Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

chứng chỉ quỹ đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 102 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
Khoa Quản lý Kinh doanh


BÀI TẬP THỰC HÀNH
Tìm hiểu về chứng chỉ quỹ, công ty quản lý quỹ và thị trường chứng chỉ
quỹ đầu tư tại Việt Nam hiện nay
Sinh viên thực hiện:
Giáo viên hướng dẫn:
Môn học:
Lớp:

NGUYỄN THỊ VÂN
NGUYỄN PHƯƠNG ANH
Thị trường chứng khoán
TC-NH 1 ─ K11

Hà Nội,ngày….tháng….năm 2017


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành và chính thức đi vào hoạt động từ
năm 2000. Trong thời gian hoạt động, thị trường chứng khoán Việt Nam chứng tỏ
là một kênh tập trung và phân phối các nguồn vốn của nền kinh tế một cách hiệu
quả, tập trung các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho ai muốn sử dụng các nguồn
tiết kiệm đó theo giá mà người sử dụng sẵn sàng trả và theo phán đoán của thị
trường về khả năng sinh lời từ các dự án của người sử dụng. Để làm được điều này
cần phải kể đến vai trò của các chế định tài chính trung gian tham gia hoạt động


kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Các chế định này có thể là các công ty
môi giới và kinh doanh chứng khoán, hoặc các tổ chức giữ vai trò của người nhận
tiền huy động từ công chúng và thay mặt họ để thực hiện việc đầu tư vào các công
cụ tài chính trên thị trường chứng khoán. Người ta thường biết đến các tổ chức này
với tên các quỹ đầu tư tập thể.
Nếu thị trường chứng khoán và công ty chứng khoán là các khái niệm tương đối
quen thuộc đối với công chúng đầu tư tại Việt Nam thì quỹ đầu tư chứng khoán
dường như còn là khái niệm mới mẻ đối với các nhà đầu tư. Vì vậy, đề tài nghiên
cứu của nhóm em nhằm giúp mọi người hiểu rõ hơn về sự hình thành và sự phát
triển của quỹ đầu tư chứng khoán cũng như hoạt động của quỹ trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Nội dung bài thực hành của nhóm em gồm 3 phần phần chính:
Phần Chương 1: Lý thuyết chung về chứng chỉ quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ, thị
trường chứng chỉ quỹ đầu tư.
Phần Chương 2: Phân tích Tình hình hoạt động của thị trường chứng chỉ quỹ đầu tư
ở Việt Nam từ khi thành lập đến nay.
Phần Chương 3: Đánh giá và đưa rabiện pháp kiến nghị, đề xuất. phát triển quỹ đầu
tư Việt Nam

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
3


CHƯƠNG 1I - LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHỨNG CHỈ QUỸ ĐẦU TƯ,
CÔNG TY QUẢN LÝ QUỸ, THỊ TRƯỜNG CHỨNG CHỈ QUỸ ĐẦU TƯ
1.1 QUỸ ĐẦU TƯ
1.1.1 Khái niệm quỹ đầu tư
Khi bắt đầu tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán , một trong
những khó khăn lớn nhất mà nhà đầu tư phải vượt qua đó là việc lựa chọn
chứng khoán để đầu tư. Việc này được sự trợ giúp bởi các nhà môi giới

( broker) hoặc kinh doanh chứng khoán(dealer). Tuy nhiên, dù được thông tin
và tư vấn đến đâu đi chăng nữa, nhà đầu tư vẫn được xem như là người quyết
định cuối cùng, và do đó hiệu quả đầu tư của họ xét cho cùng lệ thuộc vào các
điều kiện và phẩm chất cá nhân. Thị trường chứng khaons lại tập hợp rất
nhiều các sản phẩm đa ngành, thế nên cho dù người đầu tư có tập trung vào
một lĩnh vực nào thì cũng không làm sao nắm vững hết các chiều hướng
chuyển biến một cách ngọn ngành được. Chính vì vậy, nhiều người đầu tư đã
lựa chọn cho mình một phương tiện để thực hiện đầu tư tốt nhất vào thị
trường chứng khoán thông qua các quỹ đầu tư.
Theo định nghĩa của Cadogan Financials thì QĐT (hay còn gọi là công
ty ủy thác đầu tư) là một định chế tài chính phi ngân hàng, trung gian giữa
người có vốn (thu hút tiền nhàn rỗi từ các nguồn thông tin khác nhau) và
người cần vốn (sử dụng các khoản tiền đó để đầu tư vào các tài sản khác nhau
thông qua công cụ cổ phiếu, trái phiếu và tiền tệ). Tất cả các khoản đầu tư này
đều được quản lý chuyên nghiệp, chặt chẽ bởi CTQLQ, ngân hàng giám sát và
các cơ quan thẩm quyền khác.
Theo định nghĩa của Luật Công Ty Đầu Tư 1940 của Mỹ thì QĐT
là các tổ chức tài chính được quản lý chặt chẽ và phải tuân theo các điều luật
và quy chế của Liên bang và các tiểu bang
Theo định nghĩa Luật Chứng Khoán của Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam số 70/2006/QH11 ngày 29 tháng 6 năm 2006 thì
QĐT chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của NĐT với mục đích kiếm
lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc các dạng tài sản đầu tư khác,
kể cả bất động s ản, trong đó NĐT không có quyền kiểm soát hàng ngày đối
với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Khi tham gia vào quỹ, các NĐT sẽ
nhận được CCQ là loại chứng khoán do CTQLQ đại diện phát hành, xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của NĐT đối với tài sản hoặc vốn của quỹ theo tỷ
lệ tương ứng với số đơn vị quỹ của NĐT đó trong vốn điều lệ quỹ

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022

4


Hay, quỹ đầu tư chứng khoán là mô hình đầu tư mà theo đó nguồn
vốn của quỹ được đầu tư chủ yếu vào chứng khoán và các nhà đầu tư ủy thác
cho công ty quản lí quỹ quyền điều hành trực tiếp quỹ
Dưới sự điều hành của công ty quản lí quỹ, thông qua quỹ đầu tư, tiền
đầu tư của các cá nhân và tổ chức được luân chuyển theo sơ đồ sau

Khi tham gia vào quỹ, các NĐT sẽ nhận được chứng chỉ quỹ (CCQ) là loại
chứng khoán do CTQLQ đại diện phát hành, xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của NĐT đối với tài sản hoặc vốn của quỹ theo tỷ lệ tương ứng với số đơn vị quỹ
của NĐT đó trong vốn điều lệ quỹ. Xét về tỉ suất đầu tư,tất cả những người đầu tư
trong cùng một quỹ đều đạt được những kết quả như nhau, không phân biệt số
lượng vốn góp của mỗi người nhiều hay ít. Kết quả đó là do thành quả hoạt động
đầu tư chung của quỹ quy định. Tuy nhiên, người đầu tư không được phép trực tiếp
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản trong danh mục đầu tư của quỹ.

