và tỷ giá bạc vẫn giảm theo mức cung cầu của hai kim
loại trên thị trường vào một thời điểm hay ở một khu vực. Càng về sau, tỷ lệ giá trị càng
thấp. Theo Paul Pelliot, tới năm 1350 tỷ giá còn 1 tiền = 67 đồng để trao đổi 1 lạng bạc
tiền giấy nhà Nguyên (Trung Thống ngân hóa ra đời từ thời Nguyên Thế Tổ), mà tiền bạc
giấy này vốn chỉ có giá trị bằng 1/10 lạng bạc thật, tức là 1 quan Đại Việt vào thời điểm
năm 1350 bằng 670 đồng.

2.4.2. Tiền giấy xuất hiện
Cuối thời Trần, ngoại thích Hồ Quý Ly nắm quyền thao túng triều đình. Ông thực
hiện những cải cách đầu tiên về kinh tế. Năm 1396 thời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly
nhân danh nhà Trần phát hành tiền giấy "Thông bảo hội sao", đây chính là loại tiền giấy
đầu tiên trong lịch sử tiền tệ Việt Nam.
Những quy định về thể thức về tiền hội sao thực hiện theo đề nghị của Thiếu bảo
Vương Nhữ Chu. Sắc dụ quy định các đơn vị như sau:
• 10 đồng vẽ rau rong
• loại 30 đồng vẽ thủy ba
• loại một tiền vẽ đám mây
• loại hai tiền vẽ con rùa
• loại ba tiền vẽ con lân
• loại 5 tiền vẽ con phượng
• loại một quan vẽ con rồng.
Khi tiền giấy đã in xong, hạ lệnh cho dân được đem tiền thực đổi lấy tiền giấy: cứ
một quan tiền thực chất đổi lấy tiền giấy một quan hai tiền. Triều đình đặt ra quy định bắt
15


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

buộc phải dùng tiền giấy không được dùng tiền đồng, bao nhiêu tiền đồng đều nộp vào
quan, rồi dồn vào kho Ngao Trì ở kinh thành. Nếu người nào tàng trữ riêng hoặc tiêu
dùng riêng cũng phải tội tội tử hình, tịch thu điền sản sung công. Người làm giả tiền giấy
cũng bị xử tội như vậy.
Đương thời bên Trung Quốc thời nhà Minh cai trị, tiền giấy đã quen thuộc với
người Trung Quốc và tiền giấy có thể mang đổi ra tiền đồng truyền thống nhưng tiền giấy
Đại Việt đương thời không được chuyển đổi ra tiền đồng. Điều này khiến người dân
không tin tưởng vào đồng tiền giấy mà họ bị bắt buộc phải sử dụng.
Chỉ 4 năm sau (1400), Hồ Quý Ly giành ngôi nhà Trần, lập ra nhà Hồ, và tiếp tục

áp dụng chế độ tiền giấy.
2.4.3. Các đồng tiền thời Trần
Thời Trần Minh Tông, nhà Trần đúc tiền bằng hợp kim gọi là "diên tiền", các nhà
nghiên cứu không kết luận đó là tiền hợp chất kẽm, tiền chì hay tiền thiếc, và không rõ tỷ
lệ hợp kim tạo ra đồng tiền ra sao. Chắc chắn đây không phải là tiền kẽm đơn chất vì
sang thế kỷ 19 mới tinh luyện được kẽm. Tuy nhiên việc đúc tiền kẽm chỉ được làm thử
nghiệm và ngay sau đó bị bãi bỏ. Các nhà nghiên cứu đặt giả thiết có thể đây là hợp kim
thiếc, chì mà Đại Việt được tiếp cận qua người Chiêm Thành, vốn đã biết đến khi giao
thương với Chân Lạp.
Các đồng tiền nhà Trần qua các đời vua gồm có:
Nguyên Phong thông bảo
Khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện ra tiền kim loại Nguyên Phong. Nhưng bên
Trung Quốc cũng có loại tiền này, nên hiện chưa kết luận được thứ tìm thấy ở Việt Nam
là do nước nào đúc. Nguyên Phong là niên hiệu thứ ba của vua Trần Thái Tông. Vào hai
thời có niên hiệu trước, vua cũng cho phát hành tiền, nhưng sử liệu không nói và khảo cổ
học không cho biết đó là tiền tên gì.

