Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Đánh giá tình hình thực tế việc làm của nước ta trong giai đoạn hiện nay theo quy định pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.66 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới nước ta hiện nay, vấn đề việc làm và các chính sách
giải quyết việc làm đang là vấn đề nóng bỏng và không kém phần bức bách đang
được toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản
của con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Quyền lao động
và đảm bảo việc làm của người lao động đã được khẳng định trong Hiến pháp
nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đã được cụ thể hoá trong Bộ luật
Lao động năm 2012 ở nước ta. Việc làm, giải quyết việc làm cho người lao động
là một trong những ưu tiên hàng đầu trong các chính sách phát triển kinh tế – xã
hội của nước ta. Tuy nhiên, để thực hiện được điều đó, cần hoàn thiện chính
sách, pháp luật về việc làm.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá tình hình thực tế
việc làm của nước ta trong giai đoạn hiện nay theo quy định pháp luật Việt
Nam” để nghiên cứu và làm bài tiểu luận. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu để
hoàn thành bài tiểu luận, nhưng do trình độ có hạn nên cũng sẽ khó tránh khỏi
những sai sót mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn.


NỘI DUNG
I.

Khái quát về vấn đề việc làm
1. Khái niệm

Đứng trên các góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta đã đưa ra rất nhiều định
nghĩa nhằm sáng tỏ khái niệm việc làm. Và ở các quốc gia khác nhau, do ảnh
hưởng của nhiều yếu tố như điều kiện kinh tế, chính trị, luật pháp… người ta
quan niệm về việc làm cũng khác nhau. Chính vì thế, không có một định nghĩa
chung và khái quát nhất về việc làm. Việc làm là một phạm trù tồn tại khách
quan trọng nền sản xuất xã hội, phụ thuộc vào các điều kiện hiện có của nền sản


xuất. Người lao động được coi là có việc làm khi chiếm giữ một vị trí nhất định
trong hệ thống sản xuất của xã hội. Nhờ có việc làm mà người lao động mới
thực hiện được quá trình lao động tạo ra sản phẩm cho xã hội, cho bản thân.
Như vậy, một hoạt động được coi là việc làm khi có những đặc điểm sau: Đó là
những công việc mà người lao động nhận được tiền công, đó là những công việc
mà người lao động thu lợi nhuận cho bản thân và gia đình, hoạt động đó phải
được pháp luật thừa nhận.
Ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan niệm về việc làm rất
hẹp. Chỉ những người lao động được biên chế vào làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, xi nghiệp, nông trường, lâm trường,… của nhà nước hoặc làm việc trong
các hợp tác lao động mới có việc làm. Bước sang nền kinh tế thị trường, sự đa
dạng của hình thức sở hữu và thành phần kinh tế, mọi công dân có quyền tự do
kinh doanh, có quyền tự do thuê mướn lao động. Người lao động có quyền làm
việc cho bất kì chủ sử dụng lao động nào. Hình thức tuyển dụng lao động theo
biên chế dần dần được thay thế bằng hình thức hợp đồng. Từ đó, quan niệm về
việc làm và giải quyết việc làm thay đổi căn bản, được mở rộng và chính thức
thừa nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, Bộ luật Lao động
năm 2012 đã kế thừa và quy định khái niệm việc làm tại khoản 1 Điều 9 như
sau: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập mà không bị pháp
luật cấm”


Như vậy, sự quy định cụ thể trong Bộ luật lao động, pháp luật đã đưa ra cách
hiểu nhất quán về khái niệm việc làm, tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành và áp
dụng pháp luật lao động và việc làm cũng như cơ sở để hoạch định, tổ chức các
chính sách việc làm đối với người lao động một cách phù hợp, hiệu quả. Bởi giải
quyết việc làm, chống thất nghiệp là nhu cầu hết sức quan trọng đối với người
lao động.
Thể chế những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước đã ban hành Luật
việc làm năm 2013, có hiệu lực từ ngày 1/1/2015. Theo đó Luật việc làm quy