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
5

Hình 1: Chứng chỉ quyền mua nhà

Hình 2: Chứng chỉ quỹ tiết kiệm nhà ở nhà


Về bản chất, CCQ cũng giống như cổ phiếu của một công ty: là bằng chứng
xác nhận quyền sở hữu, hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp và đặc biệt được niêm
yết trên TTCK để mua bán giữa các NĐT,Nhằm mục đích huy động vốn,làm tăng
vốn chủ sở hữu của công ty. Cho nên, CCQ cũng được gọi là một chứng khoàn vốn

như cổ phiếu
Tuy nhiên, giữa chứng chỉ quỹ và cổ phiếu vẫn mang những nét khác nhau
không thể giống nhau hoàn toàn được. Cụ thể như sau:

Giống nhau

- Xác nhận quyền sở hữu
- Hưởng lợi nhuận trên phần vốn góp
- Được niêm yết trên TTCK để giao dịch
- Là chứng khoán vốn
Chứng chỉ quỹ

Khác nhau

Cổ phiếu

- Phương tiện để thành lập quỹ
của một quỹ đầu tư chứng khoán
mà ngành nghề hđ chính là đầu
tư chứng khoán

- Phương tiện huy động
vốn của một công ty kinh
doanh mộtvài ngành nghề cụ
thể

- Không có quyền tham gia biểu
quyết quản lí công ty( đều do ct
quản lí quỹ quyết định


- Có quyền biểu quyết
tham gia quản lí công ty
(CPPT)

- Khi mua CCQ, công ty QLQ sẽ
giúp NĐT ra quyết định đầu tư
và theo dõi khoản đầu tư

- NĐT sẽ phải dựa vào
sự đánh giá của mình để ra
quyết định đầu tư và tự theo
dõi khoản đầu tư

1.1.2 Nguồn gốc hình thành quỹ đầu tư
QĐT có nguồn gốc từ Châu Âu, khởi thủy ở Hà Lan từ giữa thế kỷ 19,
đến nửa cuối thế kỷ 19 thì được du nhập sang Anh. Mặc dù có nguồn gốc từ Châu
Âu nhưng Mỹ mới là nơi các QĐT phát triển mạnh nhất. QĐT đầu tiên chính thức
xuất hiện ở Mỹ vào năm 1924, có tên là Massachusetts Investor Trust, với quy mô
ban đầu là 50.000USD. Sau này, quy mô quỹ này đã tăng lên 392.000USD với sự
tham gia của trên 200 NĐT.
Trong thời kỳ từ 1929 đến 1951, suy thoái kinh tế và những vụ sụp đổ của
TTCK thế giới đã kiềm hãm tốc độ tăng trưởng của ngành quản lý quỹ. Tuy nhiên,
SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
6


sự phục hồi của TTCK trong những năm 1950 đến 1960 đã thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của các QĐT. Một hiện tượng mang tính tiêu biểu trong giai đoạn này là
sự bùng nổ các QĐT chuyên đầu tư vào cổ phiếu có tốc độ tăng trưởng cũng như
mức độ rủi ro cao.

Từ những năm 1980 trở lại đây, thị trường quản lí quỹ đã liên tục phát triển
và mở rộng, đến nay đãtrở thành một ngành dịch vụ thịnh vượng mũi nhọn, một bộ
phận cấu thành quan trọng của TTCK. Quá trình phát triển TTCK các nước đã thúc
đẩy việc hình thành các QĐT góp phần gia tăng việc luân chuyển vốn vào các thị
trường này.
1.1.3 Đặc điểm quỹ đầu tư chứng khoán
Qũy đầu tư chứng khoán có 3 đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quỹ đầu tư chứng khoán luôn dành đa số vốn đầu tư của Quỹ để
đầu tư vào chứng khoán, quỹ vừa là một tổ chức phát hành chứng khoán lại vừa là
một tổ chức kinh doanh chứng khoán. Đặc điểm này phân biệt quỹ đầu tư chứng
khoán với các loại quỹ đầu tư khác. Qua việc phát hành cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ
đầu tư, quỹ thu được một khối lượng tiền khá lớn, sau đó chúng sẽ được quỹ sử
dụng đầu tư vào các loại chứng khoán. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư sẽ được
phân chia cho các nhà đầu tư mua cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi
từ hoạt động đầu tư chứ không nhằm thu lãi hàng tháng do Quỹ có thể xây dựng
danh mục đầu tư đa dạng và hợp lý theo quyết định của các nhà đầu tư nhằm tối đa
hoá lợi nhuận và giảm thiểu rủi ro. Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP quy
định quỹ đầu tư chứng khoán phải dành tối thiểu 60% giá trị tài sản của quỹ vào
lĩnh vực chứng khoán. Ngoài việc chủ yếu đầu tư vào chứng khoán, quỹ đầu tư
chứng khoán cũng có thể tiến hành đầu tư vào những lĩnh vực khác như góp vốn,
kinh doanh bất động sản v.v..
Thứ hai, quỹ đầu tư chứng khoán được quản lý và đầu tư một cách chuyên
nghiệp bởi công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và ngân hàng giám sát. Nói
một cách khác, các nhà đầu tư đã uỷ thác cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán việc quản lý quỹ và tiến hành hoạt động đầu tư chứng khoán từ số vốn của
quỹ. Công ty quản lý quỹ có thể cử ra một cá nhân chịu trách nhiệm thực hiện việc
quản lý quỹ gọi là nhà quản trị quỹ. Nhà quản trị được chọn thường phải là người
có thành tích và được sự ủng hộ của đa số nhà đầu tư. Để đảm bảo công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành hoạt động đúng như mong muốn của các nhà đầu
tư, quỹ đầu tư chứng khoán cần phải có một ngân hàng giám sát. Ngân hàng này sẽ

thay mặt các nhà đầu tư để giám sát cũng như giúp đỡ quỹ đầu tư chứng khoán hoạt

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
7


động đúng mục tiêu mà các nhà đầu tư đã đề ra, tránh tình trạng công ty quản lý
quỹ tiến hành các hoạt động đi ngược lại lợi ích của nhà đầu tư.
Thứ ba, quỹ đầu tư chứng khoán có tài sản độc lập với tài sản của công ty
quản lý quỹ và các quỹ khác do công ty này quản lý bên cạnh đó quỹ đứng ra đầu
tư như một chủ thể duy nhất. Đặc điểm này đảm bảo việc đầu tư của quỹ đầu tư
chứng khoán tuân thủ đúng mục đích đầu tư, không bị chi phối bởi lợi ích khác của
công ty quản lý quỹ. Sự tách bạch về tài sản giữa công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư
chứng khoán nhằm đảm bảo công ty quản lý quỹ hoạt động quản lý vì lợi ích của
các nhà đầu tư vào quỹ chứ không vì mục đích của riêng mình. Từ yêu cầu tách
bạch về tài sản đã chi phối rất lớn đến nội dung những quy định pháp luật về quyền
và nghĩa vụ của công ty quản lý quỹ.
1.1.4 Vai trò của quỹ đầu tư
Nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững, nhất thiết phải có
nhiều vốn đầu tư. Nhưng làm thế nào để các tổ chức hay cá nhân đang nắm giữ
những nguồn vốn nhàn rỗi và các doanh nghiệp đang có ý tưởng kinh doanh khả thi
có thể gặp và hợp tác với nhau, cùng tìm cơ hội kinh doanh có lợi nhất. Các định
chế tài chính trung gian ra đời chính là đáp ứng nhu cầu cần những chiếc “cầu nối”
giữa người có vốn và người cần vốn.
Là một trong các định chế trung gian tài chính phi ngân hàng, Quỹ đầu
tư có nhiều điểm nổi bật so với các trung gian tài chính khác với vai trò:
a/ Đối với nền kinh tế thị trường nói chung
Thứ nhất,huy động vốn cho phát triển kinh tế
Như ở trên đã nói, để phát triển bền vững rất cần những nguồn vốn trung và
dài hạn. Quỹ đầu tư tạo ra hàng loạt các kênh huy động vốn phù hợp với nhu cầu

