Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

CHUYÊN đềTư tưởng Đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.76 KB, 32 trang )

CHUYÊN ĐỀ
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT
Ở NGHỆ AN TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
-----I. Khái quát nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết (Phần
này em đang trực tiếp tham mưu)
1. Vị trí, vai trò của đại đoàn kết trong cách mạng Việt Nam
1.1. Đại đoàn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là một nhân tố cơ
bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam
- Với cương vị tối cao của Đảng, người đứng đầu Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa 24 năm liền, Người đã tập hợp, quy tụ được các dân tộc, giai cấp,
tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, nhân sỹ trí thức yêu nước, đồng bào trong nước
cũng như kiều bào ở nước ngoài, xây dựng khối đoàn kết dân tộc trong suốt tiến
trình cách mạng từ cách mạng dân tộc dân chủ đến cách mạng XHCN. Người
trở thành linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng rộng rãi và bền vững.
Đại đoàn kết dân tộc rõ ràng đã trở thành một nội dung xuyên suốt trong tư
tưởng cũng như trong hoạt động thực tiễn của chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc và việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc của Người là
một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, là một nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
- Thống kê trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập) các bài đề cập đến
vấn đề đoàn kết chiếm tỷ lệ trên 40%. Trong một số bài, Hồ Chí Minh nhiều lần
nói đến đoàn kết, đại đoàn kết như: 16 lần trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm
việc” (1947); 17 lần trong “Bài nói chuyện tại Đại hội thống nhất Việt Minh –
Liên Việt” (1951); 19 lần trong “Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh năm 1957…
- Năm 1941, khi về nước để trực tiếp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ “Lúc này quyền lợi của dân tộc cao hơn hết thảy.Chúng ta phải đoàn
kết toàn dân lại để đánh đổ bọn đế quốc và Việt gian đặng cứu giống nòi khỏi
nước sôi, lửa bỏng”. Năm 1946, trong thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số ở
Miền Nam, Hồ Chí Minh viết “Giang sơn và chính phủ là giang sơn và chính
phủ của chúng ta, …chúng ta phải yêu thương nhau, kính trọng nhau, giúp đỡ
nhau. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng lòng đoàn kết của chúng ta không


hề giảm bớt”.

“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có
một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng
chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của
đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ
quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức
tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
“Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn
chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc,
ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có
1


lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”
Trong di chúc Bác viết “ Trước hết nói về Đảng - Nhờ đoàn kết chặt chẽ,
một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên
từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân
ta hǎng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng
chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, trước những yêu cầu
và nhiệm vụ khác nhau, có thể và cần thiết có sự điều chỉnh chính sách và
phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau,
nhưng đại đoàn kết phải luôn được nhận thức và vấn đề sống còn của cách
mạng, là một chiến lược bất di bất dịch. Hồ Chí Minh đã kết luận “Lúc nào dân
ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân
ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
(Trong suốt chiều dài lịch sự dân tộc chúng ta, mỗi khi triều đình rối ren,

vua tôi không đồng lòng thì giặc dã xâm lấn và dễ dàng đánh bại chúng ta,
nhưng ngược lại khi đoàn kết, trên dưới một lòng thì mọi kẻ thù đều đánh thắng:
Đời Nhà Lý, Đời nhà Trần…Hay như về việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn
khoan Hải Dương 981 và các hoạt động gây hấn của phía Trung Quốc tại vùng
biển của Việt Nam vào năm 2014, một trong những mục đích mà Trung Quốc
hướng đến đó là thăm dò thái độ, dư luận của quốc tế, phản ứng của Việt Nam.
Tại sự kiện đó, nhân dân chúng ta đã đoàn kết, kịch liệt phản đối, đã làm thất
bại âm mưu của Trung Quốc).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm có tính triết lý như:
Đoàn kết làm ra sức mạnh; Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta
Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi; Đoàn kết là sức mạnh, là then
chố của thành công
Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều
tốt…
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công.
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
1.2. Đại đoàn kết là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết không đơn thuần là phương
pháp tập hợp, tổ chức lực lượng yêu nước, cách mạng, mà cao hơn đó là mục
đích hàng đầu của Đảng cách mạng. Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (T2/1951) Hồ Chí Minh nêu rõ “Về mục đích
trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến
cho đến thắng lợi hoàn toàn, lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng
điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Phát biểu tại buổi lễ ra mắt Đảng Lao động Việt Nam (3.3.1951) Hồ Chí
Minh tuyên bố trước toàn dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam đại
thể gồm trong 8 chữ là “Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc”.
2



Hồ Chí Minh cũng nêu rõ: “Bây giờ, còn một điểm rất quan trọng, cũng là
điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: Đó là đoàn kết”
– HCM toàn tập, tập 10, trang 589. Do vậy, đại đoàn kết phải là điểm xuất phát,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng.
2. Cơ sở hình thành
Tư tưởng Đại đoàn kết dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh được kế thừa
phát triển từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc; sự tổng kết thực tiễn trong quá
trình tìm hiểu và lãnh đạo cách mạng, tiếp thu những tinh hoa trong kho tàng lý
luận cách mạng vô sản thế giới.
2.1 Truyền thống đoàn kết của dân tộc:
+ Truyền thống nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc Việt Nam trở thành
một tình cảm tự nhiên, bản sắc riêng của dân tộc mà không phải dân tộc nào
cũng có được như: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nươc
phải thương nhau cùng”; hay một triết lý nhân sinh: “Một cây làm chẳng nên
non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”;phép ứng xử tự nhiên, nhưng có tư duy
chính trị “ Tình làng, nghĩa nước; Nước mất thì nhà ta; Giặc đến nhà, đàn bà
cũng đánh”…Tất cả ghi dấu ấn đậm trong cấu trúc xã hội Việt Nam gồm gia
đình – làng xã – quốc gia.
+ Xuất phát từ nhu cầu tự nhiên phải cố kết với nhau để chống chọi với
thiên tai, kẻ thù, nền sản xuất nông nghiệp lúa nước… Dân tộc chúng ta từ
năm 938 đến nay đã trải qua ít nhất 14 cuộc chiến tranh chống kẻ thù
phương Bắc, Phương Tây, Phương Nam…Dù phải trải qua nhiều hy sinh gian
khổ nhưng cuối cùng đều chiến thắng được kẻ thù. Tất cả chiến thắng đó đều
dựa vào sức mạnh của Nhân dân, không một triều đại, một nhà nước nào
chiến thắng kẻ thù mà không cần tới dân.
Ngược lại Thời nhà Hồ, giặc Minh đem quân đánh chiếm và chỉ 6
tháng đã bình định xong, mặc dù Nhà Hồ đã xây dựng được một đội quân
thường trực mạnh, có vũ khí tốt, có thành cao hào sâu, có lòng quyết tâm tự
chủ của vua tôi, nhưng vẫn nhanh chóng sụp đổ là do không tin dân, không

dựa vào dân, không đoàn kết và phát huy sức mạnh của nhân dân. Triều đình,
vua tôi đơn độc. Hồ Nguyên Trừng đã nói với Hồ Quý Ly về kế sách đánh
giặc: “Thần không ngại đánh, mà chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”.
+ Kế thừa tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức dân của cha ông:
“Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước góp sức” hay “khoan thư sức
dân để làm kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”, “chở thuyền cũng là
dân, lật thuyền cũng là dân”….
2.2. Tinh hoa lý luận cách mạng vô sản:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu rất sâu sắc, tỷ mỉ các luận thuyết
cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tìm hiểu các cuộc cách mạng ở nhiều
châu lục, nhiều nước khác nhau (Mỹ, Anhi, Pháp, đặc biệt là cuộc cách mạng ở
Nga). Cụ thể nhất 2 luận điểm:
+ “Vô sản toàn thế giới liên hiệp lại” do C.Mác và Ăng ghen nêu lên
trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản năm 1848 chỉ rõ sứ mệnh lịch sử cao cả
của giai cấp công nhân, cách mạng vô sản chỉ có thể thành công một khi giai cấp
3


vô sản ở tất cả các nước phải đồng tâm, hiệp lực một lòng, liên hiệp lại với nhau.
Giai cấp công nhân sẽ là người lãnh đạo quần chúng làm cách mạng vô sản, xóa
bỏ nguồn gốc áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
+ “Vô sản và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới liên hiệp lại” do Lê
Nin khởi xướng. Có thể nói luận điểm này vừa bảo vệ và phát triển luận điểm
trên chủ nghĩa Mác trong điều kiện mới đồng thời chỉ ra một luận điểm hoàn
toàn mới, cách mạng vô sản có thể giành thắng lợi ở một số nước, thậm chí có
thể ở nước tập trung những mâu thuẫn, là nơi xung yếu nhất của dây chuyền đế
quốc chủ nghĩa.
3. Nội dung đại đoàn kết
3.1. Lực lượng đại đoàn kết
* Lực lượng đại đoàn kết dân tộc:

Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết
đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng
lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng là cái nền
của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng
lớp nhân dân khác”.
Lực lượng đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh gồm các giai cấp, các tầng
lớp trong xã hội các ngành, các giới, các lứa tuổi, các dân tộc sống trên lãnh thổ
Việt Nam, đồng bào các tôn giáo, các đảng phái…hợp thành khối đại đoàn kết
rộng rãi. Trong khối đại đoàn kết rộng lớn, đa dạng đó, Hồ Chí Minh nêu rõ:
Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh công – nông.
(Trong suốt cuộc đời của mình, bằng sự chân thành, giản dị, bằng sức
cảm hóa, sức hấp dẫn, sức thuyết phục và tinh hoa Hồ Chí Minh, Người đã trở
thành trung tâm đoàn kết, tập hợp nhiều lực lượng tiến bộ phục vụ cách mạng.
* Câu chuyện Bác Hồ kiên trì mời bằng được cụ Huỳnh Thúc Kháng tham
gia Chính phủ là một ví dụ điển hình và cảm động về sự trọng dụng nhân tài
của Bác. Từng đậu giải Nguyên khoa Canh Tý rồi đỗ Tiến sĩ, nổi danh là một
nhà đại khoa bảng nhưng từ thời trước cụ Huỳnh Thúc Kháng đã không ra làm
quan, mà cùng các nhà chí sĩ lừng danh như: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Trần Quý Cáp mưu sự nghiệp cứu nước, vì vậy cụ bị Pháp đày ra Côn Đảo 13
năm. Sau khi ra tù, cụ lập ra Báo Tiếng Dân, rồi được bầu làm Chủ tịch Viện
Dân biểu Trung kỳ. Khi cách mạng giành chính quyền thành công, cụ đã 70 tuổi
nhưng uy tín và tinh thần yêu nước của cụ vẫn có ảnh hưởng rất lớn trong xã
hội. Bởi vậy, cuối năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi hai bức điện mời cụ
Huỳnh ra làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, lần đầu cụ từ chối vì tuổi cao sức yếu
nhưng lần hai thì cụ đồng ý ra Hà Nội gặp Bác. Ngày 24-2-1946, Ủy ban Hành
chính Trung bộ cho xe qua Tòa soạn Báo Tiếng Dân đưa cụ Huỳnh ra Thủ đô.
Buổi gặp đầu tiên của hai tấm lòng yêu nước, thương dân thật cảm động và
chân thành. Hồ Chủ tịch nói với cụ: "Việc mời cụ ra nhận chức Bộ trưởng Bộ
Nội vụ là ý kiến chung của tất cả các đảng phái, chứ không phải ý kiến riêng
của cụ Nguyễn Hải Thần và tôi, vì cụ ở lại trong nước, cụ biết rõ trình độ tiến

4


bộ của đồng bào ba kỳ, đồng thời đồng bào ba kỳ đều tín nhiệm cụ”. Cụ Huỳnh
trả lời: "Tôi ra đây cốt là gặp cụ, chứ lúc này là lúc cần tăng gia sản xuất mà
tôi không biết cầm cày, cầm cuốc; lại cần kháng chiến mà tôi lại không mang
súng nổi. Cụ nên kiếm người trẻ thạo việc để trao nhiệm vụ thì hơn” nhưng Bác
vẫn kiên trì thuyết phục một cách hợp lý thuận tình nên cụ Huỳnh vui vẻ nhận
lời. Ngày 2-3-1946, tại cuộc họp đầu tiên của Quốc hội, Bác đã giới thiệu cụ
Huỳnh nhận trọng trách nắm Bộ Nội vụ. Cũng như sau này giao Quyền Chủ tịch
nước cho cụ Huỳnh Thúc Kháng khi Người ra nước ngoài, Bác Hồ muốn trọng
dụng một người "đạo đức danh vọng mà toàn thể quốc dân ai cũng biết” để tập
hợp lòng người.
* Năm 1946, khi Bác Hồ sang Pháp, trong cuộc gặp gỡ kiều bào Việt ở
Pháp, Bác Hồ đã lắng nghe nguyện vọng của Phạm Quang Lễ. Bác hỏi: “Chú
về nước chế tạo vũ khí, cách mạng sẽ rất cần. Nhưng trong nước khổ lắm. Chú
có chịu nổi không?”.
Phạm Quang Lễ gật đầu: “Thưa Bác, cháu đã chờ đợi ngày này suốt 11
năm trời”. Năm đó, khi Bác Hồ rời Pháp về Việt Nam, có một người trí thức tên
Trần Đại Nghĩa đã đi theo. Người trí thức đó chính là Phạm Quang Lễ.
Và cái tên Trần Đại Nghĩa mà Bác Hồ đặt cho ông năm đó, là cái tên đã đưa
ông đi vào lịch sử ngành chế tạo vũ khí của Việt Nam. Từ bỏ công việc kỹ sư ở
một hãng chế tạo máy bay lớn, Trần Đại Nghĩa đã từ bỏ mức lương tương
đương với 20 lạng vàng 1 tháng để về Việt Nam theo cách mạng.
Hành trang trở về của ông là 1 tấn sách toàn về vũ khí. Ông trở thành Cục
trưởng đầu tiên của Cục Quân giới. Chiến công đầu tiên của ông là chế tạo
thành công súng Bazooka, một loại súng bắn xe tăng đầu tiên do Việt Nam chế
tạo.
* Trong khi quan điểm tả khuynh về tôn giáo đang thịnh hành trong các
Đảng cộng sản cầm quyền trên thế giới, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn mời các

nhân sỹ, chức sắc tham gia chính phủ hoặc cố vấn cho mình. Nhiều chức sắc
tôn giáo đã tham gia chính phủ Hồ Chí Minh như: Linh mục Phạm Bá trực –
Phó Chủ tịch Thường trực quốc hội; Nguyễn Mạnh Hà – Bộ trưởng bộ Kinh tế;
Vũ Đình Tụng – Bộ trưởng bộ Kinh tế…Đây không phải là sách lược tạm thời
mà nằm trong chiến lược tập hợp lực lượng đại đoàn kết toàn dân vì mục đích
chung của cách mạng
* Lực lượng đại đoàn kết quốc tế: Hồ Chí Minh xác định lực lượng đoàn
kết quốc tế bao gồm: Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; Phong trào giải
phóng dân tộc; phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
3.2. Hình thức tổ chức đại đoàn kết
* Đại đoàn kết dân tộc:
Hình thức tổ chức đoàn kết toàn dân tộc theo Hồ Chí Minh là đoàn kết
trong mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là một liên minh chính trị nhằm đoàn
kết rộng rãi các tổ chức yêu nước vào một khối thống nhất, đấu tranh vì độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Mặt trận là phương tiện để thực hiện mục
đích đại đoàn kết.
Trong mỗi thời kỳ cách mạng của mình, ở mỗi thời kỳ Đảng đều tổ chức
và xây dựng Mặt trận với nhiều tên gọi khác nhau như: Hội phản đế (1931); Mặt
5


trận dân chủ (1936); Mặt trận Việt Minh (1941); Mặt trận liên Việt (1951); Mặt
trận tổ quốc Việt Nam (1976).
* Đoàn kết quốc tế:
- Đối với các nước láng giềng, có cùng chung kẻ thù, chung nguyện vọng
độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh xây dựng liên minh chiến đấu Việt – Lào –
Campuchia.
(Năm 2017 chúng ta kỷ niệm 50 năm thiết lập mối quan hệ ngoại giao
Việt Nam – Campuchia; 55 năm thiết lập mối quan hệ ngoại giao Việt Nam –
Lào, nhiều câu chuyện về tình cảm quốc tế trong sáng, thủy chung giữa chủ tịch