định các chính sách hỗ trợ tạo việc làm, thông tin thị trường lao động; đánh giá,
cung cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia; tổ chức, hoạt động dịch vụ việc làm;
bảo hiểm thất nghiệp và quản lý nhà nước về việc làm. Ngoài ra, Bộ luật Lao
động năm 2012 quy định vấn đề việc làm và giải quyết việc làm ở chương II,
theo đó cụ thể các biện pháp hỗ trợ và giải quyết việc làm, trách nhiệm của các
chủ thể trong giải quyết việc làm cho người lao động.
2. Ý nghĩa của việc làm
Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động có ý nghĩa rất lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng như đối với đời sống cá nhân
của người lao động và đối với dơn vị sử dụng lao động và đối với đơn vị sử
dụng lao động. Việc làm là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động
kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, nó chi phối toàn bộ mọi
hoạt động của cá nhân và xã hội.
2.1.

Đối với cá nhân người lao động

Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản
thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá
nhân. Để đáp ứng nhu cầu ăn, ở, mặc,… con người nói chung, người lao động
nói riêng buộc phải tiến hành lao động để tạo ra của cải vật chất nhằm trước hết
thỏa mãn những nhu cầu của bản thân và gia đình, sau đó có những đóng góp
vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Như vậy, việc làm là một yếu tố


giúp con người nói chung, người lao động nói riêng tồn tại, hòa nhập cộng đồng,
cũng như nâng cao ý thức, trách nhiệm người lao động với cộng đồng mà mình
sinh sống, làm việc. Bên cạnh đó, việc làm còn có ý nghĩa đối với sự hình thành
nhân cách, đạo đức con người. Một người khi đến tuổi lao động nhưng không có
việc làm sẽ trở thành người ăn bám, sông dựa vào người khác, thậm chí khi nhu

cầu phát sinh mà không được đáp ứng sẽ này sinh những tệ nạn xã hội như trộm
cắp, cướp của, giết người… Nhưng nếu họ có việc làm, đồng nghĩa có thu nhập
thì sẽ hạn chế được những tệ nạn xã hội và giúp họ có điều kiện khẳng định
mình trong cuộc sống và hướng đến những giá trị nhân văn cao đẹp.
2.2.

Đối với đơn vị sử dụng lao động

Lao động là một trong những nguồn lực quan trọng. Để thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh, bất kì đơn vị sử dụng lao động nào cũng phải tuyển lao động,
sủ dụng lao động vào vị trí việc làm nhất định. Khi việc làm của người lao động
được ổn định và đảm bảo sẽ là điều kiện quan trong để đơn vị tăng cao năng
suất, hiệu quả lao động, từ đó phát triển bền vững, ổn định. Ngược lại, nếu đơn
vị sử dụng lao động không đảm bảo việc làm cho người lao động, tăng giảm
việc làm không hợp lý, bố trí việc làm cho người lao động không phù hợp, việc
làm của người lao động không ổn định.. thì khó có cơ hội phát triển trên thị
trường, dễ dẫn đến phá sản, giải thể. Bởi vậy, mọi đơn vị sử dụng lao động đều
có trách nhiệm trong hoạt động tạo việc làm, bảo đảm việc lâu dài cho người lao
động.
2.3.

Đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động là yếu tố thúc đẩy nền kinh
tế - xã hội phát triển bền vững. Khi người lao động có việc làm, họ sẽ có thu
nhập và tạo ra tài sản tích lũy cũng như tích cực tham gia các hoạt động xã hội
khác. Khi tích lũy tăng, hoạt động xã hội phát triển sẽ là động lực kích thích sản
xuất ngày càng mở rộng.



Ngoài ra, việc làm và giải quyết việc làm làm cho người lao động còn điều kiện
đảm bảo an sinh xã hội của đất nước. Không có việc làm, xã hội không thể tồn
tại và phát triển trong sự an toàn. Việc làm không chỉ là điều kiện kiếm sống của
người lao động mà còn góp phần tạo nên nhân cách sống của người lao động và
các công dân trong xã hội. Một xã hội có nhiều người lao động không có việc
làm hoặc thiếu việc làm sẽ phát sinh ra những hậu quả kinh tế - xã hội khó
lường. Sự an toàn kinh tế, sự an toàn xã hội, an toàn cá nhân, an toàn cộng đồng
phụ thuộc nhiều vào việc người lao động có được đảm bảo công ăn việc làm hay
không. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà
nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể đáp ứng được nhu cầu này.