của cả người đầu tư lẫn người nhận đầu tư. Các nguồn vốn nhàn rỗi riêng lẻ trong
công chúng do vậy sẽ được tập trung lại thành một nguồn vốn khổng lồ, thông qua
Quỹ đầu tư sẽ được đầu tư vào các dự án dài hạn, đảm bảo được nguồn vốn phát
triển vững chắc cho cả khu vực tư nhân lẫn khu vực nhà nước.Qua đó góp phần
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế
Không những thế, các Quỹ đầu tư còn khuyến khích được dòng chảy
vốn nước ngoài:
Đối với luồng vốn gián tiếp, việc đầu tư vào Quỹ sẽ loại bỏ các hạn chế của
họ về giao dịch mua bán chứng khoán trực tiếp, về kiến thức và thông tin về chứng
khoán cũng như giảm thiểu các chi phí đầu tư.
Đối với luồng vốn đầu tư trực tiếp, Quỹ đầu tư góp phần thúc đẩy các dự án
bằng cách tham gia góp vốn vào các liên doanh hay mua lại một phần vốn của bên

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
8


đối tác, tạo thuận lợi cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc thu hồi vốn cũng như
tăng được sức mạnh trong nước ở các liên doanh.
Thứ hai,góp phần vào sự phát triển và ổn định thị trường thứ cấp:
Các QĐT tham gia bảo lãnh phát hành trái phiếu chính phủ và trài phiếu
doanh nghiệp, cung cấp vốn cho các nghành phát triển.Với chức năng này các quỹ
đầu tư có vai trò quan trọng trên thị trường chứng khoán sơ cấp.
Với vai trò các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán,
các QĐT góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường chứng khoán thứ cấp,
góp phần vào sự phát triển của thị trường này thông qua các hoạt động đầu tư
chuyên nghiệp với các phương pháp phân tích khoa học.
Việc đầu tư qua quỹ làm giảm tính đầu cơ ngắn hạn, qua đó làm thị trường
ổn định hơn .
Thứ ba, làm đa dạng thêm các công cụ tài chính của thi trường vốn thông

qua thị trường chứng khoán.
Khi nền kinh tế phát triển và các tài sản tài chính ngày càng tạo khả năng
sinh lời hơn, người đầu tư có khuynh hướng muốn có nhiều công cụ tài chính để
đầu tư,để đáp ứng nhu cầu người đâu tư các quỹ đầu tư hình thành dưới nhiều dạng
sản phẩm tài chính khác nhau.
Thứ tư, xã hội hoá hoạt động đầu tư chứng khoán
QĐT tạo ra được phương thức đầu tư được các nhà đầu tư nhỏ, ít hiểu biết về
thị trường chứng khoán ưa thích .Nó góp phần tăng tiết kiệm của công chúng bằng
việc thu hút tiền đầu tư vào quỹ.
Thứ năm, nâng cao mức độ quản trị và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp nhận vốn, góp phần tạo nên sự năng động, linh hoạt cho các doanh nghiệp,
đảm bảo sức hấp dẫn từ bên ngoài cho nền kinh tế quốc dân
b/ Đối với thị trường chứng khoán
Thứ nhất, quỹ đầu tư tạo sự sôi động và gia tăng tính thanh khoản cho
thị trường chứng khoán thể hiện ở các mặt như sau:
Quỹ đầu tư tạo nguồn cầu cho TTCK: thông qua việc đầu tư các
nguồn vốn của quỹ với tư cách là tổ chức kinh doanh chứng khoán có nguồn vốn
mang tính chất tập trung cao với khối lượng lớn, quỹ sẽ tạo ra nguồn cầu chứng
khoán trong thị trường.Bên cạnh đó, việc có thêm các QĐT chứng khoán tham gia
vào thị trường sẽ tạo ra sự đa dạng đối với các đối tượng tham gia, góp phần tăng
tính định hướng cho quyết định xem đầu tư trên TTCK là một kênh đầu tư mới bên
cạnh các kênh đầu tư truyền thống như : ngoại tệ, vàng, bất động sản ….

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
9


Tạo nguồn cung chứng khoán: việc đầu tư vào các công ty cổ phần góp
phần làm tăng lượng hàng hóa trên TTCK khi các công ty niêm yết giá trên TTCK.
Mặt khác, chứng chỉ quỹ đầu tư công chúng được niêm yết và trở thành hàng hóa

trên TTCK qua đó làm tăng thêm lượng hàng hóa cho TTCK.
Từ việc làm tăng lượng cung cầu trên TTCK làm cho hoạt động mua
bán trên thị trường trở nên nhộn nhịp hơn và tạo tính thanh khoản cho thị trường.
Thứ hai, góp phần bình ổn giá cả giao dịch trên thị trường thứ cấp
và tạo sự định hướng thị trường
QĐT chứng khoán thường đầu tư lâu dài hơn những nhà kinh
doanh chứng khoán thuần túy. Đây là một trong những lí do tạo sự ổn địnhcho
thị trường chứng khoán nói chung và các cổ phiếu của các công ty mà quỹ đầu
tư vào
QĐT được quản lí bởi công ty quản lí quỹ là nhà đầu tư chuyên nghiệp
về phân tích đầu tư, do vậy việc đầu tư chứng khoán trở nên chuyên nghiệp
hơn và hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thể có trên TTCK, làm cơ sở
cho các nhà đầu tư cá nhân tham khảo trước khi quyết định đầu tư vào một
loại chứng khoán nào đó trên TTCK.
c/ Đối với người cần vốn là các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế và
các sáng kiến có thể tạo ra cơ hội kinh doanh:
QĐT vừa là người tư vấn về quản trị doanh nghiệp vừa là người tiếp
thị tài chính và cung cấp thông tin đánh giá dự án đầu tư tốt nhất, giúp các doanh
nghiêp đánh giá tính khả thi của dự án một bước tiến hành đặc biệt quan trọng đối
với các doanh nghiệp
QĐT chứng khoán sẽ là nhà tài trợ chuyên nghiệp thông qua hình thức đầu tư
trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp, vừa cung cấp nguồn vốn với chi phí huy động thấp
đồng thời cũng có khả năng tư vấn về tài chính, quản trị và tái cấu trúc doanh
nghiệp nhằm mục đích phát triển doanh nghiệp mà quỹ đầu tư vào. Vai trò này
đang và sẽ phải được phát huy để thay đổi căn bản phương thức kinh doanh nhỏ lẻ,
thiếu tính liên kết là một trở ngại mà không ít doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay
đang gặp phải.Thông qua Quỹ đầu tư, việc huy động vốn chỉ đơn thuần là phát
hành chứng khoán với chi phí giảm đáng kể.
Đối với các sáng kiến cải tiến kỹ thuật, những ý tưởng mới về thị trường cơ
hội và thời cơ trong sản xuất kinh doanh sẽ được QĐT đóng vai trò như những nhà

tài trợ tích cực để đưa ra những điều đó thành hiện thực. Qua việc đầu tư ban đầu,
các ý tưởng kinh doanh tốt sẽ phát triển và gặt hái được nhiều thành công tương
xứng. Trên thực tế,ta có thể thấy rất nhiều minh chứng cho việc đầu tư vào các ý