Hồ Chí Minh với các lãnh tụ của Lào và Campuchia còn được ca ngợi.
* Tháng 8 năm 1945, cả Đông Dương thuộc Pháp sôi sục khí thế cách
mạng. Nhân dân Việt Nam, Lào và Campuchia đứng dậy giành chính quyền sau
100 năm sống dưới ách nô lệ của thực dân Pháp. Lúc này Hoàng thân
Xuphanuvông đang sống ở thành phố Vinh để xây dựng cầu Yên Xuân bắc qua
sông Cả. Ngày 2-9-1945, Bác Hồ đã cử ông Lê Văn Hiến vào mời Hoàng thân
ra Hà Nội để bàn việc Liên minh Việt – Lào trong tương lai nhằm chống thực
dân Pháp đang âm mưu trở lại xâm lược Việt – Lào.
Những ngày ở Hà Nội, Bác Hồ và Hoàng thân thân thiết như người nhà. Hai vị
cùng ăn cơm rau muống, muối vừng ngay trong nhà bếp và trải chiếu nằm ngủ
bên nhau giữa sàn nhà.
Khi hoàng thân xuvanuvong nhận được điển trở về Lào, mặc dù rất bận sau lễ
quốc khánh đầu tiên của nước ta nhưng Bác vẫn lo chu đáo việc tiễn Hoàng
thân trở về Lào. Sau khi lánh nạn ở Thái Lan một thời gian, Chính phủ thân
Mỹ của Thái Lan được dựng lên, từ chối ủng hộ cách mạng Lào. Trong bối
cảnh khó khăn đó, Bác Hồ đã phái ông Nguyễn Tử Quỳ đem một đội quân đi
đón Hoàng thân. Đêm 18-11-1949, Hoàng thân cùng các cộng sự bí mật vượt
sông Mê Kông từ Thái trở về Lào, được đội quân của Nguyễn Tử Quỳ đón tiếp,
bảo vệ và hộ tống Hoàng thân về chiến khu Việt Bắc.
Những ngày ở Việt Bắc, Bác Hồ lại tiếp đón Hoàng thân như người bạn tâm
đắc, lại cùng nằm chung trên sạp lán, cùng ăn chung cơm rau gian khổ ở chiến
khu.
Lần này, từ Việt Bắc trở về Lào, Hoàng thân cùng Đảng Nhân dân cách mạng
Lào mở Đại hội thành lập Chính phủ kháng chiến và Mặt trận Lào yêu nước.
Đại hội đại biểu của nhân dân các bộ tộc Lào đã bầu Hoàng thân Xuphanuvông
làm Thủ tướng Chính phủ kháng chiến Lào, kiêm Chủ tịch Mặt trận Lào yêu
nước.
Từ đó, Bác Hồ đã cử quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam qua giúp Lào
cùng đánh giặc. Hoàng thân đã cùng nhân dân Lào chiến đấu đánh Pháp,
chống Mỹ cho đến ngày giành lại được độc lập tự do hoàn toàn cho đất nước

Lào.
Năm 1975, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc Lào tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn
chế độ phong kiến lỗi thời, tiếp nhận đơn xin thoái vị của vua Lào để thành lập
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Đại hội đã bầu Hoàng thân
Xuphanuvông làm Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân dân Tối cao và
6


bầu ông Cayxón Phômvihãn làm Thủ tướng Chính phủ.
* Ngày 21/11/1956, lần đầu tiên, Bác gửi điện mừng tới Vua Nôrôđôm
Xuramarit và Hoàng hậu Khơme và chúc nhân dân Khơme thu được nhiều
thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng đất nước Khơme, trong việc thực hiện
chính sách hoà bình và trung lập, chúc tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam
và Khơme ngày càng phát triển.
Ngày 21/6/1960, Bác gửi điện mừng Thái tử Nôrôđôm Xihanuc nhận
chức Quốc trưởng Vương quốc Campuchia, trong đó: “Chúc nhân dân Khơme
dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Thái tử Quốc trưởng thu được nhiều thắng lợi
mới trong việc thực hiện chính sách hoà bình, trung lập, xây dựng đất nước
Campuchia ngày thêm phồn vinh, góp phần vào việc củng cố hoà bình ở Đông
Dương, Đông Nam Á và thế giới”.
Bác chủ động tạo mối liên hệ để tranh thủ sự ủng hộ của Nôrôđôm
Xihanuc. Ngày 23/6/1967 trong điện mừng nhân dịp 2 nước đặt quan hệ ngoại
giao cấp Đại sứ, Bác đánh giá “Đây là một sự kiện lịch sử trong quan hệ giữa
Việt Nam và Campuchia, một nhân tố tích cực trong việc gìn giữ hoà bình ở
Đông Duơng và Đông Nam Á”.
Ngày 7/2/1969 gửi điện cảm ơn Quốc trưởng Nôrôđôm Xihanuc “đã ủng
hộ hoàn toàn lập trường chính nghĩa của nhân dân Việt Nam tại Hội nghị bốn
bên ở Pari về Việt Nam... Đó là sự cổ vũ to lớn đối với cuộc chiến đấu chống
Mỹ, cứu nước của chúng tôi trong giai đoạn hiện nay, là biểu hiện rực rỡ của
tình đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân hai nước chúng ta. Gửi lời chào anh em

rất kính trọng”.
Đó cũng là văn kiện cuối cùng, Bác gửi Quốc trưởng Campuchia. Khi
Bác qua đời, tháng 9 năm 1969, ông Nôrôđôm Xihanuc cùng phu nhân đã tới
Hà Nội dự Lễ Truy điệu Người.
- Đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, với tinh thần “bốn phương
vô sản đều là anh em” Hồ Chí Minh xây dựng liên minh hữu nghị hợp tác và
tương trợ với các nước như Trung Quốc, Liên Xô, Cu Ba, Triều Tiên…
- Đối với nhân dân yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới, Hồ Chí
Minh xây dựng mặt trận đoàn kết với phong trào hòa bình, dân chủ, tiến bộ trên
thế giới như Mặt trận đoàn kết nhân dân Việt Nam với nhân dân Á – Phi; khu
vực Mỹ La tinh, Mặt trận thống nhất phản đế Việt – Mỹ…
4. Nguyên tắc đại đoàn kết
4.1. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống nhất giữa lợi ích
quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các giai tầng trong xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở nhận
thức và giải quyết tốt mối quan hệ cốt lõi giữa dân tộc và giai cấp
Trong tư duy Hồ Chí Minh, giai cấp – dân tộc là một cấu trúc hữu cơ,
thống nhất không thể tách rời. Hồ Chí Minh đã tìm ra mẫu số chung để đoàn kết
dân tộc, đó là Độc lập – Tự do. Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập tự do”
vừa là mục tiêu, động lực của Hồ Chí Minh, vừa là mục tiêu, động lực của dân
tộc Việt Nam, là chìa khóa vạn năng, điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược đại
đoàn kết Hồ Chí Minh.
7


Thực hiện đại đoàn kết quốc tế theo Hồ Chí Minh phải trên nguyên tắc
tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
4.2. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân
Người từng nói “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trên thế

giới không gì mạng bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”; “Gốc có vững cây
mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.
Có thể khái quát nguyên tắc này của Hồ Chí Minh trên những luận điểm
chủ yếu sau:
+ Dân là gốc rễ, là nền tảng của đại đoàn kết.
+ Dân là chủ thể của đại đoàn kết
+ Dân là nguồn sức mạnh vô tận, vô địch của khối đại đoàn kết
+ Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng cộng sản và hệ thống chính trị.
* Cả cuộc đời Bác là sự hy sinh lớn lao cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Người nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước
nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có
cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó chính là lòng tận trung với nước,
tận hiếu với dân, là sự hy sinh cho nước, cho dân. Sự hy sinh tình nhà để lo việc
nước cũng đã được thể hiện qua bức điện gửi về quê khi nghe tin anh trai của
Bác là ông Nguyễn Sinh Khiêm qua đời: “Nghe tin anh cả mất, lòng tôi buồn
rầu, vì việc nước nặng nhiều, đường sá xa cách, lúc anh ốm đau tôi không thể
trông nom, lúc anh tạ thế tôi không thể lo liệu. Than ôi! Tôi chịu tội bất đệ
trước linh hồn anh và xin bà con nguyện lượng cho một con người đã hy sinh
tình nhà vì phải lo việc nước”.
Trước lúc đi xa, Bác đã viết trong Di chúc: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức
phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế
giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.
Năm 1945, nạn đói xảy ra làm 2 triệu người chết. Bác rất đau xót và đã
kêu gọi: “Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước cứ
mười ngày thì nhịn ăn một bữa, một tháng nhịn ăn ba bữa, lấy gạo đó mỗi bữa
một bơ để cứu giúp dân nghèo”.
* Vào một hôm trong kháng chiến chống Mỹ, sau khi đi thăm nơi ăn, chốn
ở của một đơn vị thông tin, trước khi ra về, Bác bảo đồng chí chỉ huy tập trung
bộ đội lại.