II.

Thực tế việc làm của nước ta trong giai đoạn hiện nay theo

quy định của pháp luật
1. Tình hình việc làm theo các số liệu thống kê năm 20171
1.1. Nguồn lao động
Theo Báo cáo về tình hình lao động, việc làm quý II và 6 tháng đầu năm 2017
của Tổng cục Thống kê thì Quý 2/2017, dân số từ 15 tuổi trở lên đạt 71,85 triệu
người, tăng 1,4% so với quý 2/2016, nữ tăng 1,14%; khu vực thành thị tăng
0,08%. Quy mô LLLĐ từ 15 tuổi trở lên đạt 54,52 triệu người, tăng 0,3% so với
quý 2/2016; nữ giảm 0,31%; khu vực thành thị tăng 0,28%.
Quý 2/2017, tỷ lệ tham gia LLLĐ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 76,45%, giảm
so với quý 1/2017 và so với cùng kỳ năm trước.
Về lao động qua đào tạo, quý 2/2017 có sự gia tăng nhanh hơn của nhóm sơ cấp
nghề và trung cấp. LLLĐ từ 15 tuổi trở lên có bằng/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên
quý 2/2017 là 11,78 triệu, tăng 564 nghìn người (5,03%) so với quý 2/2016.
Trong đó, tăng mạnh nhất ở nhóm sơ cấp nghề (8,44%), tiếp đến là nhóm trung
cấp (5,01%), nhóm đại học và trên đại học (4,64%) và nhóm cao đẳng (2,98%).

Tỷ lệ lao động có trình độ đại học trở lên trong tổng LLLĐ là 9,09%; cao đẳng
là 3,17%; trung cấp là 5,43%; và sơ cấp nghề là 3,53%.
1 BẢN TIN CẬP NHẬT THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM - Số 14, quý 2 năm 2017, Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội


1.2.

Việc làm

Quý 2/2017, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng/chứng chỉ từ 3 tháng trở lên là
21,60% trong LLLĐ, tăng 0,98 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước.
Số người có việc làm tăng nhẹ so với quý trước và cùng kỳ năm 2016. Tốc độ
chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm. Quý 2/2017, số người có việc làm là
53,40 triệu, tăng 164,3 nghìn người (0,31%) so với quý 2/2016 và 39,7 nghìn
người (0,07%) so với quý 1/2017.
Quý 2/2017, tỷ lệ lao động làm công hưởng lương tiếp tục xu hướng tăng, đạt
42,77% vào quý 2/1017. Số người làm việc trong khu vực doanh nghiệp ngoài
nhà nước đạt 6,21 triệu người, tăng 38 nghìn người so với quý 1/2017. Số người
làm việc trong các cơ sở kinh doanh cá thể cũng tăng 824 nghìn người so với
quý 1/2017.
Quý 2/2017, có khoảng 9,12% người đang làm việc tự đánh giá công việc chính
hiện tại chưa phù hợp với ngành/nghề được đào tạo; 1,86% coi công việc đang
làm là công việc tạm thời trong thời gian chờ đợi/tìm kiếm công việc khác thay
thế, trong đó có khoảng 50% đang tìm kiếm việc làm, 80,6% sẵn sàng đảm nhận
công việc mới ngay khi có cơ hội.
1.3.