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
10


tưởng kinh doanh đã đem lại những thành công lớn về lợi nhuận cũng như khuyến
khích sự sáng tạo cho các cá nhân mở ra các hướng đi mới trong sản xuất, kinh
doanh. Lợi ích này của Quỹ đầu tư được đặc biệt đánh giá cao với các doanh
nghiệp mới, doanh nghiệp vừa và nhỏ, và nhất là trong các nền kinh tế chuyển đổi
Ngoài ra, QĐT chứng khoán là một nhà đầu tư khá trung thành và ổn
định trong dài hạn, đồng thời luôn sẵn sàng đầu tư thêm vốn để doanh nghiệp có
thể mở rộng việc kinh doanh nếu doanh nghiệp dẫn chiếu được những điều kiện
đảm bảo khả năng phát triển của mình. Lợi ích này thu được do sự kết hợp các
công cụ huy động vốn của Quỹ. Đó là các loại chứng khoán do Quỹ phát hành,
cùng với hoạt động của thị trường chứng khoán cho phép trao đổi, mua bán các loại
chứng khoán đó. Mục đích nhằm khuyến khích các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà
đầu tư có khả năng đầu tư dài hạn, cung cấp nguồn tài chính vô cùng cần thiết cho
sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn còn những giới hạn nhất định về quyền kiểm soát
doanh nghiệp nhưng dù có nắm bao nhiêu cổ phần công ty thì cũng không được
tham gia vào ban quản lí công ty do đó doanh nghiệp vẫn đảm bảo quyền tự chủ
trong tổ chức mọi hoạt động .
d/ Đối với nhà đầu tư
Quỹ đầu tư không đóng vai trò là một định chế chung gian, nhưng là tổ chức
đầu tư có hiệu quả với vai trò tổ chức trung gian giữa nhà đầu tư và thị trường
.QĐT hình thành và phát triển song song với các định chế trung gian khác. Đôi khi
nó tạo ra thị trường cạnh tranh trên thị trường . QĐT là trợ thủ đắc lực với nhà đầu

tư nhỏ, những người không thực sự am hiểu về thị trường, thiếu kiến thức và kinh
nghiệm đầu tư. QĐT đứng ra tập hợp số vốn đầu tư nhỏ vốn khó thực hiện các giao
dịch trên thị trường thành khoản vốn lớn. Khi đó các nhà đầu tư nhỏ sẽ dễ dàng
tham gia vào các dự án đầu tư kiếm lời.
Đầu tư vào quỹ là một lựa chọn thú vị và hấp dẫn bên cạnh các kênh đầu tư
truyền thống như vàng, chứng khoán, bất động sản, tiền tệ … Đầu tư một cách dễ
dàng, tiết kiệm chi phí nhưng vẫn đạt được các yêu cầu về lợi nhuận với mức rủi ro
tối thiểu, được quản lí một cách chuyên nghiệp, chặt chẽ nhưng vẫn đảm bảo được
sự năng động của thị trường… Bởi QĐT bao gồm một đội ngũ những nhà quản lý
có kiến thức chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, do đó những phân tích, đánh giá của
họ về các dự án đầu tư tốt hơn khi đó hiệu quả đầu tư cao hơn. Bảo vệ lợi ích cho
các nhà đầu tư. Cụ thể là:
-Tiết kiệm thời gian, công sức,chi phí:

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
11


Khi đầu tư vào quỹ, nhà đầu tư đã gần như bắt đồng tiền “tự động làm việc”
vì đã có các chuyên gia của quỹ đảm nhận công tác chọn lựa loại hình đầu tư, phân
tích nhận định thị trường. Do đó nhà đầu tư có thể hoàn toàn yên tâm thực hiện các
công việc khác của mình
Khi tham gia quỹ sẽ giúp nhà đầu tư giảm thiểu được chi phí giao dịch do:
Một mặt QĐT có khả năng tiếp cận các dự án đầu tư dễ dàng hơn mặt khác QĐT
được coi là một nhà đầu tư lớn nên khả năng nhận được những ưu đãi về giao dịch
lớn hơn.
- Đáp ứng nhiều mục tiêu đầu tư khác nhau ( đa dạng hóa danh mục đầu tư):
Dù mục tiêu đầu tư của nhà đầu tư là gì, số vốn của là bao nhiêu, quỹ luôn có
các sản phẩm phù hợp để đáp ứng và giúp họ tiếp cận các nghiệp vụ đầu tư mà cá
nhân không thể thực hiện như đầu tư vào thị trường trái phiếu, đầu tư vào các bộ

chỉ số.
- Tính linh hoạt và thanh khoản cao
So với các loại hình đầu tư khác như bất động sản hay vàng phải đòi hỏi vốn
lớn và không dễ bán ngay khi cần, đầu tư vào quỹ và hiện thực hóa lợi nhuận rất
thuận tiện bất cứ lúc nào bằng cách mua / bán chứng chỉ quỹ thông qua đại lý phân
phối hoặc với chính công ty quản lý quỹ. Người đầu tư có thể bán lại phần vốn góp
cho quỹ khi có nhu cầu rút lui khỏi thị trường. Khi tiến hành đầu tư riêng lẻ nhà
đầu tư nhận cổ tức bằng tiền mặt không đựơc nhận lãi vốn góp và phải mất một
khoản chi phí tái đầu tư.. Do đó QĐT đem lại cho nhà đầu tư tính thanh khoản cao
hơn.
Thuận tiện cho người đầu tư: Người đầu tư có thể mua hoặc bán chứng chỉ
Quỹ đầu tư trực tiếp hoặc thông qua môi giới, trung gian. Việc mua bán có thể
thông qua thư tín, điện thoại hay hệ thống mạng máy tính. Các nhà đầu tư có thể
thoả thuận với Quỹ để tái đầu tư tự động (automatic reinvestment) hoặc phân chia
lợi nhuận theo từng thời kỳ. Nhà đầu tư còn được Quỹ cung cấp các dịch vụ như
thông tin và tư vấn.
- Tính minh bạch
Lợi ích của nhà đầu tư luôn được bảo vệ với các quy định pháp luật chặt chẽ
và quy trình giao dịch nghiêm ngặt theo sự giám sát của Ủy Ban Chứng Khoán Nhà
Nước và ngân hàng giám sát độc lập. So với các loại hình tổ chức tài chính khác,
quỹ đầu tư chịu sự giám sát chặt chẽ hơn bởi nhiều quy định nhằm đảm bảo quỹ
không vi phạm đến lợi ích của các nhà đầu tư.
- Quản lí tài sản chuyên nghiệp

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
12


Tài sản và đồng vốn của nhà đầu tư được quản lý bởi những chuyên gia đầu
tư dày dạn kinh nghiệm, đội ngũ quản lí rõ ràng trình độ chuyên môn cao am hiểu