Bác nói:
- Muốn làm được tốt nhiệm vụ, các chú phải đoàn kết nội bộ, đoàn kết chặt chẽ
với nhân dân địa phương, thường xuyên thăm hỏi, động viên giúp đỡ nhân dân,
làm cho nhân dân tin yêu, giúp đỡ và bảo vệ quân đội. Chỉ có dựa vào nhân
dân, đoàn kết với nhân dân mới bảo vệ được mình, che mắt địch và đánh thắng
được chúng.
- Chợt Bác chỉ tay ra phía đường cái hỏi:
- Thế các chú cấm con đường kia thì nhân dân đi lại bằng đường nào?
- Thưa Bác... đi vòng theo các bờ ruộng ngoài kia ạ.
8


Nghe đồng chí chỉ huy trả lời thế, Bác phê bình:
- Như vậy là không được. Các chú cấm đường để phòng kẻ gian, đảm bảo bí
mật quân sự là đúng, nhưng phải đắp con đường khác cho nhân dân đi chứ. Có
như vậy mới đúng là quân dân đoàn kết, Bác nói thế có đúng không?
Chúng tôi cùng trả lời:
- Thưa Bác, đúng ạ!
Vâng lời Bác, đơn vị đã tự phê bình trước nhân dân và cùng nhân dân đắp xong
con đường mới sớm hơn thời gian dự định.
4.3. Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, đoàn kết
lâu dài, chặt chẽ.
Hồ Chí Minh nhận thức rằng, đoàn kết không phải là tập hợp ngẫu nhiên,
tự phát, nhất thời, mà là một tập hợp lâu dài, bền vững của các lực lượng xã hội
có định hướng, có tổ chức, có lãnh đạo.
Giữa mùa thu năm 1954, Bác đến thăm Hội nghị rút kinh nghiệm cải
cách ruộng đất ở Hà Bắc. Tại hội nghị, được biết có lệnh của Trung ương rút
bớt một số cán bộ đi học lớp tiếp quản thủ đô. Ai nấy cũng đều háo hức muốn
đi, nhất là những người quê ở Hà Nội. Bao năm xa nhà, nhớ thủ đô, nay được
dịp về công tác, ai ai cũng có nguyện vọng được đề nghị cấp trên chiếu cố. Tư

tưởng cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban lãnh đạo ít nhiều thấy khó xử.
Lúc đó, Bác lên diễn đàn, Bác hiền từ nhìn khắp hội trường và nói chuyện về
tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng trong lúc này, Bác bỗng
rút trong túi áo giơ ra một chiếc đồng hồ quả quýt và hỏi các đồng chí cán bộ
trong hội trường từng câu hỏi về chức năng của từng bộ phận trong chiếc đồng
hồ. Ai ai cũng đồng thanh trả lời đúng hết các câu hỏi của Bác.
Đến câu hỏi: trong cái đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng? Khi mọi
người còn đang suy nghĩ thì Bác lại hỏi: Trong cái đồng hồ, bỏ một bộ phận đi
có được không? - Thưa không được ạ. Nghe mọi người trả lời, Bác bèn giơ cao
chiếc đồng hồ lên và kết luận:
- Các chú ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng ví như các cơ
quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của
cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các chú thử nghĩ xem:
trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra
ngoài làm cái mặt đồng hồ…cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì có còn là cái
đồng hồ được không ?
Chỉ trong ít phút ngắn ngủi, câu chuyện chiếc đồng hồ của Bác đã khiến
cho ai nấy đều thấm thía, tự đánh tan được những suy nghĩ riêng tư của mình.
Cũng chiếc đồng hồ ấy, một dịp vào cuối năm 1954 Bác đến thăm một
đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc duyệt
binh đón mừng chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau khi đi thăm nơi ăn, chốn ở của
bộ đội, Bác đã dành một thời gian dài để nói chuyện với anh em. Bác lấy ở túi
ra một chiếc đồng hồ quả quýt, âu yếm nhìn mọi người rồi chỉ vào từng chiếc
kim, từng chữ số và hỏi anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều
trả lời đúng cả. Song chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?
Bác vui vẻ nói tiếp: “Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy
9


để chỉ cho ta biết giờ giấc, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn

hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều nhịp nhàng làm việc theo sự phân công
ấy”, nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa
không!!!!
Sau câu chuyện của Bác Anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách
mạng phân công phải yên tâm hoàn thành. Chiếc đồng hồ quả quýt còn là một
hiện vật vô giá thể hiện tình cảm Quốc tế đối với Bác, đó là chiếc đồng hồ do Tổ
chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” tặng, Bác luôn giữ nó trong mình, trong những năm
tháng bị cầm tù gian khổ cho đến ngày Việt Nam giành được độc lập.
Đối với cơ quan chúng ta cũng vậy, cũng giống như một chiếc đồng hồ,
mỗi cá nhân, mỗi phòng, ban là một bộ phận không thể thiếu. Tất cả đều có một
nhiệm vụ riêng, dù lớn dù nhỏ nhưng đó đều là một phần quan trọng trong một
tổ hợp tập thể, mỗi nhiệm vụ như một mắc xích nối lại với nhau. Để tạo nên một
mối nối thật sự vững chắc thì mỗi chúng ta - một mắc xích phải thật sự đoàn kết,
nổ lực, cố gắng phát huy khả năng của mình, hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Việc suy bì, tính toán thiệt hơn về quyền lợi, trách nhiệm
hay lánh nặng tìm nhẹ thì sẽ dẫn đến mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến nhiệm
vụ chung của cả một tập thể.
Từ một chiếc đồng hồ, Bác đã gợi lên trong mỗi người nhận thức về một
bàihọc quý giá. Đó là hiện vật vô giá về tình đoàn kết trong mỗi đơn vị, trong
một quốc gia và tình đoàn kết quốc tế. Đoàn kết để ổn định, để đổi mới và sáng
tạo, để làm nên thành công.
4.4. Đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái, đoàn kết phải
gắn với tự phê bình và phê bình
Xuất phát từ tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc và tinh thần hướng
thiện của con người Việt Nam, Hồ Chí Minh chủ trương xóa bỏ mọi thành kiến,
tập hợp mọi lực lượng, lôi kéo họ về với dân tộc. Vì vậy, đoàn kết phải có lòng
nhân ái, khoan dung.
Ngôi nhà sàn của Bác ở Hà Nội chỉ có chiếc giường đơn, chiếu mộc, không có
quạt điện, máy điều hòa nhiệt độ nên đồng bào Sơn La tặng Bác một chiếc nệm.
Bác nằm thử thấy êm nhưng rồi Bác bảo với các đồng chí phục vụ đem tặng lại

cho các cụ lão thành cách mạng già hơn Bác và nói: “Trong lúc đồng bào chưa
có chiếu mà Bác nằm nệm sao yên lòng”. Đặc biệt tình yêu thương con người
của Bác còn dành cho chính kẻ thù khi bị thua trận. Một lần Bác đến thăm trại
tù binh Pháp, thấy một tù binh đang rét run cầm cập, Bác liền cởi áo bông trên
người mà đồng bào Trung Quốc tặng Bác, khoác lên người tù binh đó. Sang
phòng bên, Bác thấy một tù binh đang ho vì cảm lạnh, Bác cởi nốt chiếc khăn
của mình quàng lên cổ người tù binh ấy. Sau này, chính người tù binh đó khi
viết hồi ký đã rất xúc động và khâm phục trước tấm lòng yêu thương con người
của Bác.
Mặt khác, Hồ Chí Minh cho rằng trong đoàn kết có đấu tranh, đấu tranh
để củng cố đoàn kết. Người nói “Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa
đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê
bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”. Tự phê bình và phê bình phải chân
10


thành, thẳng thắn, thân ái, có lý, có tình, phê bình việc chứ không phê bình
người.
Trước mấy tháng Bác mất, Bác còn dành tình cảm đặc biệt cho tỉnh
Thanh Hóa bằng việc tiếp đoàn cán bộ chủ chốt. Hôm đó đúng là ngày cuối
cùng của năm (31/12/1968).
Bác hỏi mấy câu rất thiết thực, vừa là tư tưởng, đạo đức và cũng rất đúng
phong cách của Người: Thanh Hóa có còn tệ nạn nấu rượu lậu không? Đoàn
Thanh Hóa trả lời ấp úng: Vẫn còn!
Bác lại bảo: Đảng ta là một đảng cách mạng chứ không phải Đảng nấu rượu
lậu đâu! Phải là người khoáng đạt lắm Bác mới có thể nói một vấn đề chính trị
một cách tự nhiên như thế.
Câu thứ hai Bác hỏi: Thanh Hóa còn tệ đánh vợ không? Bác bảo: Vợ chồng
tình cảm trăm năm, thương yêu như thế mà lại đánh nhau. Tại sao lúc yêu thì
các chú anh - em ngọt ngào thế mà lúc “điên tiết” lên thì lại 'thụi" người ta.