Thu nhập của lao động làm công hưởng lương


Thu nhập của lao động làm công hưởng lương giảm so với quý 1/2017, tuy
nhiên tăng hơn cùng kỳ năm trước. Quý 2/2017, thu nhập bình quân tháng từ
việc làm chính của lao động làm công hưởng lương là 5,2 triệu đồng, giảm 197
nghìn đồng (3,6%) so với quý 1/2017 và tăng 349 nghìn đồng (7,2%) so với
cùng kỳ năm 2016.
Quý 2/2017, nhóm lao động có trình độ ĐH và trên ĐH có thu nhập cao nhất
(7,49 triệu đồng) có cùng xu hướng giảm thu nhập so với quý 1/2017 như các
nhóm trình độ khác nhưng có mức giảm cao nhất (736 nghìn đồng, 8,9%). Đáng
lưu ý là thu nhập của nhóm lao động có trình độ sơ cấp (6,04 triệu đồng) cao
hơn nhóm có trình độ trung cấp và cao đẳng.


Đa số lao động trong các ngành có thu nhập giảm so với quý 1/2017 (trừ ngành
vận tải, kho bãi và dịch vụ lưu trú và ăn uống), tuy nhiên đều tăng so với cùng
kỳ năm 2016.
Quý 2/2017, thu nhập bình quân giờ của nhóm lao động có HĐLĐ không xác
định thời hạn cao nhất (35,2 nghìn đồng), gấp 1,79 lần so với nhóm có thu nhập
thấp nhất, nhóm không có HĐLĐ (19,7 nghìn đồng). Thu nhập bình quân giờ
của lao động có hợp đồng thuê khoán công việc có mức tương đối cao (23,2
nghìn đồng).
1.4. Thất nghiệp và thiếu việc làm
- Về thất nghiệp
Thất nghiệp giảm nhẹ cả về số lượng và tỷ lệ; thất nghiệp của nhóm trình độ
“đại học trở lên” và nhóm thanh niên tăng mạnh so với quý 1/2017
Quý 2/2017, cả nước có 1.081,6 nghìn lao động trong độ tuổi thất nghiệp, giảm
20,1 nghìn người so với quý 1/2017 và 7,1 nghìn người so với quý 2/2016. Tỷ lệ
thất nghiệp của lao động trong độ tuổi giảm còn 2,26%, thấp nhất trong 5 quý
gần đây. Số người thất nghiệp có trình độ “đại học trở lên” là 183,1 nghìn người,
tăng 44,2 nghìn người so với quý 1/2017; tỷ lệ thất nghiệp của nhóm này là
3,63% (quý trước là 2,79%). Nhóm trình độ “cao đẳng” có 82,6 nghìn người thất

nghiệp, giảm 21,6 nghìn người so với quý 1/2017; tỷ lệ thất nghiệp nhóm này
giảm còn 4,96% nhưng vẫn ở mức cao nhất. Nhóm trình độ “trung cấp” có 92,7
nghìn người thất nghiệp, tăng 9,4 nghìn người, tỷ lệ thất nghiệp là 3,5%.
So với quý 1/2017, số thanh niên thất nghiệp tăng 26,6 nghìn người lên 575.1
nghìn người; tỷ lệ thất nghiệp cũng tăng lên mức 7,67%. Theo 8 vùng kinh tế thì
Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ có tỷ lệ thất nghiệp cao nhất (lần
lượt là 2,95% và 2,65%); Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ
thấp nhất (0,95% và 1,05%). Số người thất nghiệp dài hạn (12 tháng trở lên)
chiếm 24,5% tổng số người thất nghiệp.
- Về thiếu việc làm


Thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi giảm mạnh cả về số lượng và tỷ lệ so
với quý 1/2017. Quý 2/2017 có 756 nghìn lao động trong độ tuổi thiếu việc làm
giảm 94 nghìn người so với quý 1/2017 nhưng vẫn tăng 35 nghìn người so với
quý 2/2016. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 1,62%, giảm 0,2
điểm phần trăm so với quý 1/2017. Trong tổng số người thiếu việc làm, 82% lao
động nông thôn, 74% làm việc trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản.
Số giờ làm việc bình quân một tuần của lao động thiếu việc làm là 22,7 giờ,
bằng 51% tổng số giờ làm việc bình quân của lao động cả nước (45 giờ/tuần).
2. Chính sách việc làm theo quy định của nước ta hiện nay
Nhà nước xác định chỉ tiêu tạo việc làm tăng thêm trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội 05 năm, hằng năm.Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội trong từng
thời kỳ, Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình mục tiêu quốc gia về
việc làm và dạy nghề.
- Chương trình việc làm
Việc xây dựng chương trình việc làm nhằm đảm bảo cho mọi người lao động có
khả năng lao động, có nhu cầu làm việc, tiến tới có việc làm đầy đủ, việc làm có
hiệu quả, thông qua đó giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với giải quyết việc làm cho người lao động, góp phần thực hiện công bằng và