16


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Khai Thái nguyên bảo
Đỗ Văn Ninh có cho biết rằng Trần Huy Bá đã thấy tiền này ở Viện Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam năm 1960. Khai Thái là một niên hiệu của Trần Minh Tông. Các vua Trung
Quốc không có niên hiệu nào như vậy.
Thiệu Phong bình bảo, Thiệu Phong nguyên bảo
Sử liệu không ghi nhưng khảo cổ học Việt Nam lại phát hiện ra thứ tiền kim loại
này và cho là do Trần Dụ Tông phát hành. Tiền có lỗ ở giữa và có gờ và mép không rõ.
Mặt trước tiền ghi bốn chữ Thiệu Phong thông bảo. Mặt sau để trơn. Tiền nhỏ, mỏng,

đường kính 21 mm.
Khảo cổ học còn tìm ra tiền Thiệu Phong thông bảo, hình thù như Thiệu Phong
bình bảo và mặt sau cũng để trơn.
Đỗ Văn Ninh cho biết Trần Văn Bá đã thấy tiền Thiệu Phong nguyên bảo đường
kính tới 40 mm và mặt sau có chữ Thập tam ở Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam vào năm
1960.
Đại Trị thông bảo
Cũng là tiền do Trần Dụ Tông phát hành. Đại Việt sử ký toàn thư có cho biết rằng
vào năm 1360 đã đúc tiền này. Khảo cổ học cho biết tiền này có kích thước lớn hơn tiền
Thiệu Phong một chút.
Thông bảo hội sao
Tiền giấy đầu tiên phát hành thời Trần Thuận Tông.
2.5.

Tiền nhà Hồ

Tiền giấy Thông Bảo hội sao (會鈔)
17


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Năm 1396, 4 năm trước khi nhà Hồ thay thế nhà Trần làm vua Việt Nam, tiền giấy
mang tên Thông Bảo hội sao được phát hành. Lúc đó đang là niên hiệu Quang Thái của
vua Trần Thuận Tông, nhưng việc ban bố các chủ trương chính sách quan trọng của đất
nước lại do Hồ Quý Ly nắm. Chủ trương phát hành tiền giấy này chính là của Hồ Quý
Ly. Mục đích của ông là dùng tiền giấy để thay thế tiền kim loại, qua đó thu hồi kim loại
về kho triều đình. Nhiều ý kiến thống nhất rằng, sự ra đời tiền giấy Thông Bảo hội sao
không phản ánh trình độ phát triển của kinh tế tiền tệ ở Việt Nam đương thời.
Khảo cổ học Việt Nam chưa phát hiện ra di vật tiền giấy Thông Bảo hội sao,

nhưng Đại Việt sử ký toàn thư nhắc đến rõ ràng đến tên loại tiền này.
Tiền Thông Bảo hội sao có bảy mệnh giá khác nhau, đó là: 10 văn (十文 thập
văn), 30 văn (三十文 tam thập văn), 1 bách (一陌 nhất bách), 2 bách (二陌 nhị bách), 3
bách (三陌 tam bách), 5 tiền (五陌 ngũ bách), 1 mân (一緡 nhất mân). Không thấy Đại
Việt sử ký toàn thư ghi lại tỷ lệ giữa các đơn vị văn, bách và mân của tiền Thông Bảo hội
sao thế nào. Tiền kim loại đang lưu hành phải được đem đến đổi lấy tiền giấy theo tỷ lệ 1
cưỡng (繦, chưa rõ là bao nhiêu văn) đổi lấy 1 mân 2 bách tiền giấy.
Về hình thức, không rõ kích thước, hình dáng, màu sắc ra sao. Đại Việt sử ký toàn
thư chỉ ghi sơ lược rằng tiền mệnh giá 10 văn có vẽ hình rong, mệnh giá 30 văn có vẽ
hình sóng, mệnh giá 1 bách có vẽ mây, 2 bách có vẽ rùa, 3 bách có vẽ lân, 5 bách có vẽ
phượng, và 1 mân có vẽ rồng.
Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi lại rằng tiền Thông Bảo hội sao không được nhân
dân ưa dùng, chẳng qua vì luật quy định mà phải sử dụng.
Thánh Nguyên thông bảo (1400-1401)
Thời nhà Hồ, tuy phát hành tiền giấy Thông bảo hội sao và đổi thu hồi tiền kim
loại về, song có thể Hồ Quý Ly cũng cho phát hành một lượng nhất định tiền kim loại
mang niên hiệu Thánh Nguyên (1400-1401) của mình. Khảo cổ học đã phát hiện được ở