Bác nói rất đời thường và còn giải thích thêm: Tuy là vợ chồng nhưng cũng là
công dân với công dân mà công dân nam đánh công dân nữ là phạm pháp đấy.
Bác chỉ dẫn đến như vậy.
Câu thứ ba, Bác hỏi: Bây giờ Thanh Hóa tỷ lệ cán bộ nữ trong cấp ủy đến đâu
rồi? (Vì lần trước ra thăm Bác không có một bóng phụ nữ nào, toàn nam giới,
Bác đã không hài lòng nhưng Bác rất tế nhị, cẩn thận.
Bác không phê bình ngay vì phê bình ngay rất dễ dẫn đến chủ quan, nhỡ người
ta có nhưng người ta không đi thì sao? Bác phải thăm dò, Bác bảo: Hôm nay,
đoàn cán bộ tỉnh Thanh Hóa ra làm việc với trung ương, với Bác đi có đủ
không? Nếu đi đủ nghĩa là không có nữ, còn nếu đi thiếu nghĩa là có thể có nữ.
Ông trưởng đoàn không hiểu hết ý tứ của Bác nên hồn nhiên trả lời: Thưa Bác,
có mấy khi được ra thăm Bác, nên chúng cháu bảo nhau đi đủ 100% ạ! Vậy là
câu trả lời đã cung cấp cho Bác một thông tin có giá trị.
Bây giờ Bác mới xử lý. Bác đi hết một lượt rồi dừng lại ở một đồng chí ăn mặc
diện nhất trong đoàn. Bác hỏi: Chú tên gì? Cấp ủy phân công cho chú công việc
gì?
Khi biết ông này lại là Giám đốc Sở Nông nghiệp, Bác bảo ngay: Bác cho đoàn
Thanh Hóa về trước, riêng chú ở lại chơi với bác thêm dăm bữa, nửa tháng, mai
đi tát nước với Bác). Thế là Bác của chúng ta đang phê bình đấy, rất nhẹ nhàng,
sâu sắc. Chúng ta nên học Bác ở điểm này.
Đời Bác không nặng lời với ai bao giờ, có giận lắm cũng chỉ im lặng và thường
từ trong phòng đi ra ngoài để kiềm chế, để không nặng lời. Bởi nặng lời dễ dẫn
đến làm tổn thương nhau. Cách phê bình của Bác rất nhẹ nhàng và thấm thía.
5. Phương pháp đại đoàn kết
5.1. Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục
11


Để thức tỉnh mọi người, để họ tự nguyện, tư giác tham gia đoàn kết thành
một khối, theo Hồ Chí Minh điều quan trọng hàng đầu là phải tuyên truyền, vận

động, giáo dục, thuyết phục.
Nội dung tuyên truyền phải: Vừa đáp ứng nguyện vọng, quyền lợi cơ bản
của quần chúng, vừa đáp ứng yêu cầu thực tiễn cách mạng.
Hình thức tuyên truyền, vận động quần chúng phù hợp với từng đối
tượng. Hồ Chí Minh yêu cầu: Viết phải ngắn gọn, dễ hiểu, vừa trí thức, vừa bình
dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị, phải bằng ngôn ngữ thông thường gần gũi với mọi
người dân Việt Nam. Nói để ai cũng hiểu được, hiểu được thì nhớ được, nhớ
được thì làm được.
Chính vì quan điểm vì dân và cho dân mà Bác Hồ có một văn cách rất
giản dị trong lời ăn tiếng nói. Người nói và viết cho tất cả mọi người, kể cả
những người ít học, những người mù chữ khi nghe cũng đều hiểu được. Người
rất ghét lý luận suông, rất ghét nói và viết dài dòng mà rỗng tuếch và kiên quyết
phản đối việc dùng chữ nước ngoài một cách không cần thiết. Người nói và viết
ngắn gọn, súc tích, rõ ràng, tùy theo từng đối tượng mà dùng lời lẽ thích hợp.
Người thường dùng ca dao, tục ngữ, những câu chuyện cổ tích hoặc dân gian để
dễ đi vào nhận thức người dân bình thường. Nội dung bao giờ cũng khảng khái,
thấm thía, giàu tính dân tộc và nhân văn, đi vào tình cảm của con người, chinh
phục cả trái tim khối óc của mọi người.
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra rằng: Muốn quần chúng tin theo, người cán bộ
tuyên truyền phải nắm vững chủ trương đường lối của Đảng, là một tấm gương
mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có sức lôi cuốn, thuyết phục quần chúng.
5.2. Phương pháp tổ chức
Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí Min cần có phương
pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây dựng, củng cố, phát triển hệ
thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà nước, Mặt trận đoàn thể và các quần
chúng.
+ Đối với Đảng: Phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình
+ Nhà nước: Phải xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân;
không ngừng cải cách bộ máy hành chính và hoàn thiện bộ máy pháp luật. Cán

bộ công chức Nhà nước phải tận tụy, trung thành phục vụ nhân dân, phải là
“công bộc của dân”.
+ Mặt trận và các đoàn thể quần chúng: Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận và
các đoàn thẻ: đề ra Cương lĩnh phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng, hình thức tổ
chức phải phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ nhận thức của quần chúng;
cán bộ óc phải nghĩ, mắt trông, chân đi, tai nghe, miệng nói, tay làm, phải làm
tốt công tác dân vận.
5.3. Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp xử lý khoa học
12


mối tương quan của 3 tuyến:
+ Đối với lực lượng cách mạng: Khai thác phát huy những điểm tương
đồng, đồng nhất; hạn chế, khắc phục tiến tới xóa bỏ dần những khác biệt về mục
tiêu, lợi ích.
+ Đối với lực lượng trung gian: Xóa bỏ mọi thành kiến, mặc cảm, khơi
gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, hợp tác, trọng dụng những người
có tài, có đức ra giúp dân, giúp nước.
* Sự kiện nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời
giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ từ tháng 3/1946 là một minh chứng điển hình về
quan điểm, tài năng, nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Theo thỏa thuận ngày 23/12/1945 giữa Việt minh và các đảng đối lập cùng tham
gia xây dựng Chính phủ kháng chiến thì người đứng đầu 2 Bộ quan trọng là Bộ
Nội vụ và Bộ Quốc phòng phải là nhân sĩ trung lập. Với nhãn quan chính trị vô
cùng sắc bén, khôn khéo và nhạy cảm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định mời
Cụ Huỳnh Thúc Kháng từ Trung bộ ra Hà Nội nhận chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ
thay đồng chí Võ Nguyên Giáp. Cụ Huỳnh Thúc Kháng là một chí sĩ yêu nước
tiền bối, là bậc đại khoa có danh vọng và uy tín lớn lao. “Việc Cụ Huỳnh Thúc
Kháng tham gia Chính phủ và giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ vừa giúp cho

Chính phủ có thêm một nhân sĩ tài năng, đức độ, do đó, củng cố thêm sự ủng hộ
mạnh mẽ của quần chúng nhân dân, và uy tín của Chính phủ được tăng thêm”.
Hay như việc sử dụng ông Phạm Khắc Hoè cũng là một ví dụ điển hình
minh chứng cho tài năng thu phục những công chức có trình độ, năng lực, có
hạnh kiểm tốt của chính quyền cũ vào làm việc cho chính quyền cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Phạm Khắc Hòe là một nhân sĩ tiến bộ, từng giữ
chức Đổng lý Văn phòng của vua Bảo Đại, sau khi được mời làm việc trong tinh
thần đoàn kết chân thật, giản dị với các chiến sĩ cách mạng tại cơ quan Bộ Nội
vụ, đã kiên định, tận tâm, tận lực công tác hoàn thành nhiệm vụ Chính phủ và
Bộ Nội vụ giao phó. Chính nhân sĩ tiến bộ Phạm Khắc Hòe sau này trong hồi ký
của mình đã viết: “Sau 20 năm chìm đắm trong vũng bùn hôi tanh của chính
quyền thực dân phong kiến, tôi vô cùng phấn khởi được góp phần nhỏ bé của
mình vào việc xây dựng cơ cấu chính quyền ruột thịt của nhân dân và phân biệt
được sự khác nhau giữa nền dân chủ tư sản mà tôi hằng “mơ ước” với nền dân
chủ nhân dân, con đẻ của Cách mạng Tháng Tám”.
+ Đối với lực lượng phản cách mạng: Chủ động kiên quyết tiêu diệt trên
cơ sở phân hóa, cô lập chúng cao độ; chú ý khai thác mâu thuẫn trong nội bộ kẻ
thù , lôi kéo những người có thể tranh thủ được, tạm hòa hoãn có nguyên tắc với
những lực lượng, bộ phận có thể hòa hoãn được.
Phương pháp xử lý mối quan hệ 3 chiều này bao hàm sự kết hợp giữa
chiến lược và sách lược, cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo trong biện pháp, thực
hiện phương chấm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Trong thời kỳ 1945-1946, cách mạng Việt Nam ngay từ những buổi đầu
dựng nước đã ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Phía Nam, quân đội Anh chiếm
đóng; ở phía Bắc, hai mươi vạn quân Tưởng kéo vào, bọn phản động liên kết
13


với nhau tổ chức bạo loạn hòng lật đổ Chính phủ lâm thời. Lúc này Chủ tịch Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng đã quyết đoán, kể cả phải dùng đến những biện