tiến bộ xã hội. Nội dung chương trình việc làm gồm: Mục tiêu, nhiệm vụ chủ
yếu, đối tương, phạm vi thực hiện, thời gian, tổ chức thực hiện và cơ chees,
chính sách để thực hiện.
Căn cứ vào điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, Chính phủ trình Quốc
hội quyết định chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Uỷ ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh) xây dựng chương trình việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân
dân cùng cấp quyết định. Cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức xã hội và người sử dụng lao động khác trong phạm vi nhiệm vụ,
quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện chương trình việc làm.2
2 Điều 13 Bộ luật Lao động năm 2012


- Quỹ quốc gia về việc làm
Quỹ quốc gia về việc làm là một biện pháp pháp lý quan trọng của Nhà nước
trong việc triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm.
Theo khoản 5 Điều 12 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “Thành lập Quỹ
quốc gia về việc làm để hỗ trợ cho vay ưu đãi tạo việc làm và thực hiện các hoạt
động khác theo quy định của pháp luật.”
Nguồn hình thành Quỹ quốc gia về việc làm bao gồm: Ngân sách nhà nước; Nguồn
hỗ trợ của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; Các nguồn hợp pháp khác.
Quỹ quốc gia về việc làm được sử dụng cho các hoạt động sau đây: Cho vay ưu
đãi đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh và
người lao động để hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm; Hỗ trợ
doanh nghiệp gặp khó khăn do suy giảm kinh tế để hạn chế người lao động mất
việc làm; Hỗ trợ phát triển tổ chức dịch vụ việc làm và hệ thống thông tin thị
trường lao động. 3
- Tổ chức dịch vụ việc làm
Theo quy định tại điều 14 Bộ luật lao động năm 2012, tổ chức dịch vụ việc làm
bao gồm: trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã

hội thành lập, là đơn vị sự nghiệp công lập có thu tự đảm bảo một phần chi phí
hoạt động. Các trung tâm này được nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội giao
chỉ tiêu biên chế cán bộ, được hỗ trợ đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước về
trang thiết bị, cơ sở vật chất tài chính và được miễn giảm thuế theo quy định của
pháp luật. Doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm được thành lập và hoạt
động theo quy định của Luật doanh nghiệp và phải có giấy phép hoạt động dịch
vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh cấp.
- Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
Theo khoản 4 điều 12 Bộ luật Lao động năm 2012 thì Nhà nước “Hỗ trợ người
sử dụng lao động, người lao động tìm kiếm và mở rộng thị trường lao động ở
3 Khoản 1, Khoản 2 Điều 4 Nghị định số 03/2014/ NĐ-CP


nước ngoài.” Đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một trong những
biện pháp giải quyết việc làm quan trọng, không chỉ nhằm giúp người lao động
có thu nhập cao hơn so với trường hợp làm cùng công việc trong nước, mà còn
góp phần tăng thêm thu nhập ngoại tệ cho đất nước, tăng cường mối quan hệ
hợp tác giữa Việt Nam với nước ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi,
tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nhau. Hoạt động đưa người lao
động đi làm việc ở nước ngoài trải qua nhiều thời kỳ và đến nay Việt Nam
không ngừng tăng cường quy mô và mở rộng phạm vi đưa người lao động Việt
Nam sang nước ngoài làm việc.
3. Đánh giá tình hình việc làm của nước ta hiện nay
3.1. Những thành tựu
Sau 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã
từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế
hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
đưọc những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Thứ nhất, hệ thống chính sách được ban hành ngày càng đầy đủ và hoàn thiện.
Các chính sách về việc làm đã được ban hành tương đối đầy đủ trong nhiều lĩnh