18


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Việt Nam nhiều đồng tiền kim loại Thánh Nguyên thông. Theo Đỗ Văn Ninh, trong các
vua Trung Quốc và Việt Nam, chỉ có Hồ Quý Ly có niên hiệu Thánh Nguyên.
Tiền kim loại Thánh Nguyên thông bảo có hình tròn, lỗ vuông, kích thước nhỏ
(đường kính từ 19 đến 20 mm), mỏng. Mặt trước có bốn chữ Thánh Nguyên thông bảo
đọc chéo từ trên xuống và từ phải qua trái, gờ viền mép và lỗ rõ ràng. Nhưng mặt sau lại
để trơn và không có gờ và viền mép hay lỗ.
Một trong các mục đích phát hành tiền kim loại Thánh Nguyên thông bảo là để

quảng bá niên hiệu Thánh Nguyên của vua mới.
2.6.

Tiền nhà Hậu Lê

Thuận Thiên thông bảo (1428-1433), Thuận Thiên nguyên bảo
Sau khi đánh bại hoàn toàn quân Minh xâm lược, chẳng cần đợi nhà Minh công
nhận, ngày 15 tháng 4 năm 1428, Lê Lợi xưng vua và lấy niên hiệu là Thuận Thiên; một
tháng sau thì cho đúc tiền kim loại Thuận Thiên thông bảo bằng đồng mà không tiếp tục
chính sách sử dụng tiền giấy của nhà Hồ. Đó là theo Đại Việt sử ký toàn thư. Còn theo
phát hiện của khảo cổ học, thì tên tiền kim loại đó có lẽ là Thuận Thiên nguyên bảo. Hiện
các nhà nghiên cứu còn chưa có kết luận được là sử chép sai "nguyên" thành "thông" hay
Lê Lợi cho đúc hai loại nhưng hiện mới chỉ phát hiện di chỉ loại Thuận Thiên nguyên
bảo.
Thuận Thiên nguyên bảo có kích thước to hơn, dày hơn và được đánh giá là đẹp
hơn các đồng tiền kim loại của các thời trước ở Việt Nam. Đường kính tiền là 25 mm,
dày dặn. Mặt trước đúc nổi bốn chữ Hán là Thuận Thiên nguyên bảo với nét viết chân
phương. Mặt sau không có chữ hay hình gì, viền mép và gờ viền lỗ rõ ràng và đều đặn.
Thuận Thiên thông bảo có ba đơn vị đếm là đồng, tiền và quan. Đại Việt sử ký
toàn thư cho biết 1 tiền bằng 50 đồng.
Thiệu Bình thông bảo (1434-1439)
19


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Đây là tiền kim loại do Lê Thái Tông cho đúc khi lên ngôi năm 1434 và đặt niên
hiệu là Thiệu Bình (1434-1439). Về kiểu dáng, Thiệu Bình thông bảo căn bản giống
Thuận Thiên nguyên bảo. Ban đầu, 1 tiền bằng 50 đồng như theo quy định của đời vua
trước, nhưng từ năm 1439 thì định lại 1 tiền bằng 60 đồng.

