Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tổng hợp bài soạn phần IV chương trình trung cấp chính trị- hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.96 KB, 10 trang )

Câu hỏi 3: phân tích làm rõ nội dung, giải pháp đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế trí thức ở Việt Nam. Liên hệ thực tiễn địa phương ?
- Mở bài: Quan hệ sản xuất là nhân tố quy định của XH, lực lượng sản xuất được nhờ vào CNH,
HĐH phát triển đa dạng và đưa XH ngày càng hiện đại và văn minh, sự phát triển của CNH, HĐH
ở nước ta có những nội dụng cơ bản.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của đảng yêu cầu: “tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh
quốc tế tạo ra và tiền năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước theo định
hướng XHCN gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của đảng tiếp tục
khẳng định mạnh mẽ yêu cầu này.
- CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động SXKD, dịch vụ và quản lý
kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động với công
nghệ phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dự trên sự phát triển của công nghiệp và tiến
bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Kinh tế tri thức “ Là nền kinh tế, trong đó việc tạo ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực
chủ yếu của sự tăng trưởng của quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”.
* Nội dung của CNH – HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở VN:
- Phát triển mạnh các ngành và SP có giá trị gia tăng cao, dựa nhiều vào tri thức, kết hợp sử
dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam và của nhân loại. Tạo điều kiện thuận lợi huy
động mọi nguồn lực cho sự tăng trưởng nhanh theo chiều rộng trên tất cả các ngành, lĩnh vực, mặt
khác phải tăng tốc và phát triển rút ngắn bằng con đường lựa chọn mạnh dạn bỏ qua một số thế hệ
công nghệ cũ, đi thẳng vào công nghệ cao nhằm tăng nhanh các ngành công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ có hàm lượng tri thức, giá trị gia tăng cao phù hợp với thực tế trong nước và xu thế thị
trường thế giới.
- Sử dụng kinh tế tri thức mới để phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn như: CNTT, khai khoáng,
luyện kim, hóa chất, chế biến nông sản…đẩy nhanh CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn, sử dụng
công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
- Coi trọng số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát triển của đất
nước ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án KT-XH. CNH – HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức phải hướng vào bảo đảm tăng trưởng thực tế. Quá trình CNH – HĐH gắn với phát triển
kinh tế tri thức phải là quá trình phát triển hoàn thiện về mọi mặt của nền kinh tế - XH, môi trường.


- XD cơ cấu nền kinh tế hiện đại và hợp lý theo khu vực và lãnh thổ, cơ cấu kinh tế hiện đại tạo
ra tăng trưởng kinh tế nhanh trong hiện tại mà còn bảo đảm phát triển bền vững trong tương lai.
- Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động, của tất cả các lĩnh vực, các ngành,
nhất là các lĩnh vực có sức cạnh tranh cao. Trong điều kiện tự do hóa và hội nhập kinh tế quốc
tế, để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp, của ngành trong nước chúng ta
phải coi trọng phát triển kinh tế tri thức và công nghệ sản xuất. Coi trọng tìm kiếm các giải pháp
nhằm giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành.
- Tránh nguy cơ trở thành nền kinh tế gia công, phải tăng cường phát triển công nghiệp, hỗ trợ tăng
cường nội địa hóa sản xuất, giữ vững thị trường trong nước, đồng thời mở rộng thị trường quốc tế.
- 5 Giải pháp:
- Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Cần chăm lo phát triển nguồn nhân lực,
nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài, phải ưu tiên phát triển giáo dục và đào tạo, thực sự coi đó là
quốc sách hàng đầu. Cải cách toàn diện giáo dục và đầo tạo, coi đó là nhiệm vụ cấp bách. Xây
dựng xã hội học tập dưới nhiều hình thức. Nang cao chất lượng toàn diện cho người lao động.
- Thúc đẩy phát triển khoa học và công nghệ: Khoa học và công nghệ có vai trò là động lực,
quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của toàn bộ quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức. Xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định, đánh giá chính xác
nguồn tài nguyên quốc gia và triển khai đường lối, chủ trương CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức đạt hiệu quả cao với tốc độ nhanh. Thực hiện chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà


khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao. Phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để bảo đảm tri thức, công nghệ
đều được trao đổi, mua bán, chuyển giao đảm bảo lợi nhuận trên thị trường, cạnh tranh bình đẳng.
Có cơ chế chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, đi thẳng vào các công nghệ tiên tiến, chất
lượng cao. Đổi mới cơ chế quản lý tài chính phù hợp với đặt thù sáng tạo khoa học và công nghệ.
- Tạo lập nguồn vốn đầu tư cho đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức:
Vốn được tạo lập từ hai nguồn là tích lũy trong nội bộ nền kinh tế và thu hút từ bên ngoài, việc tích
lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế được thực hiện trên cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thu
hút các nguồn vốn từ bên ngoài, phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế mở cửa nền kinh tế, sử dụng nhiều