vực khác nhau như: Chính sách chung về việc làm (quyền và nghĩa vụ của người
lao động về việc làm, trách nhiệm của Nhà nước về việc làm,...); Chính sách hỗ
trợ để tạo và tự tạo việc làm cho người lao động (Chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm, dự án cho vay giải quyết việc làm...); Chính sách hỗ trợ đưa
người lao động đi làm việc ờ nước ngoài (cho vay tín dụng, bồi dưỡng kiến thức,
nghề nghiệp trước khi đi lao động ở nước ngoài,...).
Với hệ thống chính sách việc làm như vậy đã tạo điều kiện thúc đẩy đa dạng hóa
các hình thức kết nối cung cầu lao động thông qua các trung tâm dịch vụ việc
làm. Việc phát triển thị trường lao động đã tạo điều kiện cho người dân di
chuyển từ nông thôn ra thành thị để tìm kiếm các cơ hội việc làm tốt hơn.


Thứ hai, thành tựu nổi bật của hệ thống chính sách việc làm là tạo ngày càng
nhiều việc làm cho xã hội. Cơ hội có việc làm của người lao động tăng lên, giải
tỏa sức ép về việc làm cho người lao động trong bối cảnh lực lượng tham gia lao
động ngày càng tăng.
Tổng số việc làm tăng lên, việc làm trong ngành công nghiệp và dịch vụ tăng
nhanh hơn ngành nông nghiệp. Điều này phù hợp với quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Lao động đang làm việc chia theo nghề nghiệp cũng có những thay
đổi nhất định.
Thứ ba, việc làm tăng góp phần giảm nghèo và công bằng xã hội cũng được cải
thiện. Tỷ lệ nghèo chung của cả nước đã giảm nhanh, thu nhập bình quân của hộ
nghèo cũng có xu hướng tăng lên.
3.2.

Những hạn chế, bất cập

Việt Nam là một trong những nước kinh tế đang phát triển, quy mô dân số và
mật độ dân cư tương đối lớn so với các nước trên thế giới và tốc độ phát triển
nhanh, trong lúc đó việc mở rộng và phát triển kinh tế, giải quyết việc làm gặp

nhiều hạn chế, như thiếu vốn sản xuất, lao động phân bổ chưa hợp lý, tài nguyên
khác chưa được khai thác hợp lý...Càng làm cho chênh lệch giữa cung và cầu về
lao động rất lớn, gây ra sức ép về vấn đề giải quyết việc làm trong toàn quốc.
Điều này xuất phát từ nhiều bất cập:
Thứ nhất, hạn chế lớn nhất là chính sách việc làm hiện nay chủ yếu theo hướng
càng nhiều việc làm càng tốt mà chưa chú trọng đến chất lượng việc làm. Vì
vậy, chưa khuyến khích người lao động nâng cao trình độ và tay nghề.
Thứ hai, chính sách về việc làm ban hành còn tản mạn ở nhiều văn bản gây
chồng chéo. Các quy định của chính sách việc làm mang tính quy phạm chưa
cao, chính sách chủ yếu hướng vào hỗ trợ, khuyến khích chưa rõ trách nhiệm
của các đối tượng điều chỉnh của chính sách. Một số chính sách hỗ trợ việc làm
chưa được hướng dẫn cụ thể như: chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích
các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị và cá nhân tạo việc làm cho nhiều người lao