Đại Bình thông bảo
Sử không nhắc đến tiền này, nhưng Lacroix công bố mẫu của nó và do vua Việt
Nam và vua Trung Quốc không còn ai đặt niên hiệu là Đại Bình nữa, nên Đỗ Văn Ninh
cho rằng đó là tiền do Lê Thái Tông cho đúc và đặt tên theo niên hiệu thứ hai của ông,
Đại Bình (1440-1442). Như vậy, dưới triều vua Lê Thái Tông của Việt Nam đã lần lượt
có hai tiền kim loại là Thiệu Bình thông bảo và Đại Bình thông bảo.
Thái Hòa thông bảo
Đây là tiền kim loại do Lê Nhân Tông cho đúc và đặt tên theo niên hiệu Thái Hòa
(1443-1453) của mình. Kiểu dáng và kích thước tiền này giống tiền của các vua Lê đời
trước. Tuy nhiên, Lacroix đã công bố một mẫu tiền Thái Hòa thông bảo có kích thước
nhỏ và lưng tiền không có gờ viền. Ngoài ra, ông này còn công bố một mẫu tiền ghi là
Đại Hòa thông bảo. Đỗ Văn Ninh cho rằng có thể viết là Đại song vẫn đọc là Thái.
Diên Ninh thông bảo
Tiền kim loại bằng đồng do Lê Nhân Tông cho đúc khi đổi niên hiệu thành Diên
Ninh. Tiền này được khảo cổ học phát hiện nhiều. Kiểu dáng và kích thước to đẹp giống
như tiền của các đời vua Lê trước.
Thiên Hưng thông bảo
Tiền kim loại do Lê Nghi Dân cho đúc và đặt tên theo niên hiệu Thiên Hưng của
mình. Sử không nhắc đến việc ông vua này cho đúc tiền, song Lacroix có phát hiện và
công bố. Lê Nghi Dân ở ngôi một năm, nên Thiên Hưng thông bảo có thể cũng chỉ được
lưu hành không quá một năm.
20


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Quang Thuận thông bảo
Là tiền do Lê Thánh Tông cho đúc. Di chỉ tiền này được phát hiện khá nhiều.
Quang Thuận thông bảo được Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí khen
là đẹp vào loại nhất trong các tiền kim loại Việt Nam mà ông biết. Không rõ tiền được

bắt đầu phát hành từ năm nào, song niên hiệu Quang Thuận của Lê Thánh Tông bắt đầu
từ năm 1460, kết thúc vào năm 1469.
Hồng Đức thông bảo
Cũng là tiền do Lê Thánh Tông phát hành từ năm 1470 đến năm 1497 theo niên
hiệu thứ hai của mình.
Cảnh Thống thông bảo
Cảnh Thống là niên hiệu duy nhất của Lê Hiến Tông kéo dài khoảng 6 năm. Sử
không ghi về việc ông vua này cho đúc tiền, song khảo cổ học tìm ra nhiều di chỉ tiền
Cảnh Thống thông bảo. Về kiểu dáng thì giống tiền của các vua Lê đời trước, song trọng
lượng thì lớn hơn.
Đoan Khánh thông bảo
Đoan Khánh thông bảo là tiền kim loại do Lê Uy Mục cho đúc. Niên hiệu Đoan
Khánh của ông vua này kéo dài từ năm 1505 đến năm 1509.
Hồng Thuận thông bảo
Đây là tiền kim loại do Lê Tương Dực (ở ngôi từ năm 1509 đến năm 1516 có một
niên hiệu duy nhất là Hồng Thuận). Kích thước và kiểu dáng như các tiền trước đây của
nhà Lê.

21


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Quang Thiệu thông bảo
Đây là tiền do Lê Chiêu Tông cho đúc. Ông vua này chỉ có một niên hiệu là
Quang Thiệu từ năm 1516 đến năm 1522. Hình thức cơ bản giống các tiền nhà Lê trước
đó nhưng xấu hơn, kích thước bé hơn, nhẹ hơn.
Thống Nguyên thông bảo
Thống Nguyên thông bảo do Lê Cung Hoàng (lấy niên hiệu Thống Nguyên) phát
hành. Tiền này đẹp hơn Quang Thiệu thông bảo nhưng vẫn chưa bằng được các tiền nhà

Lê trước đó.
Nguyên Hòa thông bảo
Đây là tiền bằng đồng mang niên hiệu Nguyên Hòa (1533-1548) của Lê Trang
Tông, vị vua đầu tiên của thời Lê Trung Hưng. Tiền này có kích thước nhỏ, được đúc cẩn
thận. Mặt trước có chữ Nguyên Hòa thông bảo đọc chéo. Mặt sau có viền gờ mép và lỗ,
song không có chữ hay hình gì. Nguyên Hòa thông bảo có nhiều loại, trong đó có loại chỉ
có hai chữ Nguyên Hòa viết theo lối chữ triện và có loại thì lại có ba chữ Nguyên Hòa và
bảo viết theo lối chữ triện.
Vĩnh Thọ thông bảo
Vĩnh Thọ là niên hiệu của Lê Thần Tông. Tiền Vĩnh Thọ thông bảo đúc bằng
đồng, đường kính chừng 23 mm.
Vĩnh Trị nguyên bảo, Vĩnh Trị thông bảo
Là các tiền do Lê Hy Tông phát hành (thực tế có thể là do chúa Trịnh phát hành vì
quyền hành mọi mặt trong thực tế thuộc về phủ chúa) mang niên hiệu đầu tiên của ông.
Cả hai loại đều bằng đồng, đúc cẩn thận, đường kính chừng 23 mm.