hình thức như: thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước goài, vay vốn, hợp tác liên doanh…
- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Trong xu thế toàn cầu hóa, mở rộng và nâng
cao hiệu quả kinh tế đối ngoại là một đoài hỏi thiết yếu, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách
kinh tế đối ngoại, nhất là cơ chế, chính sách hợp tác về khoa học và công nghệ, hợp tác đầu tư, hợp
tác giáo dục và đào tạo và phải đảm bảo hình thức hợp tác vừa có hiệu quả kinh tế cao, giữ vững
độc lập và chủ quyền quốc gia dân tộc.
- Bảo đảm sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và
nâng cao hiệu lực quản lý của NN: Phải bảo đảm tính nhất quán, tính đồng bộ và ổn định lâu dài
của hệ thống luật pháp, của đường lối, chính sách nói chung và đường lối chính sách kinh tế nói
riêng. Phải bảo đảm sự ổn định về kinh tế, trước hết là ổn định thị trường, giá cả, phải kiểm soát
được lạm phát, môi trường cạnh tranh phải lành mạnh. Phải bảo đảm sự ổn định về xã hội, người
dân tin tưởng vào hoạt động đầu tư của mình, trật tự ATXH phải được giữ vững.
Liên hệ thực tiển:
Thuận lợi: - Đẩy mạnh nông nghiệp nông thôn: được Trung tâm ứng dụng tiến bộ sở KH-CN
AG hướng dẫn phát triển nông nghiệp cho từng địa phương trong tỉnh.
+ Từng bước đưa nông nghiệp phát triển theo chiều sâu.
+ Một số mô hình liên kết SX như: “cánh đồng lớn”, giá trị rau màu, giá trị thuỷ sản, thành
lập các tiểu vùng khu vực triển khai xuống đồng loạt mang lại hiệu quả.
+ Hợp tác với các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm, hợp tác 5 nhà, HTX kiểu mới, SX trồng
cây ngắn ngày đạt hiệu quả KT cao như: đậu nành, cà tím gốc ghép, bắp non, rau sạch…
+ Bao đê khép kín, sản xuất lúa ba vụ trong năm, thực hiện chương trình ba giảm ba tăng
mang lại hiệu quả nâng cao sản lượng và xuất khẩu.
- Sử dụng hệ thống máy móc vào trong SX, sử dụng máy móc KH công nghệ mới được
chuyển giao từ các nhà KH, cán bộ kĩ thuật nghiệp vụ mở lớp hội thảo truyền đạt đến nông dân áp
dụng có hiệu quả theo dây chuyền hiện đại.
- Cơ cấu lao động: Đào tạo nghề cho lao động, phân phối lao động hợp lí, tạo công ăn việc
làm cho người lao động, thu hút vào các cơ sở, xí nghiệp nhà máy, các khu công nghiệp, đáp ứng
yêu cầu thị trường lao động, hàng năm XD và thực hiện tốt kế hoạch thu thập thông tin cung cầu
lao động. Đào tạo nguồn nhân lực phát triển số lượng, chất lượng có tính bền vững, đội ngũ CB
khoa học kỹ thuật có trình độ chuyên môn hoá.

- Ứng dụng KH-KT vào quá trình SX: tiếp cận nền KH-CN mới, mở lớp đào tạo, hội thảo,
truyền đạt kiến thức, áp dụng KH-KT, sử dụng máy móc vào SX.
- Chương trình cơ giới hóa, thủy lợi hóa, điện khí hóa nông nghiệp có ý nghĩa quan trọng, góp
phần ứng dụng có hiệu qủa về các đề tài khoa học thiết kế kênh mương tưới tiêu nội đồng, đê bao
chống lũ kết hợp giao thông nông thôn, thoát lũ ra biển Tây, khai thác có hiệu qủa vùng đất hoang
hóa tứ giác Long Xuyên trước đây.
* Hạn chế:
- Mô hình CNH, HĐH chưa bắt kịp với những thay đổi quốc tế, nội hàm chưa thật sự rõ
ràng; chưa định hình được rõ chính sách công nghiệp tỉnh nhà trong bối cảnh mới về cả mục tiêu,
phương hướng và nguồn lực; chưa phát triển có hiệu quả các ngành công nghiệp ưu tiên; chưa tận
dụng được những lợi thế về công nghệ từ đầu tư nước ngoài