pháp đau đớn để cứu vãn tình thế “không thể do dự. Do dự là hỏng hết”3. Đảng
phải tuyên bố tự giải tán vào hoạt động bí mật; Chính phủ phải nhường ghế cho
đại diện các đảng phái khác để giữ vững chính quyền non trẻ. Ta đồng ý nhường
cho bọn tay sai của giặc Tưởng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử và một
số chức vụ quan trọng trong Chính phủ, nhưng chủ quyền dân tộc được giữ
vững. Khi quân Tưởng - Pháp ký Hiệp ước Hoa - Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã mau chóng đưa ra chủ trương “Hòa để tiến”. Chủ trương này đã dẫn đến
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 giữa Việt Nam và Pháp. Trong Hiệp định ghi rõ,
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khối “Liên
hiệp Pháp” là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài
chính riêng. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép quân Pháp vào
một số địa điểm ở Bắc Việt Nam thay thế quân Tưởng Giới Thạch. Để đi đến
một quyết định cực kỳ quan trọng có liên quan đến sự sống còn của dân tộc,
Người suy nghĩ và cân nhắc rất thận trọng. Đây cũng là bước nhân nhượng cuối
cùng vì nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền của đất nước và lợi ích tối
cao của dân tộc. Sau khi ký Hiệp định sơ bộ, ngày 7-3 Người đã phải nói trước
quốc dân, đồng bào: “Tôi, Chủ tịch Hồ Chí Minh, suốt đời đã cùng đồng bào
chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi thà chết chứ không bao giờ bán nước”.
5.4.Đoàn kết dân tộc phải gắn với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã gắn cách mạng Việt Nam với
cách mạng thế giới, coi cách mạng Viêt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới.
Để thực hiện đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại, theo Hồ Chí Minh cần phải:
+ Xây dựng tình đoàn kết hữu nghị hợp tác với các dân tộc và giai cấp vô
sản các nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lê Nin và chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Chính sách đại đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh là: Hòa binh, hữu nghị
hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không
can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Đặc biệt coi trọng và xây dựng tình đoàn kết hữu nghị với các nước láng
giềng như Lào, Campu chia, Trung Quốc…
+ Đề cao độc lập, tự chủ, tự cường đồng thờ tranh thủ đến mức cao nhất
sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân trên thế giới.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đã chứng minh hùng hồn
sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đại
đoàn kết đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng trong
cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng XHCN. Đại đoàn kết đã
thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả mọi người dân Việt Nam yêu nước,
biến thành hành động cách mạng, thành sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết ở Nghệ An trong
14


thời gian qua.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về đại đoàn kết ở Nghệ An (Chỗ này em
mới tham mưu mới so với bản 1 cô ạ).
- Ngày 17/9/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thư gửi các đồng chí tỉnh
nhà”, trong thư Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ, không dùng danh nghĩa Chủ tịch
của chính phủ, chỉ lấy danh nghĩa của một đồng chí già mà viết để san sẻ ít nhều
kinh nghiệm với các đồng chí, trong nhiều nội dung, Chủ tịch Hồ Chí Minh
nhấn mạnh các nội dung đoàn kết:
+ “…Khó khăn thì khó khăn thật, nhưng chúng ta quyết tâm chúng ta vừa
làm, vừa học, nhất là chúng ta cố mà học theo cho đúng chính sách của chính
phủ, thì nhất định chúng ta vượ qua hết thảy những sự khó khăn đó. Nói tóm tắt,
thì chính sách của Chính phủ là: Củng cố sự đoàn kết toàn dân; Sửa đổi những
khuyết điểm khắp các phương diện”.
+ Trong thư chủ tịch Hồ Chí Minh lại chỉ ra “những khuyết điểm to nhất
là:

- Khuynh hướng chật hẹp và bao biện
- Lạm dụng hình phạt
- Kỷ luật không đủ nghiêm
- Đề phòng hủ hóa”
Chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận “Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân
hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lay động. Chúng ta phải lập tức sửa
đổi ngay, chúng ta không sợ có khuyết điểm; chúng ta chỉ sợ không có quyết
tâm sửa đổi, chung ta phải lấy lòng chí công vô tư”.
- Ngày 21/7/1969, bức thư cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi “Ban
Chấp hành đảng bộ Đảng lao động Việt Nam tỉnh Nghệ An”. Trong thư Bác đã
khen ngợi tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu tốt; khen ngợi thành tích trong
sản xuất của một số hợp tác xã, vui mừng nhận thấy cán bộ các cấp, các ngành
bước đầu sửa chữa tệ quan liêu, mệnh lệnh…
Đồng thời Bác đã căn dặn sắp tới phải “Tích cực thực hiện dân chủ hơn với nhân
dân hơn nữa. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên cần thường xuyên tự phê bình trước
nhân dân, khuyến khích nhân dân phê bình, khiêm tốn lắng nghe ý kiến của
nhan dân để phát huy những viêc tốt, sửa chữa những việc sai, làm công tác tốt
hơn….” “Phải khuyến khích nhân dân góp phần xây dựng Đảng”; “Đề làm tốt
việc định canh, định cư cho đồng bào miền núi cần chỉ đạo thật chặt chẽ và có
cán bộ người dân tộc đề vận độn nhân dân” …“Phải hết sức chăm lo đời sống
nhân dân, phải ra sức phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm, lại phải phân
phối cho công bằng, hợp lý…”
Trong bức thư này Bác không trực tiếp nêu vấn đề đoàn kết nhưng qua
những nhiệm vụ bác giao cần phải làm trong thư là trực tiếp xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân
- Trong bài nói chuyện với Đảng bộ, chính quyền xã Kim Liên vào ngày
16/6/1957, sau 50 năm xa cách quê hương. Bác căn dặn Đảng bộ, chính quyền
sửa sai cải cách ruộng đất cho tốt, nâng cao tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn
nhau, đừng để “đèn nhà ai rạng nhà nấy”.
- Trong “Thư khen quân và dân Nghệ An” ngày 22/7/1968 Chủ tịch Hồ

15


Chí Minh viết “..Đồng bào, bộ đội và cán bộ Nghệ An hãy nêu cao truyền thống
anh dũng của Xô Viết Nghệ - Tĩnh, phát huy thắng lợi, đoàn kết chặt chẽ, luôn
luôn cảnh giác, thi đua chiến đấu giỏi, sản xuất giỏi…”
- Trong bức “Điện gửi đồng bào Xã Đoài” ngày 10/8/1968 Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau
và chính quyền địa phương tìm cách giúp đỡ đồng bảo giải quyết khó khăn trước
mắt để khôi phuc lại đời sống bình thường và cùng nhau ra sức chống Mỹ cứu
nước”.
- Trong “Thư gửi đội thanh niên xung phong số 333” thuộc tỉnh Nghệ An
ngày 21/1/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhủ: “…Luôn luôn đoàn kết, ra sức
học tập chính trị, kỹ thuật, văn hóa để ngày càng tiến bộ:…
2. Thực trạng đại đoàn kết ở Nghệ An hiện nay (Chỗ này em chưa sửa
so với bản 1).
Phát huy tốt sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, là nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của tỉnh.
Nhưng việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các Đoàn thể, các tổ chức xã hội
còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào theo đạo, đồng bào dân
tộc thiểu số...
Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, trong thời gian qua
Nghệ An đã vận dụng để thực hiện đạt được kết quả trên các mặt trọng tâm sau:
2.1 Công tác lãnh đạo, chỉ đạo.
- Ngay sau khi có Nghị quyết số 23, 24, 25 của Hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc; về công tác
dân tộc; về công tác tôn giáo, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã xây dựng Chương
trình hành động số 16 - CTr/TU ngày 01/7/2003 về chương trình hành động thực

hiện các Nghị quyết số 23, 24, 25 của Hội nghị TW7 (khóa IX). Mở hội nghị cốt
cán toàn tỉnh triển khai Nghị quyết TW7 (khóa IX) với số lượng hơn 350 đồng
chí, thời gian 1 ngày.
- Tổ chức sơ kết 5 năm, tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết TW7 (khóa
IX) về đại đoàn kết, về công tác dân tộc, công tác tôn giáo từ cơ sở đến tỉnh.
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 11 - NQ/TU ngày
23/10/2007 về "Tăng cường công tác dân vận trước yêu cầu mới" nhằm tạo sự
đoàn kết, đồng thuận cao trong nhân dân. Nghị quyết đã được triển khai thực
hiện có hiệu quả đến tận chi bộ; ban hành Chỉ thị số 14 - CT/TU (năm 2008) về
"Tăng cương sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện QCDC ở cơ sở", thông qua
chỉ thị này nhằm công khai, dân chủ, minh bạch các chủ trương, chính sách, các
khoản dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng để tạo sự đoàn kết trong các khu
dân cư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quê hương; ban hành Quyết định số 2924QĐ/TU ngày 30/8/2012 về ban hành quy chế tiếp xúc đối thoại với nhân dân;
Quyết định số 2954-QĐ/TU ngày 04/10/2012 về ban hành đề án xây dựng cốt
cán trong tôn giáo, Chỉ thị số 20 - CT/TU, ngày 15/7/2014 về xây dựng, củng cố
hệ thống chính trị vùng giáo...
- Phân công đồng chí Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy làm Trưởng ban
16


chỉ đạo Phong trào thi đua "Dân vận khéo", đồng chí Phó Chủ tịch Thường trực
Ủy ban nhân dân tỉnh làm Trưởng ban chỉ đạo QCDC cơ sở và Trưởng ban chỉ
đạo công tác dân vận chính quyền.
- Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh phân công 1 đồng chí
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh phụ trách công tác dân tộc, miền núi.
- Có bộ máy chuyên trách Ban Dân tộc tỉnh, Ban Tôn giáo (Sở Nội vụ)
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền về công tác dân tộc, tôn giáo. Tại các huyện
có đồng bào dân tộc, tôn giáo và các xã có tỷ lệ giáo dân theo quy định đều có
bộ phận và cán bộ trực tiếp theo dõi, tham mưu công tác dân tộc, tôn giáo.
- Để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 25 - NQ/TW ngày