22


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Chính Hòa thông bảo
Tiền đặt theo niên hiệu thứ hai của Lê Hy Tông. Chữ "Chính" viết là正, dễ nhầm
với Chính Hòa thông bảo của nhà Tống cũng thấy xuất hiện ở Việt Nam với chữ Chính
viết là 政.
Tiền Cảnh Hưng
Tiền Cảnh Hưng có rất nhiều loại và đều bằng kim loại. Đỗ Văn Ninh đã đề cập
đến 40 loại tiền Cảnh Hưng và nhà nghiên cứu này cũng cho biết có người đã liệt kê ra
được đến 80 loại tiền Cảnh Hưng. Sở dĩ có nhiều loại như vậy là vì thời Cảnh Hưng (niên
hiệu của Lê Hiển Tông), không chỉ chính quyền trung ương mà cả các chính quyền địa

phương (ở các trấn) cũng tham gia đúc tiền, và có cả đúc trộm. Các tiền Cảnh Hưng
không chỉ có kích thước khác nhau, chất lượng kim loại khác nhau mà cả các chữ ghi trên
đó cũng khác nhau. Nguyên nhân khác nhau vừa là do những thay đổi trong thiết kế đồng
tiền, vừa là đúc sai quy cách.
Khảo cổ học tìm ra rất nhiều di chỉ tiền Cảnh Hưng cho thấy thời này tiền được
phát hành rất nhiều. Nguyên nhân của việc phát hành nhiều như vậy hiện chưa rõ. Đỗ
Văn Ninh cho rằng:
Thời này kinh tế khó khăn nên thuế má thu của dân không được mấy mà chính
quyền lại có nhu cầu chi tiêu rất lớn cho ăn chơi (thời Lê Hiển Tông cũng là thời các chúa
Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm nổi tiếng về ăn chơi), cho đàn áp các cuộc khởi
nghĩa (các khởi nghĩa của Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, Hoàng
Công Chất,...)... Chính quyền đã lợi dụng đặc quyền phát hành tiền để đúc tiền phục vụ
nhu cầu tiêu dùng của mình. (Xem thêm bài thuộc chủ đề kinh tế học: Đặc lợi phát hành
tiền.)
Nhu cầu sử dụng tiền mặt lớn cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa để
buôn bán, đóng thuế, mua chức tước, biếu xén, hỏi vợ (Ca dao có câu: Mẹ em tham thúng
xôi rền/Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng),...
23


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

Việc các trấn được phép đúc tiền đã đem lại cho họ mối lợi lớn. Nó khuyến khích
họ phát hành tràn lan.
Dựa vào phát hiện khảo cổ học, tiền Cảnh Hưng chắc chắn có các loại sau: Cảnh
Hưng thông bảo, Cảnh Hưng trung bảo, Cảnh Hưng chí bảo, Cảnh Hưng vĩnh bảo, Cảnh
Hưng đại bảo, Cảnh Hưng thái bảo, Cảnh Hưng cự bảo, Cảnh Hưng trọng bảo, Cảnh
Hưng tuyền bảo, Cảnh Hưng thuận bảo, Cảnh Hưng chính bảo, Cảnh Hưng nội bảo, Cảnh
Hưng dụng bảo, Cảnh Hưng lai bảo, Cảnh Hưng thận bảo, Cảnh Hưng, Cảnh Hưng thọ
trường.