- Quá trình thực hiện CNH chưa gắn với HĐH, chưa sản xuất được những sản phẩm có giá
trị gia tăng cao; phát triển công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công - lắp ráp, giá trị gia tăng thấp và
phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài.
- Chủ trương CNH, HĐH nông nghiệp triển khai còn chậm và cũng chưa thật sự hiệu quả, rõ
hướng, thiếu sự liên kết giữa nông nghiệp với công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến - chế
tạo;
- Kết cấu hạ tầng, mặc dù được ưu tiên dành nguồn lực đầu tư nhưng nhìn chung vẫn còn
thiếu, không đồng bộ. Cơ chế, chính sách chưa đủ sức tạo ra những động lực thúc đẩy các doanh
nghiệp và các chủ thể khác thực sự đi sâu vào ứng dụng, phát triển, chuyển giao các kỹ thuật - công
nghệ mới.
- Nguồn lực đầu tư để thực hiện CNH còn dàn trải, thiếu trọng tâm, chưa khai thác được lợi
thế kinh tế theo quy mô.
* Giải pháp từ nay đến năm 2020, phải xây dựng cho được cơ cấu kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Cụ thể là:
- Ngành công nghiệp: Đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp theo
hướng tăng nhanh công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao, góp
phần hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại. Các ngành công nghiệp nền tảng được ưu tiên để đáp ứng

nhu cầu về tư liệu sản xuất cơ bản của nền kinh tế.
+ Phân bố không gian công nghiệp phù hợp nhằm phát huy lợi thế so sánh của các vùng,
miền và tạo điều kiện để liên kết ngành mang lại hiệu quả cao.
+ Phát triển mạnh công nghiệp chế biến, cơ khí, công nghiệp công nghệ thông tin, công
nghiệp sinh học và công nghiệp môi trường.
+ Tập trung lấp đầy các khu công nghiệp gắn với việc đầu tư bổ sung các công trình, dịch
vụ hạ tầng xã hội (nhà ở, trường học, y tế, chợ,...) và thực hiện tốt bảo vệ môi trường.
+ Chiến lược thu hút đầu tư nước ngoài gắn kết với chiến lược thúc đẩy kinh tế trong nước
để phát huy ưu thế về vốn, công nghệ, năng lực quản trị,...
+ Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của ngành công nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ hiện nay,
qua đó đề ra chiến lược và kế hoạch hành động cụ thể để phát triển trong thời gian tới sao cho công
nghiệp phụ trợ và dịch vụ hỗ trợ là một thành tố then chốt.
- Ngành nông nghiệp: đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn bằng cách đổi mới
đào tạo nhân lực, đưa tri thức sản xuất, kinh doanh, tri thức khoa học công nghệ đến với người
nông dân; sử dụng công nghệ sinh học làm gia tăng giá trị các mặt hàng nông-lâm-thủy sản. Gắn
bó chặt chẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp với quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn theo hướng hợp lý, hiệu quả, bảo đảm cơ sở cho thực hiện chương trình xây
dựng nông thôn mới. Song song đó, huy động nguồn lực tư nhân để phát triển hệ thống kết cấu hạ
tầng; xác định cụ thể thước đo sự thành công của CNH đối với từng vùng, địa phương để phát huy
tối đa tiềm năng và lợi thế so sánh của mỗi vùng và địa phương, bảo đảm tính bền vững và triển
khai theo quy hoạch.
- Ngành dịch vụ: cần được đẩy mạnh phát triển, nhất là các dịch vụ có giá trị, hàm lượng tri thức
cao, tiềm năng lớn, có lợi thế và có sức cạnh tranh, như du lịch, viễn thông, công nghệ thông tin, y tế;
hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế.
Kết bài: CNH, HĐH gắn với phát triển KTTT là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Vì thế, sự
đồng thuận xã hội là một tiền đề có ý nghĩa quyết định. Để tạo lập tiền đề này, cần tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách và tổ chức bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nướcvới phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
đảm bảo sự hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, phát triển con người, phát triển
xã hội bền vững, quan hệ sản xuất tiến bộ với trình độ phát triển của đời sống vật chất, tinh thần

cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh, ra
sức phấn đấu để VN sớm trở thành một nước công nghiệp vững mạnh trên thế giới.