động; chính sách khuyến khích đưa nhiều lao động có trình độ chuyên môn, kỹ
thuật đi làm việc ở nước ngoài có thu nhập cao; đi làm việc tại các công trình,
dự án do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước trúng thầu, nhận thầu, đầu
tư ở nước ngoài; chính sách hỗ trợ người lao động sau khi về nước...
Thứ ba, chính sách tín dụng chưa phù hợp về điều kiện vay và mức vay, thiếu
gắn kết giữa cho vay vốn và hỗ trợ đầu vào tiếp cận thị trường nên hiệu quả sử
dụng vốn chưa cao. Nhiều chính sách ưu đãi tín dụng chồng chéo trên cùng một
đối tượng gây khó khăn cho việc thực hiện và khó đi vào cuộc sống.
Quỹ quốc gia giải quyết việc làm ngày càng tập trung nhiều cho hộ gia đình vay
vốn, ít hỗ trợ các doanh nghiệp để tạo thêm nhiều việc làm mới. Các quy định về
Quỹ giải quyết việc làm chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời gây khó khăn trong
quá trình triển khai thực hiện
Thứ tư, hệ thống chính sách hỗ trợ lao động di chuyển đến các khu công nghiệp,
khu đô thị còn thiếu. Đa số người dân di cư ra các đô thị, khu công nghiệp, khu
chế xuất chưa được hưởng các chính sách hỗ trợ di chuyển và ổn định tại nơi

đến. Trái lại, một số quy định còn hạn chế khả năng tiếp cận của người di cư đến
việc làm tốt, các dịch vụ xã hội cơ bản tại đô thị.
III.

Phương hướng giải quyết việc làm

Nhà nước, phục vụ tốt yêu cầu từng bước tái cấu trúc lại nền kinh tế theo mô
hình năng suất cao, tăng trưởng nhanh và bền vững. Đồng thời, phải tiến hành
đồng bộ nhiều biện pháp cơ bản và hữu hiệu.
Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường lao động, tạo khung pháp lý phù
hợp, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa người sử dụng lao động và người lao động.
Cụ thể là: thực hiện đúng các luật về lao động, tiền lương tối thiểu, bảo hiểm lao
động, xuất khẩu lao động, pháp lệnh đình công; khắc phục tình trạng bất hợp lý
với người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài
và kể cả một số doanh nghiệp trong nước như hiện nay, người lao động phải
được quyền hưởng lương đúng với số lượng và chất lượng lao động họ đã bỏ ra,


phải được bảo đảm về chỗ ở và những điều kiện môi trường lao động, an sinh
khác theo đúng luật pháp.
Hai là, phê chuẩn và thực hiện các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế liên
quan đến thị trường lao động nước ta, đặc biệt là nước ta hiện nay đã là thành
viên chính thức của Tổ chức Thương mại quốc tế.
Ba là, phát triển mạnh khu vực dân doanh, trước hết là phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ để nhanh chóng tạo ra việc làm và khả năng thu hút lao động
vào sản suất. Phấn đấu đạt tỷ lệ trên 200 người dân có một doanh nghiệp. Phát
triển kinh tế trang trại, hợp tác xã trong nông nghiệp. Đặc biệt coi trọng phát
triển kinh tế dịch vụ, công nghiệp chế biến nông sản, khôi phục và phát triển các
làng nghề thủ công mỹ nghệ sản xuất sản phẩm cho tiêu dùng trong nước và
xuất khẩu để tận dụng lao động dư thừa và lao động có ngành nghề truyền thống

của nước ta. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thúc đẩy thị trường lao động trong nông
nghiệp và thị trường xuất khẩu lao động ngày càng phát triển cao hơn nữa.
Bốn là, Nhà nước cùng các doanh nghiệp quan tâm đào tạo công nhân có trình
độ cao, trình độ lành nghề, trình độ văn hóa đối với lao động trẻ, nhất là ở khu
vực nông thôn để cung ứng cho các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công
nghiệp, khu du lịch, dịch vụ và xuất khẩu lao động đang có nhu cầu thu hút
mạnh. Tập trung xử lý lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước theo
hướng chuyển đổi ngành nghề cho họ. Khắc phục tình trạng "đóng băng” trong
đổi mới cơ cấu lao động làm ảnh hưởng tới sự phát triển đa dạng và chiều sâu
của nền kinh tế trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Chuyển mạnh các đơn vị sự nghiệp cung cấp
các dịch vụ công sang đơn vị tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thực hiện chế độ
hợp đồng lao động để lao động khu vực này có điều kiện tham gia vào thị trường
lao động trong nước và ngoài nước, nâng cao hiệu quả của lao động.
Năm là, mở rộng và phát triển thị trường lao động ngoài nước. Đây là một trong
những thế mạnh của lao động nước ta về số lượng đông và trẻ. Vì vậy phải tập
trung đào tạo ngoại ngữ, pháp luật cho lao động xuất khẩu, nhất là thanh niên