thị trường…. Dù đã có hay chưa có kinh nghiệm, hoặc số vốn của bạn nhiều hay ít
thì khi tham gia vào quỹ, bạn vẫn sẽ được tư vấn cặn kẽ và hỗ trợ lựa chọn sản
phẩm đầu tư phù hợp mục tiêu của mình. Các chuyên gia làm việc tại quỹ cũng
phải đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của ngành và quy định pháp luật để đảm bảo
tính chuyên nghiệp và đạo đức hành nghề của họ. Cho nên,QĐT khắc phục được
những hạn chế về tính chuyên nghiệp của người đầu tư riêng lẻ.
Người đầu tư riêng lẻ do thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về thị trường cho
nên mất nhiều thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường, việc phân tích
dánh giá dự án đầu sẽ tư không sát thực dẫn đến hiệu quả đầu tư không cao.
- Gia tăng mức độ an toàn
Đầu tư vào quỹ giúp nhà đầu tư hạn chế rủi ro hơn so với tự đầu tư trực tiếp
vì đã có đội ngũ chuyên gia phân tích với các công cụ, phần mềm hỗ trợ cũng như
khả năng thu thập thông tin tốt hơn. Ngoài ra việc đầu tư sẽ được phân bổ khoa học
để phân tán rủi ro và đem lại sự an toàn cho đồng vốn của nhà đầu tư.
Đồng thời, QĐT tập hợp những nguồn vốn của người đầu tư nhỏ sẽ làm tăng
khả năng đa dạng hoá đầu tư, phân tán rủi ro cho người đầu tư.
e/ Đối với nhà nước.
QĐT có vai trò quan trọng đối với qua trình cổ phần hoá (CPH) và huy
động vốn đầu tư của chính phủ. Thực tế hiện nay các doanh nghiệp gặp khó khăn
trong trương trình CPH do đó làm chậm trương trình cổ phần hóa của nhà nước.
QĐT có thể giúp doanh nghiệp thực hiện vấn đề đó nhanh chóng và hiệu quả qua
việc cung ứng dịch vụ tư vấn xây dựng phương án CPH tham gia định giá doanh
nghiệp, cơ cấu tài chính và thiết lập dự án đầu tư..... Từ việc phân tích trên ta có thể
thấy QĐT có vai trò hết sức quan trọng đối với thị trươngchứng khoán và các chủ
thể liên quan. Do đó muốn có thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ thì nhất
thiết phải có sự hoạt động hiệu quả của các QĐT
Tăng tính thanh khoản cho tài sản đầu tư: Việc chuyển đổi tài sản thành tiền
mặt với chi phí thấp nhất trong thời gian ngắn nhất luôn là tiêu chí hàng đầu đối với
mỗi nhà đầu tư. Chứng chỉ Quỹ đầu tư chính là một loại chứng khoán, do vậy,
người đầu tư hoàn toàn có thể mua bán nó trên thị trường chứng khoán hoặc bán lại

cho bản thân Quỹ (nếu là Quỹ đầu tư dạng mở).

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
13


1.1.5 Các loại hình của quỹ đầu tư chứng khoán
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư căn cứ theo
tiêu chí phân loại khác nhau và có các tiêu chí chính như sau:
QUỸ ĐẦU TƯ

Nguồn vốn huy động

QĐT tập thể
QĐT thành viên

Cấu trúc vận động

QĐT dạng đóng
QĐT dạng mở

Đối tượng đầu tư
Cơ cấu tổ chức và quản lí hoạt động

QĐT chứng khoán
QĐT dạng công ty
QĐT thị trường tiền tệ
QĐT dạng hợp đồng( tín thác)
Quỹ khác:…


Ngoài căn cứ tiêu chí phân loại chính trên còn có rất nhiều các căn cứ khác
để phân loại quỹ đầu tư như:
Theo mức độ tự do trong quản lý ( mức độ linh hoạt trong quỹ)
Quỹ đầu tư cố định: Là loại quỹ không cho người quản lý quỹ được thay đổi các
chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ ngoại trừ trường hợp người phát hành
chứng khoán nằm trong danh mục thay đổi tính chất hay quyền hạn pháp lý của
người sở hữu chứng khoán. Thuận lợi của quỹ là người đầu tư có thể các định bản

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
14


chất của chứng khoán nằm trong danh mục đầu tư.Bất lợi của quỹ là khả năng chịu
đựng kém khi giá chứng khoán trong danh mục đầu tư bị giảm.
Quỹ đầu tư linh hoạt: Là loại quỹ đầu tư cho phép người quản lý quỹ có thể thay
đổi đổi các chứng khoán trong danh mục đầu tư của quỹ theo tính toán của cá nhân
nhằm tránh những tổn thất có thể xảy ra đối với giá trị tài sản của quỹ.Thuận lợi
của quỹ là có được tự do nhất định tron quản lý quỹ, đạt tính chuyên môn cao cho
các chuyên gia, cho phép họ kiểm soát các suy giảm trong giá trị tài sản thuần trên
cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ.
Theo mục đích đầu tư
Quỹ đầu tư theo danh mục: chủ yếu mua các chứng khoán niêm yết tạo sở
giao dịch chứng khoán địa phương, hoặc cổ phiếu của công ty thuộc thị trường mới
nổi niêm yết tại các trung tâm tiền tệ quốc tế.
Quỹ đầu tư cổ phần tư nhân: mua các cổ phần tối thiểu qun trọng của các
công ty chưa niêm yết.
Quỹ đầu tư mạo hiểm: chủ yếu mua cổ phần tư nhân trong các công ty mới
và nhỏ hơn. Quỹ đầu tư mạo hiểm mua cổ phiếu thiểu số quan trọng của các công
ty và thường cung cấp tư vấn về quản lý.
Quỹ tương hỗ trong nước: huy động vốn từ cá nhà đầu tư trong nước và mua

chứng khoán được niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước.
…….
1.5.1 Căn cứ vào nguồn vốn huy động (phương thức huy động vốn)
Căn cứ vào phương thức huy động vốn, có thể chia quỹ đầu tư chứng
khoán thành hai loại là quỹ tập thể ( hay quỹ công chúng) và quỹ cá nhân (thành
viên)
a/ Quỹ tập thể( công chúng):
là quỹ huy động vốn bằng việc phát hành CCQ rộng rãi ra công chúng với
số lượng tối thiểu là 100 NĐT, có thể là cá nhân hay pháp nhân nhưng đa phần là
các NĐT riêng lẻ ít am hiểu thị trường với số lượng vốn huy động đạt được ít nhất
là 50 tỷ đồng Việt Nam.Quỹ đại chúng cung cấp cho các NĐT nhở phương tiện đầu
tư đảm bảo đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro và chi phí đầu tư thấp với hiệu
quả cao do tính chuyên nghiệp ủa QĐT mang lại
đây còn gọi là quỹ đầu tư tập thể, là những quỹ đầu tư được hình thành từ
vốn góp của rất nhiều nhà đầu tư và ủy thác cho một công ty quản lí quỹ để thực
hiện các hoạt động đầu tư của quỹ. Thuật ngữ Muatual Fund có nghĩa là quỹ tương

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
15


hỗ, thuật ngữ này được dùng rất nhiều ở Mỹ, nơi có hệ thống các QĐT rất phát
triển. Thuật ngữ này cũng là một cách gọi đối với các quỹ công chúng.
Do nguồn vốn của quỹ công chúng được huy động từ nhiều nhà đầu tư nên
hoạt động đầu tư của quỹ công chúng phải tuân thủ rất nhiều hạn chế nghiêm ngặt
của pháp luật. Công ty quản lí quỹ, cũng phải tuân thủ rất nhiều điều kiện khắt khe,
trong hoạt động quản lí của các quỹ này. Cụ thể trong nội dung của điều 92- luật
chứng khoán 2006
Điều 92. Hạn chế đối với quỹ đại chúng