3/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới".
Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết (Chương trình số 25 - CTr/TU ngày 20/11/2013). Thông qua chương trình
hành động đã xây dựng 5 Đề án (Đề án số 06 Dân vận khéo; 08 đưa công tác
dân vận vào giảng dạy tại Trường Chính trị tỉnh, Trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện; 09 về thực hiện công tác dân vận và QCDC cơ sở trong giải phóng
mặt bằng, tái định cư; Đề án về công tác tôn giáo; Đề án về xây dựng quy chế
phối hợp giữa MTTQ và các đoàn thể với chính quyền các cấp; Đề án hỗ trợ từ
2-2,5 triệu đồng cho hoạt động của Tổ dân vận xóm, bản, khối phố...), qua đó đã
góp phần thực hiện tốt công tác đại đoàn kết trên địa bàn.
- Xây dựng Đề án về "Tăng cường công tác dân vận ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Nghệ An giai đoạn 2016-2020 và những năm tiếp
theo"; Đề án "Nâng cao hiệu quả công tác tôn giáo, tăng cường khối đoàn kết
dân tộc góp phần đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ
vững chắc quốc phòng, an ninh trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2016-2020".
2.2. Kết quả, hạn chế:
Kết quả:
- Tình hình đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đoàn kết lương - giáo
trên địa bàn.
(1). Về đoàn kết dân tộc:
Nghệ An có 11/21 huyện, thị xã miền núi, với 252 xã, thị trấn miền núi.
Trong đó có 107 xã và 1.188 thôn, bản đặc biệt khó khăn; 27 xã tiếp giáp với
nước bạn Lào với chiều dài biên giới là 419 km. Diện tích toàn tỉnh 16.480 km 2,
trong đó khu vực miền núi là 13.745 km2 (chiếm 83%).
Dân số toàn tỉnh hơn 3,2 triệu người trong đó miền núi có 1.197.628
người (chiếm 41%). Riêng đồng bào dân tộc thiểu số có 442.787 người, chiếm
15,2% dân số và chiếm 36% dân số trên địa bàn miền núi.
Tỉnh có 5 dân tộc thiểu số chính, gồm: Thái 299.490 người, Thổ 62.751
người, Khơ Mú 45.890 người, Mông 30.433 người, Ơ Đu 1.085 người.

Ưu điểm:
- Đồng bào các dân tộc ở Nghệ An có truyền thống đoàn kết lâu đời trong
đấu tranh chống giặc ngoại xâm, chế ngự thiên nhiên, khắc phục thiên tai và xây
dựng quê hương, đất nước. Mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, tạo nên sự đa
17


dạng trong cộng đồng các dân tộc ở Nghệ An.
Sau 30 năm đổi mới, nhất là từ khi có chương trình 135/CP, Nghị quyết
30a của Chính phủ và các chương trình xóa đói giảm nghèo, chính sách lớn về
phát triển kinh tế - xã hội miền núi, tình hình miền núi và các vùng đồng bào
dân tộc thiểu số ở Nghệ An có bước chuyển biến quan trọng. Quyền bình đẳng
giữa các dân tộc được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đoàn kết
giữa các dân tộc được củng cố. Kinh tế vùng dân tộc từng bước phát triển, cơ
cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa. Kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân ở vùng dân tộc được cải thiện rõ rệt. Công
tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả to lớn. Mặt bằng dân trí được nâng lên;
công tác phổ cập giáo dục tiểu học, THCS và xóa mù chữ cơ bản được thực hiện
tốt. Văn hóa truyền thống các dân tộc ở Nghệ An được tôn trọng, giữ gìn và phát
huy. Các loại dịch bệnh cơ bản được ngăn chặn và đẩy lùi; việc khám chữa bệnh
cho người nghèo vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc được quan tâm hơn.
Hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi được tăng cường và củng cố.
Tình hình chính trị, trật tự xã hội cơ bản ổn định; an ninh biên giới được giữ
vững.
- Đoàn kết giúp đỡ xã, bản vùng dân tộc đặc biệt khó khăn:
Ban Thường vụ Tỉnh ủy có chủ trương chỉ đạo UBND tỉnh phân công các
sở, ban, ngành, cơ quan cấp tỉnh và các ngân hàng thương mại trên địa bàn nhận
giúp đỡ các xã khó khăn:
Năm 2011: 44 cơ quan giúp 44 xã nghèo.
Năm 2012: 56 cơ quan giúp 56 xã nghèo.

Năm 2013: 71 cơ quan giúp 71 xã nghèo.
Năm 2014: 86 cơ quan, đơn vị giúp 86 xã nghèo.
Năm 2015: 107 cơ quan, đơn vị giúp 110 xã nghèo thuộc các huyện miền
núi cao Kỳ Sơn, Tương Dương, Quế Phong và một số huyện khó khăn khác.
Phương thức giúp đỡ: Tùy điều kiện cụ thể từng cơ quan, đơn vị để giúp
đỡ, trong đó tập trung:
+ Hướng dẫn, tập huấn kỹ thuật cho nhân dân sản xuất.
+ Hướng dẫn xây dựng, củng cố hệ thống chính trị vững mạnh.
+ Hỗ trợ giống bò sinh sản.
+ Hỗ trợ giống cây.
+ Hỗ trợ một số cơ sở vật chất phục vụ hoạt động của bộ máy Đảng, chính
quyền, Mặt trận, đoàn thể cơ sở như máy vi tính, bàn ghế làm việc...
Kết quả đến nay đã hỗ trợ hàng trăm con bò cho hộ nghèo (Riêng Công
An tỉnh đã hỗ trợ đồng bào dân tộc xã Châu Hoàn - Quỳ Châu 6 đợt với 98 con
bê, đến nay sinh sản hơn 200 con). Các đơn vị đã giúp đỡ xây dựng được 30 mô
hình trồng lúa nước cho năng suất cao, hàng chục mô hình sản xuất, chăn nuôi
có hiệu quả; củng cố hệ thống chính trị 50/86 xã đi vào hoạt động nề nếp, có
hiệu quả.
Qua đó, nhận thức của cán bộ và nhân dân các xã được giúp đỡ được nâng
lên, từng bước giảm tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, biết áp dụng khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất, chăn nuôi; công tác chỉ đạo, điều hành của cấp ủy
đảng, chính quyền và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể ở các xã được giúp
18


đỡ có hiệu quả hơn. Cán bộ các sở, ban, ngành cấp tỉnh hiểu dân hơn, hiểu
những khó khăn của cơ sở nên trong tham mưu chủ trương, chính sách cho lãnh
đạo tỉnh sát với thực tế hơn, hợp lòng dân hơn.
- Đoàn kết để phát triển kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào dân tộc,
miền núi:

Trong thời gian qua, tình hình kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc
thiểu số đã có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân cơ bản được nâng lên.
+ Kinh tế tiếp tục phát triển, tăng trưởng bình quân các huyện miền núi
hàng năm từ 12-15%, đã xây dựng được nhiều mô hình kinh tế có giá trị kinh tế
cao như chanh leo (Tri Lễ, Quế Phong) cho giá trị 500 triệu đồng/ha, cam V2 Quỳ Hợp cho giá trị 1,2 tỷ/ha (500ha), vịt bầu - Quỳ Châu, lợn đen, khoai sọ, bí
xanh - Kỳ Sơn...
+ Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ giảm nghèo đối với các xã có tỷ lệ
hộ nghèo hỗ trợ từ 30% trở lên ngoài Nghị quyết 30a trên địa bàn tỉnh Nghệ An
giai đoạn 2016-2020.
+ Văn hóa xã hội các huyện miền núi có nhiều tiến bộ, gìn giữ và phát
huy tốt bản sắc văn hóa dân tộc, các lễ hội như Hang Bua - Quỳ Châu, đền 9
gian ở Quế Phong, mở các lớp học tiếng Thái được tổ chức hàng năm, đang xây
dựng đề án tổ chức lễ hội Hoa Hướng Dương tại huyện Nghĩa Đàn. Công tác
giáo dục các huyện miền núi có tiến bộ, số học sinh giỏi, học sinh đậu đại học,
cao đẳng tăng lên. Các hủ tục trong ma chay, cưới hỏi, chữa bệnh không đến
bệnh viện... cơ bản được xóa bỏ. Tỷ lệ đói nghèo các huyện miền núi giảm bình
quân 6 - 7%/năm (Kỳ Sơn còn 52,76%, Tương Dương 38,39%, Quế Phong
38,27%, Quỳ Châu 35,12%).
+ Thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, phát động ủng hộ “Chương
trình tết vì người nghèo” Bính Thân 2016 với số tiền ủng hộ gần 40 tỷ đồng, các
cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn, ủng hộ đồng bào bị bão
lụt, thiên tai đều vận động nhân dân tham gia đạt kết quả cao.
+ Việc xây dựng, cải thiện điều kiện, cơ sở vật chất của hệ thống chính trị
vùng dân tộc được quan tâm. Hàng năm toàn tỉnh kết nạp trung bình 12-14 đảng
viên người dân tộc thiểu số. Tỷ lệ đại biểu người dân tộc thiểu số tham gia
HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2016-2021 là 14,3%.
Hạn chế:
- Nhìn chung, kinh tế ở miền núi và vùng dân tộc còn chậm phát triển,
nhiều nơi tập quán canh tác còn lạc hậu. Tình trạng du canh, du cư, di dịch cư tự
do; nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em; bán hàng đa cấp vẫn diễn ra. Kết cấu hạ tầng ở