Cảnh Hưng thông bảo là loại phổ biến nhất, nhưng loại này lại có nhiều loại phụ
với thiết kế khác nhau và chữ ghi trên tiền ở mặt sau cũng khác nhau.
Chiêu Thống thông bảo
Chiêu Thống là niên hiệu duy nhất của Lê Mẫn Đế, ông vua nhà Hậu Lê ở ngôi 3
năm. Khảo cổ học cho thấy tiền kim loại Chiêu Thống thông bảo có nhiều loạt khác nhau.
Thêm vào đó, mỗi loạt đều được đúc nhiều lần, mỗi lần kích thước lại khác nhau một
chút. Chiếu Thống thông bảo được phát hành dưới thời Lê Mẫn Đế, nhưng ai phát hành
thì không rõ vì có quá nhiều loạt và nhiều kích cỡ. Lưu ý là thời Lê Mẫn Đế (Chiêu
Thống), lúc đầu thì có thế lực của nhà Trịnh (chúa Trịnh Bồng), lúc sau thì có thế lực của
nhà Tây Sơn, trung ương cũng đã không kiểm soát được các địa phương.
Các loạt đều có bốn chữ Chiêu Thống thông bảo đúc nổi và được đọc chéo. Nhưng
có một loạt thì chữ Thống viết là 綂, các loạt khác chữ Thống đều viết là 統. Không rõ
loạt chữ Thống viết là 綂 có phải là tiền do chính quyền đúc hay không.
Loạt có chữ Thống viết là 綂 thì mặt sau để trơn, chỉ có viền gờ mép và lỗ. Các
loạt khác, loạt thì mặt sau có chữ Nhất (-) phía trên lỗ vuông, loạt thì có một nét sổ dọc
trên lỗ, loạt thì có một vành trăng khuyết bên phải và một chấm tròn bên trái lô, loạt thì
có hình bốn vành trăng khuyết xếp vòng tròn quanh lỗ, loạt thì có chữ Chính (正) hoặc

24


LỊCH SỬ ĐỒNG TIỀN VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KÌ

chữ Chính và cả một chấm tròn, lại có loạt thì có một chữ Sơn (山), loạt lại có hai chữ
Sơn Nam, loạt thì có một chữ Trung (中), và có cả loạt có chữ Đại (大). Theo Đỗ Văn
Ninh, thì chữ Chính chỉ kinh thành, chữ Sơn chỉ Sơn Tây, chữ Trung chỉ Trung đô phủ,
chữ Đại chỉ Thanh Hóa.
2.7.

Tiền nhà Mạc


Minh Đức thông bảo, Minh Đức nguyên bảo
Đây là các tiền kim loại do Mạc Thái Tổ phát hành. Đại Việt sử ký toàn thư có
nhắc đến việc này.
Minh Đức thông bảo có hai loạt. Loạt thứ nhất bằng đồng được bắt đầu đúc từ
năm 1528. Mặt trước có bốn chữ Minh Đức thông bảo đúc nổi đọc chéo. Mặt sau có hai
chữ Vạn Tuệ đúc nổi. Loạt này có kích thước lớn, đường kính từ 23 đến 24,5 mm, dày
dặn.
Loạt thứ hai đúc bằng kẽm. Kích thước vẫn như loạt trước. Mặt sau không còn chữ
vạn tuế mà thay vào đó là một vành khuyết nổi ở bên phải và một chấm tròn ở bên trái.
Minh Đức nguyên bảo làm bằng sắt. Sách sử Việt Nam không nhắc đến tiền này,
nhưng Đại Việt sử ký toàn thư cho biết Mạc Đăng Dung có cho pha kẽm vào khi đúc tiền
rồi sau lại cho đúc tiền bằng sắt. Khảo cổ học Việt Nam không phát hiện ra di vật, song
Lacroix có công bố một mẫu vật tiền này, mặt trước có bốn chữ Minh Đức nguyên bảo
đọc vòng tròn, mặt sau không có chữ hay hình gì.
Đại Chính thông bảo
Các sử liệu cũ của Việt Nam không đề cập đến việc Mạc Thái Tông phát hành
tiền. Tuy nhiên khảo cổ học đã phát hiện ra loại tiền kim loại bằng đồng mang niên hiệu
Đại Chính của ông. Mặt trước tiền nổi bốn chữ Đại Chính thông bảo đọc chéo. Mặt sau
để trơn. Tiền đúc không đẹp, đường kính khoảng 22 mm.

25


×