Câu hỏi 5: Vì sao phải thực hiện chính sách xã hội ? Quan điểm và một số chính sách xã hội
của Đảng và nhà nước hiện nay ? Liên hệ việc thực hiện các chính sách xã hội ở địa phương,
đơn vị đồng chí công tác ?
MB: Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện
các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính
trị – xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Chính sách xã hội: : là một loại chính sách do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh những
quan hệ xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng,
công bằng và tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người.
Đầu tư cho xã hội thông qua các chính sách xã hội là đầu tư cho sự phát triển, trước hết là
phát triển kinh tế, và cùng với phát triển kinh tế là phát triển xã hội để phát triển con người. Từ nhận
thức đó càng thấy rõ chính sách xã hội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động tổ
chức, điều hành và quản lý xã hội, trong việc giải quyết các vấn đề bức bách hiện nay.
- Khi giải quyết các vấn đề thuộc chính sách xã hội không những góp phần tích cực tạo nên sự
ổn định, phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội mà nó còn thúc đẩy sự phát triển sản xuất, tăng
trưởng kinh tế một cách bền vững, lâu dài.
1. Một số quan điểm cơ bản về hoạch định và thực hiện chính sách xã hội:
a. Quan điểm Đảng lãnh đạo nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ:
- Chính sách xã hội phản ánh quan điểm của Đảng và pháp luật của nhà nước Việt Nam.
Thực hiện hệ thống chính sách xã hội phải đảm bảo nguyên tắc Đảng lãnh đạo phản ánh và thực hiện
được quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến chính sách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội
của đất nước trong từng giai đoạn, thời kỳ.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 8 năm 1996, đã bổ sung một quan điểm quan trọng là:
tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ Và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển. đồng thời Đảng đã đề ra quan điểm chỉ đạo việc hoạch định và thực hiện hệ
thống chính sách xã hội đó là:

+ Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
+ Thứ hai ,thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế là chủ yếu.
+ Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, thu hẹp
dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng các dân tộc các tầng lớp dân cư
+ Thứ tư, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc "uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp
nghĩa"," nhân hậu thủy chung".
+ Thứ năm,Các vấn đề chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần "xã hội hóa"
Hệ thống chính sách xã hội phải đặt dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước. Đồng thời nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
b. Quan điểm giai cấp:
- Tính liên minh công nông trí thức: việc xây dựng nhà nước và phát triển xã hội Việt Nam
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là dựa trên nền tảng Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức.


- Đảm bảo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội: vì xã hội Việt Nam là một xã hội đa dạng
nhiều giai cấp tầng lớp và dân tộc tôn giáo nên việc ban hành và thực hiện hệ thống chính sách xã hội
là một cách thức tốt nhất nhằm đảm bảo lợi ích và cơ hội bình đẳng trong phát triển giữa các giai
tầng, dân tộc và tôn giáo khác nhau ở Việt Nam
c. Quan điểm phát triển:
Để nhận thức, phản ánh chính xác, kịp thời và đưa ra giải pháp tháng về một vấn đề xã hội.
chúng ta phải có quan điểm phát triển trong quá trình hoạch định, thực hiện chính sách xã hội.
d. Quan điểm hệ thống:
Cần có cái nhìn hệ thống trong hoạch định và thực hiện chính sách xã hội nhằm giải quyết
các vấn đề xã hội một cách tổng thể toàn diện.
e. Quan điểm khoa học:
- Nội dung các quy định của chính sách xã hội phải được xây dựng trên cơ sở những thành
tựu khoa học mới nhất.
- Nhận thức được quy luật khách quan của xã hội phải chính xác, chặt chẽ và có tính khả thi.

2. chính sách xã hội nhằm giải quyết một số vấn đề xã hội cấp bách hiện nay.
a. Chính sách xã hội đối với người có công:
Các thiết kế chăm sóc người có công, tri ân các anh hùng, liệt sĩ ngày càng được hoàn thiện
và được quan tâm đầu tư. Qua đó thể hiện tinh thần "Hiếu Nghĩa bác ái" "uống nước nhớ nguồn" của
dân tộc ta trong điều kiện mới như: Nâng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi phù hợp với lương tối thiểu;
hỗ trợ giải viết cơ bản về nhà ở đối với hộ người có công; chính sách ưu đãi người có công phải phù
hợp với phát triển sản xuất việc làm...
b. Chính sách dân số:
Trong giai đoạn đổi mới đất nước Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quan tâm và thực hiện có
hiệu quả chính sách dân số. Mục tiêu tổng quát của chính sách dân số Việt Nam hiện nay là thực hiện
gia đình ít con cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản; Giải quyết tốt vấn đề cơ cấu dân số và phân bố
dân số nhằm tạo điều kiện để có cuộc sống ấm no hạnh phúc...
c. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tệ nạn xã hội:
Để giải quyết hiệu quả và bền vững những vấn đề liên quan đến tệ nạn xã hội trong những
năm vừa qua Đảng và Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết và đạo luật Ví dụ như Nghị
quyết Trung ương 9 khóa 11 về xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững đất nước...
d. Chính sách giải quyết việc làm:
Chính sách lao động việc làm Tiền lương thu nhập của Việt Nam đã từng bước khuyến khích
và phát huy cao nhất năng lực của người lao động.Chính sách về lao động và việc làm ở Việt Nam đã
chuyển biến theo hướng ngày càng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
e. Chính sách đáp ứng dịch vụ xã hội: giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin.
Trong những năm vừa qua quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với hệ thống
chính sách xã hội ngành các lĩnh vực giáo dục y tế nước sạch thông tin đã không ngừng được hoàn
thiện