1. Công ty quản lý quỹ không được sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu
tư chứng khoán để thực hiện các hoạt động sau đây:
a) Đầu tư vào chứng chỉ quỹ của chính quỹ đại chúng đó hoặc của một
quỹ đầu tư khác;
b) Đầu tư vào chứng khoán của một tổ chức phát hành quá mười lăm
phần trăm tổng giá trị chứng khoán đang lưu hành của tổ chức đó;
c) Đầu tư quá hai mươi phần trăm tổng giá trị tài sản của quỹ vào
chứng khoán đang lưu hành của một tổ chức phát hành;
d) Đầu tư quá mười phần trăm tổng giá trị tài sản của quỹ đóng vào bất động
sản; đầu tư vốn của quỹ mở vào bất động sản;
đ) Đầu tư quá ba mươi phần trăm tổng giá trị tài sản của quỹ đại chúng
vào các công ty trong cùng một nhóm công ty có quan hệ sở hữu với nhau;
e) Cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào.
2. Công ty quản lý quỹ không được phép vay để tài trợ cho hoạt động
của quỹ đại chúng, trừ trường hợp vay ngắn hạn để trang trải các chi phí cần
thiết cho quỹ đại chúng. Tổng giá trị các khoản vay ngắn hạn của quỹ đại
chúng không được quá năm phần trăm giá trị tài sản ròng của quỹ đại chúng
tại mọi thời điểm và thời hạn vay tối đa là ba mươi ngày.
3. Trừ trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều này, cơ cấu đầu tư
của quỹ đại chúng có thể sai lệch nhưng không quá mười lăm phần trăm so
với các hạn chế đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này. Các sai lệch phải là kết
quả của việc tăng hoặc giảm giá trị thị trường của tài sản đầu tư và các khoản
thanh toán hợp pháp của quỹ đại chúng.
4. Công ty quản lý quỹ có nghĩa vụ báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước và công bố thông tin về các sai lệch trên. Trong thời hạn ba tháng, kể từ
ngày sai lệch phát sinh, công ty quản lý quỹ phải điều chỉnh lại danh mục đầu
tư để bảo đảm các hạn mức đầu tư quy định tại khoản 1 Điều này.

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
16



Mục đích của các hạn chế trên là nhằm đảm bảo sự an toàn cho quỹ đầu tư
chứng khoán, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của các nhà đầu tư.
b/Quỹ cá nhân (thành viên)
Quỹ này huy động vốn bằng phương thức phát hành riêng lẻ CCQ cho một
nhóm nhở cacsc NĐT dựa trên hợp đồng góp vốn của tối đa là 30 thành viên và chỉ
bao gồm thành viên pháp nhân với số vốn đạt được ít nhất là 50 tỷ đồng Việt Nam.
Tính thanh khoản của quỹ này sẽ thấp hơn quỹ đại chúng các NĐT tham gia vào
các quỹ này thường với lượng vốn lớn nhưng họ có thể thường xuyên tham gia vào
trong việc kiểm soát đầu tư của quỹ. Việc kiểm soát này có thể dưới hình thức là
thành viên của HĐQT, cung cấp tư vấn hoặc có ảnh hưởng đáng kể đến các thành
viên của các HĐQT của công ty nhận đầu tư.
Về bản chất, quỹ thành viên là một dạng quỹ đầu tư chứng khoán tuy nhiên,
quỹ này chỉ giới hạn ở một số ít nhà đầu tư tham gia góp vốn.
Mục tiêu chủ yếu của việc thành lập các quỹ thành viên là để thực hiện các
hoạt động đầu tư có tính chất tương đối mạo hiểm. Các hoạt động đầu tư này có thể
mang lại những khoản lợi nhuận tiềm năng rất cao cho các nhà đầu tư, tuy nhiên rủi
ro cũng rất lớn.
Với tính chất rủi ro như vậy, quỹ thành viên không phù hợp với việc huy
động vốn từ quần chúng. Quy mô và phạm vi huy động vốn của quỹ chỉ tập trung
vào một số nhà đầu tư lớn, có tiềm lực tài chính và có khả năng chấp nhận những
rủi ro cao trong hoạt động đầu tư. Chính vì vậy, để tham gia vào quỹ thành viên,
các nhà đầu tư phải đạ được những điều kiện nhất định do pháp luật đặt ra.
Với tính chất và mục tiêu như trên, các quỹ thành viên thường không phải
chịu các hạn chế như quỹ công chúng.
Hiện tại, hầu hết các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều có hình
thức đầu tư này.
1.5.2 Căn cứ vào cấu trúc vận động vốn
a/Quỹ đóng

Đây là hình thức quỹ phát hành CCQ một lần duy nhất khi tiến hành
huy động vốn cho quỹ và quỹ không thực hiện việc mua lại cổ phiếu/CCQ khi
NĐT có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho loại quỹ này, sau khi
kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các CCQ sẽ được niêm yết trên
TTCK. Các NĐT có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc CCQ của
mình thông qua thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và
không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. CCQ có thể được giao dịch

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
17


với giá thấp hoặc cao hơn giá trị tài sản dòng của quỹ ( NAV). Hình thức quỹ
đóng này mới được áp dụng tại Việt Nam, đó là quỹ đầu tư VF1 do công VFM
huy động vốn quản lý.

Đặc tính của quỹ đóng
Chỉ tiêu

ĐẶC TÍNH
Huy động vốn từ NĐT trong một giai đoạn phát hành,có
thể tăng vốn theo thời điểm khác nhau.
CTQLQ chỉ giao dịch trực tiếp với NĐT trong thời gian
huy động vốn, và khi Quỹ giải thể do hết thời hạn hoạt động.
Quỹ đóng được niêm yết và giao dịch trên sàn giao dịch
chứng khoán.
NĐT sử dụng các dịch vụ giao dịch ccq như một chứng
khoán niêm yết thông qua sàn giao dịch
-


Giao
dịch
mua/bán
chứng
chỉ quỹ

Dựa trên giá thị trường, phụ thuộc vào lượng cung/cầu
thị trường.
Có thể lớn hoặc nhỏ hơn giá trị NAV của Quỹ
Giá trị NAV của quỹ phản ánh hiệu quả đầu tư nhưng chỉ
mang tính tham khảo.
NĐT trả phí giao dịch chứng khoán cho công ty chứng
khoán.
-

Giá giao
dịch

Phân
phối

- Việc phân phối CCQ chỉ thực hiện trong thời gian huy động
lần đầu, hoặc khi tăng vốn điều lệ Quỹ thông qua công ty
chứng khoán hoặc CTQLQ.

b/Quỹ mở
Quỹ mở là quỹ được thành lập với thời gian vô hạn. Sau đợt phát hành lần
đầu ra công chúng, giao dịch mua/bán của nhà đầu tư được thực hiện định kỳ căn
cứ vào giá trị tài sản ròng (NAV). Giao dịch này được thực hiện trực tiếp với công
ty Quản Lý Quỹ hoặc tại các Đại lý chỉ định.


SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
18


Khác với quỹ đóng, tổng vốn cũa quỹ mở biến động theo từng ngày giao
dịch do tính chất đặc thù của nó là NĐT được quyền bán lại CCQ đầu tư cho
quỹ, và quỹ phải mua lại các chứng chỉ theo giá trị thuần vào thời điểm giao
dịch. Đối với hình thức quỹ này, các giao dịch mua bán CCQ được thực hiện
trực tiếp với CTQLQ và các CCQ không được niêm yết trên TTCK. Do việc
đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở các nước
có nền kinh tế và TTCK phát triển như Châu Âu, Mỹ, Canada… và chưa có
mặt tại Việt Nam. Quỹ mở chỉ mới dừng lại ở khái niệm theo Luật Chứng
Khoán năm 2006 và chưa có văn bản cụ thể hướng dẫn thực hiện cho loại quỹ
này ở Việt Nam
Tổng vốn của quỹ mở biến động theo từng đợt giao dịch do tính chất đặc thù
của nó. Giao dịch mua bán chứng chỉ quỹ được thực hiện trực tiếp với công ty quản
lý quỹ và các chứng chỉ quỹ không được niêm yết trên thị trường chứng khoán
Đặc tính của quỹ mở
Chỉ tiêu

ĐẶC TÍNH
-

Giao dịch
mua/bán
chứng chỉ
quỹ

-


Giá giao
dịch
Phân phối

Huy động vốn liên tục trong quá trình hoạt động
Có thể mua/bán vào thời điểm định kỳ với CTQLQ.
Có thể chuyển đổi giữa các quỹ khác nhau cùng công ty quản
lý quỹ.
Không niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán.
CTQLQ phải cân bằng giữa tỷ lệ tiền mặt phù hợp và đảm
bảo tính thanh khoản khi nđt muốn rút vốn.
Quy trình quản lý quỹ phức tạp hơn vì luồng tiền được
ra/vào thường xuyên – thời điểm nđt nộp tiền/rút vốn có khả
năng ảnh hưởng tới kết quả đầu tư của quỹ;

- Mua/bán CCQ căn cứ vào giá trị NAV của quỹ tại thời điểm giao
dịch. -Không có chiết khấu giữa giá giao dịch và giá trị NAV.
- NĐT phải trả phí phát hành/phí mua lại/phí chuyển đổi cho
CTQLQ khi thực hiện giao dịch.
-

CCQ được phân phối liên tục tại các Đại lý Phân phối (Cty
Chứng khoán, ngân hàng, CTQLQ).
Phân biệt giữa quỹ đầu tư đóng và quỹ đầu tư mở

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
19



Tiêu chí

Quỹ mở

Quỹ đóng

Số lượng cổ phiếu/CCQ
lưu hành

Luôn thay đổi

Ổn định

Chào bán ra công chúng/
phát hành

Liên tục( nhiều lần)

Một lần

Việc mua/ bán lại

Có mua lại

Không mua lại

Thời gian hoạt động

Vô thời hạn


Thông thường có giới hạn và
được quy định trong bản cáo
bạch

Niêm yết trên TTCK

Không



Nơi mua bán/ giao dịch
chứng chỉ quỹ

Mua bán trực tiếp
tại quỹ đầu tư,
người bảo lãnh phát
hành hay môi giới,
các đại lí được ủy
quyền

Cổ phiếu giao dịch trên thị
trường chứng khoán tập trung
và OTC. Hay nói cách khác là
trên thị trường thứ cấp như
thông qua HOSE

Mối quan hệ giữa giá
mua/ giá trị tài sản ròng
NAV


Giá mua =NAV
phí giao dịch

Giá mua được xác định theo
cung cầu trên thị trường => giá
mua có thể thấp hơn hoặc cao
hơn giá trị tài sản thuần

+/-

Ngoài ra còn có một số dạng khác xuất phát từ hai hình thái trên:
Quỹ bán mở: có sự hạn chế hơn so với Quỹ mở. Nhà quản lý Quỹ đồng ý mua
cổ phiếu từ các cổ đông tại mức giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phiếu tại các thời gian
định trước.
Quỹ tín thác đơn vị UIT (unit investment trust): được thành lập theo một chứng thư
uỷ thác hay một công cụ tương đương về tính pháp lý. Vốn đóng góp cũng như mọi đầu
tư bằng vốn đóng góp sẽ do cá nhân hoặc tổ chức được uỷ thác giữ. Ban đầu, khi thành
lập Quỹ, nhà tư vấn đầu tư thu xếp gộp vào trong một danh mục đầu tư rồi phân ra thành
các đơn vị (giống như các cổ phần thường) để bán cho người đầu tư qua môi giới. Các
đơn vị thường được bán theo giá trị tròn số (Mỹ: 1.000USD) trong lần phát hành đầu tiên.
SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
20


Các nhà môi giới, bảo lãnh phát hành sẽ đồng thời là người duy trì hoạt động mua bán các
đơn vị đó. Giá các đơn vị sẽ tuỳ thuộc vào giá các chứng khoán trong danh mục đầu tư
của Quỹ. Người mua các đơn vị đầu tư này phải trả một khoản phí ban đầu cho người
môi giới bán, thường là 4%. Chính khoản phí cao như vậy mà các nhà đầu tư ngắn hạn
thấy không có lợi khi đầu tư vào loại quỹ này
1.5.3 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức và quản lí hoạt động

Dựa vào cơ cấu tổ chức và hoạt động quỹ chia quỹ đầu tư thành hai dạng đó
là quỹ đầu tư dạng công ty và quỹ đầu tư dạng hợp đồng( tín thác).
a/Quỹ đầu tư dạng công ty
Trong mô hình này, QĐT là một pháp nhân, tức là một công ty được hình
thành theo quy định của pháp luật từng nước. Cơ quan điều hành cao nhất của quỹ
là hội đồng quản trị do các cổ đông (NĐT) bầu ra, có nhiệm vụ chính là quản lý
toàn bộ hoạt động của quỹ, lựa chọn CTQLQ, giám sát hoạt động đầu tư của
CTQLQ và có quyền thay đổi CTQLQ. Trong mô hình này, CTQLQ hoạt động
như một nhà tư vấn đầu tư, chịu trách nhiệm tiến hành phân tích đầu tư, quản lý
danh mục đầu tư và thực hiện các công việc quản trị kinh doanh khác. Mô hình này
chưa xuất hiện ở Việt Nam vì theo quy định của UBCKNN, QĐT không có tư cách
pháp nhân.
Công ty đầu tư hoạt động trên cơ sở Luật doanh nghiệp và các quy định tài
chính chuyên ngành. Được thiết lập dưới hình thức công ty cổ phần.
Công ty đầu tư huy động vốn bằng cách phát hành cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ
đầu tư và bán cho người đầu tư. Nhà đầu tư là cổ đông với tư cách một đông
thường. Cổ phiếu và chứng chỉ quỹ có thể niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán
hoặc thị trường phi tập trung.
b/Quỹ đầu tư dạng hợp đồng
Đây là mô hình quỹ tín thác đầu tư. Khác với mô hình QĐT dạng công ty,
mô hình này QĐT không phải là pháp nhân mà hoàn toàn là một lượng tiền nhất định
do các nhà đầu tư đóng góp. CTQLQ đứng ra thành lập quỹ, tiến hành việc huy động
vốn, thực hiện đầu tư theo những mục tiêu đã đề ra trong điều lệ quỹ. Bên cạnh đó,
ngân hàng giám sát có vai trò bảo quản vốn và các tài sản của quỹ, quan hệ giữa
CTQLQ và ngân hàng giám sát được thể hiện bằng hợp đồng giám sát trong đó quy
SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
21


Quản lý

Lưu lý
Giám sát

Kiểm toán

định quyền lợi và nghĩa vụ của hai bên trong việc thực hiện và giám sát việc đầu tư
đểĐiều
bảohành
vệ quyền lợi của các NĐT. NĐT là những người góp vốn vào quỹ nhưng
Quản líphải
đầu tư
không
là cổ đông như mô hình NĐT dạng công ty và ủy thác việc đầu tư cho
Nghiên cứu
CTQLQ để bảo đảm khả năng sinh lợi cao nhất từ khoản vốn đóng góp của họ.