nông thôn để tạo điều kiện cho họ tiếp cận được với thị trường lao động của
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là với những nước có trình độ phát triển cao và
đang có nhu cầu thu hút lao động cho các ngành nghề sản xuất.
Sáu là, mở rộng và nâng cấp hệ thống dạy nghề cho người lao động ở 3 cấp trình
độ (sơ cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề). Cần mở rộng đào tạo và đào
tạo lại số lao động nước ta để có cơ cấu hợp lý ở 3 trình độ như trên. Có như vậy
mới đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường lao động trong những năm tới.
Trong đào tạo và đào tạo lại cần chuyển sang đào tạo theo định hướng nhu cầu
lao động của thị trường (đào tạo gắn với sử dụng, gắn với nhu cầu của sản xuất)
tạo khả năng cung cấp lao động có chất lượng cao về tay nghề và sức khỏe tốt,
có kỹ thuật, tác phong công nghiệp, có văn hóa ... cho thị trường trong nước và

thị trường ngoài nước.
Bảy là, đa dạng hóa các loại hình thị trường, các lớp dạy nghề của Nhà nước,
của tư nhân và quốc tế. Áp dụng cơ chế thị trường trong dạy nghề, dần dần hình
thành thị trường phù hợp với pháp luật. Thực hiện quy hoạch đầu tư tập trung hệ
thống dạy nghề kỹ thuật thực hành qua lao động trực tiếp; đặc biệt là xây dựng
các trường dạy nghề trọng điểm quốc gia. Đối với tỉnh, thành phố cũng phải có
trường dạy nghề; các quận và huyện cũng cần có các trung tâm dạy nghề; cổ
phần hóa các cơ sở dạy nghề công lập, phát triển cơ sở dạy nghề ngoài công lập
để giảm chi phí ngân sách cho Nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
thông tin thị trường lao động quốc gia và nối mạng trước hết ở các vùng kinh tế
trọng điểm, các thành phố lớn, các khu vực công nghiệp tập trung và cho cả xuất
khẩu lao động để giúp người lao động tìm kiếm việc làm thuận lợi nhất.

KẾT LUẬN
Tóm lại, vấn đề việc làm luôn là mối quan tâm lớn của xã hội hiện nay. Lĩnh vực
lao động – việc làm những năm qua có nhiều đổi mới và thu hút được những kết
quả bước đầu đáng khích lệ. Tạo và giải quyết việc làm cho lao động xã hội
không chỉ là trách nhiệm của Nhà nước mà là trách nhiệm của các cấp, các


ngành, các tổ chức, các gia đình bản thân người lao động và của toàn xã hội. Đất
nước ta đang trông chờ vào thế hệ trẻ, đặc biệt là cán bộ quản lý kinh tế trong
tương lai. Là một sinh viên học luật tôi nhận thức được phải luôn trau dồi kiến
thức, tận dụng thời gian và nâng cao năng lực để theo kịp sự tiến triển của nền
kinh tế đất nước đang trong thời kì đổi mới, một thế giới mới, thế giới của sự
văn minh, giàu có, công bằng.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật Lao động năm 2012
2. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội, Giáo trình luật lao động, NXB. Đại

học quốc gia Hà Nội
3. Trần Việt Tiến, “Chính sách việc làm ở Việt Nam: Thực trạng và định
hướng hoàn thiện”, Tạp chí Kinh tế phát triển số 181, tháng 7/2012.
4. BẢN TIN CẬP NHẬT THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM - Số 14,
quý 2 năm 2017, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
5. thuvienphapluat.vn
6.
7.



×