f. Chính sách xóa đói giảm nghèo:
Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán về chính sách giảm nghèo bền vững đi đôi với

khuyến khích làm giàu hợp pháp. dưới sự lãnh đạo của Đảng các mô hình số đó giảm nghèo đã được
triển khai sâu rộng trong toàn quốc. hiện nay giảm nghèo bền vững trở thành một trong những nhiệm
vụ xã hội cấp thiết. quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước trong thực hiện chính sách giảm
nghèo bền vững hiện nay là hướng đến phát huy sức mạnh tổng hợp của nhà nước, cộng đồng, xã hội
và quốc tế
g. CSXH đối với người có hoàn cảnh khó khăn:
Trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã từng bước hoàn thiện và thực hiện
tốt chính sách xã hội đối với người có hoàn cảnh khó khăn, giúp cho cá nhân, nhóm người mất hoặc
thiếu điều kiện lao động, điều kiện sống bình thường do gặp phải những rủi ro gây ra.
Liên hệ thực tế: tại phường Mỹ Thạnh – TP Long Xuyên
Hàng năm địa phương điều thực hiện các kế hoạch của TP về thực hiện chính sách xã hội,
Trợ giúp đối tượng BTXH, người nghèo, cận nghèo trên địa bàn TP và về Thực hiện pháp lệnh ưu
đãi đối với NCC với cách mạng trên địa bàn TP năm 2018. Ngay từ những ngày đầu năm 2018, bộ
phận LĐTBXH phường chủ động tham mưu UBND phường ban hành các kế hoạch, tổ chức thực
hiện tốt công tác an sinh xã hội trên địa bàn.
* Về công tác chăm sóc Người có công: Luôn được quan tâm, chăm lo. Hàng năm, UBND
phường xây dựng kế hoạch, tham mưu cho Đảng ủy ra Nghị quyết chuyên đề về lãnh đạo công tác an
sinh xã hội. Phối hợp với MTTQ phường xây dựng, triển khai Kế hoạch vận động quỹ "Đền ơn đáp
nghĩa" tới các tổ dân phố với tổng số quỹ thu được trên 292 triệu. Tham mưu UBND phường ra
quyết định hỗ trợ kinh phí xây dựng cất mới 07 căn nhà tình nghĩa, sửa 06 căn, với tổng số tiền 458,1
triệu đồng . Tổ chức thăm hỏi, tặng quà các cấp nhân dịp tết nguyên đán cho 50 lượt người với tổng
số tiền 100tr đồng. Nhân dịp kỷ niệm 71 năm ngày Thương binh liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2018),
Phường đã triển khai các hoạt động thăm hỏi, tặng quà Người có công với nước và tôn vinh các cá
nhân, tập thể làm tốt công tác "Đền ơn đáp nghĩa".
* Về công tác giải quyết tệ nạn xã hội: Thực hiện chủ trương của Đảng ủy về giúp đỡ hỗ trợ
vốn cho người lầm đường lỡ bước, người hoàn lương…, UB phường xây dựng kế hoạch thành lập tổ
vận động xã hội hóa, vận động các doanh nghiệp, hỗ trợ vốn cho các đối tượng có công ăn việc làm
ổn định, sao đó thu hồi vốn từ từ cho những người sao tiếp tục.
* Công tác giải quyết việc làm: luôn được quan tâm, thực hiện có hiệu quả. Năm 2018,
phường đã tổ chức các lớp học nghề: Trang điểm, làm tóc và sửa xe cho các thanh niên trên đại bàn