Công ty quản lí quỹ

Công ty kiểm toá
(Erast & Young)

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
22


Là một cơ chế hoạt động gồm công ty quản lý quỹ, người lưu giữ tài sản
của quỹ và người đầu tư.
Quỹ này được tạo lập bằng việc ký hợp đồng tín thác giữa công ty quản lý
quỹ và người được tín thác. Người đầu tư trở thành người hưởng lợi của quỹ bằng
việc đóng tiền vào quỹ và sau đó được nắm giữ chứng chỉ quỹ.

Ngoài ra, theo thông lệ quốc tế, việc phân loại các quỹ đầu tư cũng được xem
xét theo hình thức đầu tư tập trung cửa quỹ. Khi quỹ được thành lập, trong bản cáo
bạch của quỹ nêu rất rõ quỹ sẽ đầu tư lĩnh vực nào hoặc quốc gia nào…, hoặc có
những quỹ lại taaoj trung vào một lĩnh vực nào đó như: lĩnh vực công nghiệp, lĩnh
vực dịch vụ, lĩnh vực sản xuất phần mềm….
1.5.4 Căn cứ vào đối tượng đầu tư

Căn cứ vào đối tượng đầu tư quỹ đầu tư được chia ra thành rất nhiều loại và
bản thân mỗi loại lại bao gồm nhiều dạng nhỏ khác. Sơ đồ trên là một số dạng nhở
nói chung. Cụ thể sẽ như sau:
a/Quỹ đầu tư cổ phiếu (stock fund):
Là quỹ đầu tư hoàn toàn vào một chủng loại cổ phiếu nhất định, như cổ
phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu chưa niêm yết, mạo hiểm… để phù hợp
với nhu cầu, sở thích, điều kiện của từng nhà đầu tư cụ thể. Bao gồm:

SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
23


– Quỹ đầu tư cổ phiếu tăng trưởng (growth fund) theo đuổi sự tăng trưởng
vốn, thu nhập cổ tức không phải là yếu tố chính yếu. Các Quỹ này đầu tư vào cổ
phiếu thường của các công ty có chiều hướng tăng trưởng cao.
– Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm (venture capital fund hay hedging fund) theo
đuổi sự tăng trưởng tối đa về vốn, thu nhập cổ tức không phải là yếu tố chính yếu.
Các Quỹ này đầu tư vào các cổ phiếu của công ty mới, công ty đang gặp khó khăn
hay thuộc các ngành tạm thời không được ưa chuộng. Các Quỹ này có thể sử dụng
các kỹ thuật đầu tư đòi hỏi mức rủi ro cao hơn trung bình.
– Quỹ đầu tư thu nhập – vốn cổ phần (income-equity fund) theo đuổi mức
thu nhập cao bằng việc đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu và công ty có tiền sử trả cổ
tức tốt.

– Quỹ đầu tư chọn ngành (industry selection fund) theo đuổi sự tăng trưởng
vốn. Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo vị thế của ngành hoặc theo một số
tiêu chuẩn riêng của Quỹ. Hình thức đầu tư này đi ngược lại nguyên tắc đa dạng
hoá danh mục đầu tư, nó tạo những rủi ro không thể lường trước.
– Quỹ đầu tư chọn vốn (capital selection fund) theo đuổi sự tăng trưởng vốn.
Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo quy mô vốn của công ty, có thể là công
ty vốn lớn, trung bình hoặc vốn nhỏ.
– Quỹ đầu tư tăng trưởng và thu nhập (growth and income fund) theo đuổi sự
tăng trưởng vốn dài hạn và thu nhập hiện tại. Các Quỹ này đầu tư vào cổ phiếu
thường của các công ty có giá trị cổ phần tăng lên và có một tiền sử trả cố tức vững
chắc.
b/Quỹ đầu tư vàng và kim loại quý (precious metals/ gold fund) theo đuổi sự
tăng trưởng vốn. Quỹ này đầu tư vào các loại kim loại như vàng, bạc, kim
cương… hoặc cổ phiếu của các công ty kinh doanh các loại kim loại này. Sự tăng
giảm giá trị ròng của quỹ phụ thuộc vào sự biến động giá của các kim loại này.
c/Quỹ đầu tư chỉ số (index fund) theo đuổi mức thu nhập hiện tại cao
Là quỹ có danh mục đầu tư được xây dựng để mô phỏng một chỉ số cụ thể
(như S&P 500 hay VN-Index) nhằm mục đích đa dạng hóa danh mục và tối thiểu
hóa rủi ro phi hệ thống. Loại quỹ này phù hợp với các nhà đầu tư thụ động bởi nó
cho phép người quản lý bỏ ra ít công sức hơn so với các loại quỹ có danh mục biến
đổi thường xuyên.
Hai loại hình quỹ đầu tư chỉ số phổ biến là quỹ tương hỗ chỉ số và quỹ giao
dịch chỉ số – Exchange Traded Fund (ETF). Exchange Traded Fund (Quỹ ETF) là
một hình thức quỹ đầu tư thụ động mô phỏng theo một chỉ số cụ thể. Danh mục của
SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
24


ETF gồm một rổ chứng khoán có cơ cấu như cơ cấu của chỉ số mà nó mô phỏng.
Theo đó, nhà quản lý quỹ không cần tích cực tái cơ cấu danh mục của quỹ mà chỉ

cần bám sát theo rổ chứng khoán của chỉ số mục tiêu.
d/Quỹ đầu tư trái phiếu (bond fund):
Là quỹ đầu tư hoàn toàn vào một hoặc nhiều chủng loại trái phiếu như trái
phiếu chuyển đổi (convertible bond), trái phiếu doanh nghiệp (corporate bond), trái
phiếu chính phủ (government bond)
– Quỹ đầu tư thu nhập chính phủ (government income fund) theo đuổi lợi
nhuận hiện tại. Các Quỹ này đầu tư vào nhiều loại chứng khoán chính phủ bao gồm
trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu thế chấp…
– Quỹ đầu tư trái phiếu công ty (corporate bond fund) theo đuổi một mức thu
nhập cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu gồm các trái phiếu công ty và
một tỷ lệ trái phiếu kho bạc nhất định
– Quỹ đầu tư trái phiếu địa phương dài hạn (municipal bond fund-long-term)
theo đuổi thu nhập không bị đánh thuế bởi chính phủ. Các Quỹ này đầu tư vào các
trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành nhằm cung cấp vốn cho các công
trình địa phương như trường học, bệnh viện, cầu đường…
– Quỹ đầu tư trái phiếu chuyển đổi (convertible bond fund) theo đuổi mức
thu nhập hiện tại và sự tăng trưởng vốn trong tương lai. Các Quỹ này đầu tư vào
các trái phiếu kèm theo quyền được chuyển đổi sang cổ phiếu thường theo các điều
kiện
cam
kết.
– Quỹ đầu tư thu nhập – trái phiếu (income-bond fund) theo đuổi mức lợi nhuận
hiện tại cao. Các Quỹ này đầu tư vào một tập hợp các trái phiếu công ty và trái
phiếu chính phủ.
– Quỹ đầu tư trái phiếu toàn cầu (global bond fund) theo đuổi một mức thu
nhập cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu gồm các chứng khoán nợ của
các công ty và các quốc gia trên toàn thế giới, kể cả các chứng khoán nợ quốc gia.
– Quỹ đầu tư trái phiếu lợi suất cao (high-yield bond fund) theo đuổi một lợi
suất cao nhưng chứa đựng một mức rủi ro cao hơn các Quỹ trái phiếu công ty.


SVTH: NGUYỄN THỊ VÂN- 1141270022
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×