phường.Liên hệ giới thiệu việc làm cho 52 lượt người lao động vào làm việc tại các công ty, doanh
nghiệp như Nam Việt, Agifish, Giày An Giang...
* Công tác giảm nghèo và cứu trợ xã hội luôn đảm bảo kịp thời, đúng đối tượng. Năm
2017, UBND phường đã bàn giao, xây dựng mới 02 nhà đại đoàn kết, Sửa chữa 04 nhà đại đoàn kết.
Ban chỉ đạo trợ giúp người nghèo phường đã phân tích nguyên nhân nghèo, cận nghèo của từng hộ
từ đó đề ra các giải pháp và phân công cụ thể các ngành, đoàn thể trực tiếp giúp đỡ,. Bên cạnh, trong
năm đã hỗ trợ hàng tháng cho 12 đối tượng hộ nghèo đang hưởng BTXH hàng tháng với tổng trị giá
36 triệu đồng (gồm gạo và tiền mặt), để các hộ này có điều kiện vươn lên thoát nghèo.
* Công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em luôn được quan tâm. Tiến hành triển khai kế hoạch công
tác bảo vệ chăm sóc trẻ em trên địa bàn đảm bảo đúng tiến độ, bên cạnh vận động người dân thực
hiện chính sách dân số gia đình ít con, để cải thiện tình trạng sức khỏe sinh sản, giảm tỷ lệ nghèo.
Nhân ngày Quốc tế Thiếu nhi 1/6, tổ chức tặng quà cho trẻ em hộ nghèo, cận nghèo, hộ có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn trên địa bàn phường.


+Hạn chế:-Bộ phận LĐTBXH phường đôi lúc chưa chủ động tham mưu UBND phường
ban hành các kế hoạch, tổ chức thực hiện tốt công tác an sinh xã hội trên địa bàn.
-Công tác Phối hợp với MTTQ phường xây dựng, triển khai vận động quỹ "Đền ơn đáp nghĩa"
tới các tổ dân phố chưa đạt theo kế hoạch đề ra.
- Công tác đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức và tính khả thi chưa cao.
- Công tác giảm nghèo, bình xét hộ nhèo còn nhiều bất cập
- Công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em đôi lúc chưa được quan tâm dúng mức.
- Ý thức người dân chưa cao, còn ỷ lại trồng chời nhà nước, không muống thoát nghèo,...
- Đời sống của một số hộ chính sách còn khó khăn so với mặt bằng chung của xã hội,...
+Phương hướng:- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phường
-Phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.
-Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả kinh tế là chủ
yếu chăm lo cho các đối tượng nghèo, cận nghéo và hộ gia đình chính sách, người có công.
-Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng
cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng các dân tộc các tầng lớp dân cư

-Phát huy truyền thống đại đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau.
-Thực hiện chính sách xã hội phải đặt dưới sự quản lý thống nhất của chính quyền gắn với xã
hội hóa phong trào an sinh xã hội trên địa bàn phường.
Tóm lại, công tác An sinh xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện đường
lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta, hướng vào mục tiêu phát triển con người. Vì vậy mỗi cán
bộ đảng viên phải coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng. Qua những kết quả trên cho thấy, trong
thời gian qua công tác đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn đã tạo được sự đồng thuận và quyết tâm
cao của các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể và nhân dân. Đây sẽ là tiền đề vững chắc góp phần
đảm bảo ổn định xã hội, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân, tạo đà cho sự phát triển vững
bền.
Câu hỏi 6: Phân tích những quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục-đào tạo? Để thực hiện tốt quan điểm này,ở cơ sở hiện nay phải làm gì?
Mở bài:
Đảng và Nhà nước ta xác định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu; phát triển sự
nghiệp giáo dục – đào tạo là trách nhiệm, đồng thời là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt, lâu dài
của các cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong cả nước; đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội.
* Khái niệm GD - ĐT:
GD Là hiện tượng XH, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm, lịch sử
XH của các thế hệ loài người.
ĐT là hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn
các chức năng, nhiệm vụ của mình.
* Vai trò của GD ĐT:
- Về kinh tế, xu thế hiện nay, sự phát triển của LLSX XH gắn với sản xuất hàng hóa và thị
trường, gắn liền với phân công lao động và hợp tác quốc tế, gắn liền với trình độ và năng lực
sáng tạo, tiếp nhận và trao đổi công nghệ mới. Muốn thực hiện được điều đó cần phải phát triển
GD ĐT.



- GD ĐT có tác dụng vô cùng to lớn trong việc truyền bá hệ tư tưởng chính trị XHCN, là cơ
sở để xây dựng nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng lối sống, đạo đức và nhân
cách mới cho con người của toàn bộ XH.
* Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT (theo quan điểm của Đảng)
Kế thừa, phát triển các quan điểm trên về GD-ĐT, Hội nghị lần 8 BCH TW khóa 11 đã ra
nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, với hệ thống 7 quan điểm chỉ đạo
như sau:
Một là, GD và ĐT là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn
dân. Đầu tư cho GD là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch
phát triển KT – XH.
Hai là, đổi mới căn bản, toàn diện GD và ĐT là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp
thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách,
điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt
động quản lý của các cơ sở GD – ĐT và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình đổi mới, cần kế thừa, phát
huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới, tiếp thu có chon lọc những kinh nghiệm của
thế giới; kiên quyết chấn chỉnh những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ
thống, tầm nhìn dài hạn, phù hợp với từng đối tượng và cấp học; các giải pháp phải đồng bộ, khả
thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp.
Ba là, Phát triển GD – ĐT là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực
và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết
hợp giáo dục gia đình và giáo dục XH.
Bốn là, Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển KT – XH và bảo vệ
Tổ quốc; với tiến bộ KH và CN; phù hợp với quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và
đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu
cầu số lượng.
Năm là, Đổi mới hệ thống GD theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học,
trình độ và giữa các phương thức GD, ĐT. Chuẩn hóa, hiện đại hóa GD và ĐT.
Sáu là, Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,

bảo đảm định hướng XHCN trong phát triển GD và ĐT. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục
công lập và ngoài công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo
đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa
và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa GD và ĐT.
Bảy là, Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển GD và ĐT, đồng thời GD và ĐT
phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Liên hệ thực tiễn: tại phường Mỹ Thạnh
Từ những quan điểm nêu trên, bản thân đưa ra ưu điểm tại địa phương đã vân dụng
thực hiện như sau: Toàn phường có 01 trường mẫu giáo công lập, 03 trường tiểu học, 01 trường
THCS. được sự quân tâm của cấp ủy đảng, và lãnh đạo cấp trên hàng năm hầu hết các bậc học
đạt và vượt chỉ tiêu số lượng phát triển.
- Chất lượng giáo dục ở các cấp học được duy trì và từng bước nâng lên, việc ứng dụng
CNTT vào trong quản lý, giảng dạy ngày càng mang lại hiệu quả thiết thực. Chủ trương đổi mới
phương pháp dạy và học, nâng chất lượng giáo dục các cấp đã đi vào chiều sâu. Tổ chức nhiều
chuyên đề, buổi hội thảo đưa ra những định hướng đã góp phần nâng cao năng lực chuyên môn
của đội ngũ.
- Đổi mới công tác quản lý tiếp tục được quan tâm thực hiện, phân cấp quản lý và tăng
quyền tự chủ cho các trường để chủ động trong việc xây dựng, tổ chức các hoạt động giáo dục
mang lại kết quả đáng kể.


- Các cán bộ phường và các đơn vị trường học đều thực hiện quy hoạch đội ngũ, nhất là độ
ngũ cán bộ quản lý, đưa đi bồi dưỡng năng lực chuyên môn và chính trị để sẵn sàng có đủ điều
kiện bổ nhiệm. Thực hiện đánh giá chuẩn Hiệu trưởng và chuẩn nghề nghiệp giáo viên, nhằm
từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Xây dựng kế hoạch nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý theo hướng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về
cơ cấu; đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, lương tâm
nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, trình độ chuyên môn của nhà giáo; đáp ứng đòi hỏi ngày
càng cao trong thực hiện nhiệm vụ.
- Các trường thực hiện, phổ biến đề án 1400 của Chính phủ đến đội ngũ giáo viên Tiếng

anh ở các đơn vị trường học để tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu dạy
học ngoại ngữ ở các cấp học.
- Trong những năm qua, địa phương đã có nhiều cố gắng, nỗ lực trong việc nâng chất lượng
giáo dục – đào tạo một cách toàn diện, trong đó đặc biệt quan tâm thực hiện xây dựng trường đạt
Chuẩn quốc gia. Lãnh đạo địa phương đã triển khai Đề án xây dựng trường đạt Chuẩn quốc gia,
giai đoạn 2016 - 2020, qua thời gian tập trung thực hiện cùng với sự nỗ lực của ngành giáo dục
và sự quan tâm đầu tư của thành phố và của tỉnh, địa phương đã xây dựng được 01 trường đạt
Chuẩn quốc gia cấp tiểu học, và đang đề nghị lên cấp trên công nhận 01 trường mầm non.
- Cơ sở vật chất trường học và trang thiết bị dạy học tiếp tục được đầu tư, tăng cường. Các
trường học mới được xây dựng khang trang đã hoàn thành đưa vào sử dụng, là điều kiện góp
phần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục của trường và của cả địa phương.
- Công tác xã hội hóa được duy trì và phát triển, công tác phối hợp giữa nhà trường với
Hội Khuyến học, Hội Cựu giáo chức ngày càng gắn kết chặt chẽ trong việc hỗ trợ điều kiện cho
nhiều học sinh có hoàn cảnh khó khăn tiếp tục đến trường như: hỗ trợ BHYT, cấp sách vỡ, quần
áo, xe đạp….
* Bên cạnh những đạt được trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo cũng có 1 số hạn chế
và nguyên nhân như sau:
- Công tác hạn chế học sinh bỏ học ở các bậc học có giảm so với cùng kỳ nhưng chưa
vững chắc, mặc dù nhà trường và địa phương luôn quan tâm vận động; nguyên nhân do hoàn
cảnh gia đình các em khó khăn, rời địa phương làm ăn xa, ý thức học tập học sinh chưa cao, thiếu
sự quan tâm của gia đình, …
- Đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục còn bất cập về chất lượng, số lượng và cơ
cấu; một bộ phân giáo viên chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết,
chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, vẫn còn chạy theo lối áp đặt
một chiều.
- Cơ sở vật chất của các cấp học dù đã đầu tư để cải thiện nhưng vẫn còn thiếu, chưa đáp
ứng nhu cầu hoạt động của trường như phòng học phụ đạo, phòng bộ môn, sân chơi, thiết bị đồ
chơi….đã ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục. 01 số giáo viên xem nặng lý thuyết, nhẹ thực hành,
phương pháp giáo dục, thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất, còn chạy
theo bệnh thành tích..

* Từ hạn chế nêu trên bản thân đưa 01 số giải pháp trong thời gian tới như sau:
- Đẩy mạnh “Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh” gắn với
thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tiếp tục cuộc vận động
“Mỗi thầy cô giáo là tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, cùng hoạt động thi đua “Xây dựng
trường học thân thiện, HS tích cực” nhằm tăng cường kỷ cương, nền nếp, nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong các cơ sở giáo dục.
- Cần tập trung nâng chất hoạt động xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia. Chú trọng đầu tư
hạ tầng công nghệ thông tin, đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong dạy, học và quản lý giáo dục.


- Tăng cường bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý (CBQL) giáo dục cả về
chuyên môn lẫn đạo đức nghề nghiệp. Triển khai thực hiện đầy đủ các chính sách đối với nhà
giáo. Tiếp tục hoàn thiện công tác tuyển dụng đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục
trong tình hình mới.
- Chú trọng thực hiện mục tiêu giáo dục HS phát triển toàn diện, coi trọng giáo dục đạo
đức, kỹ năng làm người, lối sống lành mạnh cho HS; tích cực đổi mới phương pháp dạy học
(PPDH), kiểm tra, thi cử theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực HS hướng đến người
học biết chủ động tiếp cận tri thức. Tiếp tục đổi mới công tác tuyển sinh đầu cấp, đổi mới chương
trình giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường,… đẩy mạnh phân luồng, hướng nghiệp HS sau tốt
nghiệp THCS. Chú trọng đầu tư nâng chất lượng giảng dạy ngoại ngữ trong nhà trường và củng
cố chất lượng giáo dục và đào tạo.
- Thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra; tăng cường hiệu quả cải cách hành chính, xây dựng
và triển khai các dịch vụ công theo quy định phát huy tính minh bạch trong công tác hành chính, tài
chính. Tăng cường công tác kiểm định chất lượng giáo dục tại các trường học.
- Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, nghiên cứu khoa học trong đội ngũ cán bộ
quản lý, giáo viên (GV) và HS trung học; đẩy mạnh các hoạt động liên kết, hợp tác trong GDĐT.
Kết luận: Trong thời gian qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có
những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho

công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn chứa rất
nhiều yếu kém, bất cập, chính những yếu kém, bất cập này đã làm cho chúng ta đã lùi đi rất nhiều
so với các nước trong khu vực và quốc tế. Chúng ta cần có cái nhìn khách quan hơn về nền giáo
dục nước nhà, từ đó mỗi cá nhân sẽ tự vạch ra những con đường riêng, hướng đi riêng, cũng như
những giải pháp cho phù hợp với vai trò của mình. Có được như vậy thì trong một tương lai
không xa Việt Nam của chúng ta sẽ được bè bạn quốc tế biết đến như là một đất nước có nền giáo
dục tiến bộ và có chất lượng.



×