một số vùng cao, vùng sâu (Kỳ Sơn, Quế Phong, Tương Dương, Quỳ Châu) còn
thấp kém. Đồng bào dân tộc chưa sống được bằng kinh tế rừng và chưa gắn bó
với nghề rừng.
- Tỷ lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung của tỉnh; chất lượng
giáo dục một số nơi còn thấp, đào tạo nghề chưa được quan tâm đúng mức. Một
số tập tục lạc hậu, mê tín dị đoan chưa được đẩy lùi. Một số bản sắc văn hóa của
các dân tộc thiểu số đang bị mai một.
- Ở một số nơi tôn giáo phát triển không bình thường, trái pháp luật và
truyền thống, phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số.
19


- Hệ thống chính trị một số nơi còn yếu kém, năng lực đoàn kết tập hợp
đoàn viên, hội viên còn hạn chế.
(2). Về đoàn kết tôn giáo
Trên địa bàn tỉnh Nghệ An hiện có 2 tôn giáo chính đó là Công giáo và
Phật giáo; ngoài ra có một số tín đồ của các tôn giáo khác chưa có tổ chức tôn
giáo: Tin lành, Hòa hảo, Cao đài và một số tà đạo.
+ Đạo Công giáo hiện có 266.635 tín đồ (chiếm 8% dân số), 141 chức sắc
(3 giám mục, 138 linh mục), có Tòa giám mục giáo phận Vinh (gồm Công giáo
3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình), Trường đại chủng viện liên địa phận
Vinh - Thanh, dòng Mến Thánh giá Xã Đoài (5 cơ sở, khoảng 600 nữ tu); có 358
xứ, họ đạo (trong đó có 92 giáo xứ, 266 giáo họ, 16 họ đạo chưa có nhà thờ). 15
huyện, thành, thị có tổ chức cơ sở tôn giáo; 6 huyện còn lại đều có tín đồ công
giáo nhưng số lượng ít. Các huyện có đông giáo dân là: Nghi Lộc, Quỳnh Lưu,
Diễn Châu, Yên Thành, Hưng Nguyên. Đặc biệt có 106 xóm, bản; 14 xã có giáo
dân và đồng bào dân tộc chung sống.
+ Phật giáo có gần 40.000 tín đồ, phật tử (chiếm hơn 1,2% dân số) cư trú
chủ yếu tại 11 huyện, thành phố, thị xã. Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo gồm 15 ủy
viên thường trực; có 44 tăng, ni, tu sĩ trong đó 19 sư trụ trì các chùa trên địa bàn.

Cơ sở thờ tự: 45 cơ sở phật giáo (44 chùa, 01 niệm phật đường) đã được cấp có
thẩm quyền ra quyết định phục hồi.
Ưu điểm
- Trong những năm qua đồng bào Công giáo trên địa bàn Nghệ An cơ bản
thực hiện tốt 10 nội dung phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa ở khu dân cư, sống tốt đời đẹp đạo" do Ủy ban đoàn kết Công giáo Việt
Nam phát động kết hợp với cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới" do Mặt trận Trung
phát động. Tổ chức tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước tới các chức sắc, chức việc tôn giáo, cán bộ cốt cán vùng giáo và
người có uy tín trong giáo họ.
+ Phong trào đoàn kết phát triển kinh tế, giúp nhau xóa đói giảm nghèo
làm giàu hợp pháp, xây dựng nông thôn mới: Đồng bào công giáo trên địa bàn
tỉnh đã có nhiều cố gắng tích cực trong phong trào thi đua phát triển kinh tế, có
nhiều mô hình tập thể, cá nhân đã và đang được nhân rộng đồng thời xuất hiện
một số mô hình mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, biết phát huy thế
mạnh từng vùng, mạnh dạn đầu tư phát triển trên các lĩnh vực nông nghiệp, lâm
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ... Phong trào chung tay xây
dựng nông thôn mới tín đồ công giáo cơ bản nhiệt tình hưởng ứng, chính quyền
địa phương phối hợp với linh mục, hội đồng mục vụ giáo xứ, giáo họ vận động
nhân dân góp công góp của, hiến đất làm đường giao thông nông thôn, xây
dựng kênh mương nội đồng. Trên địa bàn toàn tỉnh tại các vùng công giáo đã có
trên 25 làng nghề, 33 làng có nghề và hàng trăm hợp tác xã, doanh nghiệp tư
nhân hoạt động hiệu quả. Đời sống kinh tế trong đồng bào công giáo đã có
nhiều tiến bộ vượt bậc, tỷ lệ hộ nghèo giảm, số hộ khá, giàu ngày càng tăng
(thống kê trong đồng bào tín đồ công giáo đến nay hộ giàu chiếm 14,5%; hộ khá
chiếm 35,2%; chỉ còn 15,5% hộ nghèo).
20



+ Phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa: Hàng năm các ban,
ngành, khối xóm, giáo xứ, giáo họ đăng ký xây dựng làng văn hóa và tổ chức
cho hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa. Kết quả số hộ đạt gia đình
văn hóa năm sau cao hơn năm trước, kết quả năm 2015 có 34.956 hộ gia đình
công giáo đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa, chiếm 65,7%. Phong trào giáo dục
được các cấp, các ngành cùng với giáo xứ, giáo họ quan tâm, tỷ lệ con em bỏ
học trong vùng đồng bào công giáo ngày càng giảm, con em đạt học sinh giỏi
các cấp và đậu vào các trường đại học, cao đẳng ngày càng tăng. Bên cạnh con
em đậu đạt bà con giáo dân còn ý thức động viên con em học nghề để có cơ hội
tìm kiếm việc làm, có thu nhập. Nếp sống văn minh đã được nhân dân tiếp nhận
và thực hiện, việc cưới, việc tang cơ bản thực hiện theo quy ước chung của thôn,
xóm, bà con giáo dân chủ yếu chỉ thực hiện những nghi thức riêng trong phạm
vi gia đình. Phong tục tập quán từng bước được đổi mới theo hướng văn minh
lịch sự, trong đám cưới không tổ chức linh đình mang hình thức kinh doanh lợi
nhuận. Các lễ hội tôn giáo phần lớn đều được thực hiện trong khuôn viên nhà
thờ và các nội dung lễ hội cơ bản đúng theo nghi thức, thuần túy tôn giáo. Tại
các lễ hội đã thu hút nhiều bà con lương dân tham dự. Ý thức về công tác dân số,
gia đình và trẻ em trong đồng bào công giáo ngày càng được nâng lên, trách
nhiệm trong việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình, xây dựng gia đình ấm no,
hạnh phúc (thống kê trong đồng bào công giáo năm học 2014 - 2015, có 632 em
đậu vào các trường đại học, cao đẳng, 40 em đạt học sinh giỏi cấp tỉnh và quốc
gia). Một số khu dân cư có tôn giáo nhiều năm liền không sinh con thứ 3 trở lên,
số cặp vợ chồng sinh con thứ 3 trở lên giảm khá nhiều.
+ Phong trào giữ vững an ninh chính trị, trật tư an toàn xã hội: Cộng đồng
dân cư, giáo dân tích cực thi đua thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, cùng nhau xây dựng các xứ họ, khu dân cư an
toàn làm chủ, tích cực phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, thực hiện tốt
quy ước, hương ước thôn xóm. Tỷ lệ vi phạm pháp luật trong vùng đồng bào
công giáo nhìn chung thấp hơn so với bình quân các địa phương khác, các vụ
việc xảy ra thường được giáo xứ, giáo họ phối hợp với chính quyền hòa giải tại

cơ sở. Nhiều linh mục quản xứ và hội đồng mục vụ giáo xứ đã chủ động đăng ký
với chính quyền xã xây dựng giáo xứ bình yên, không có tệ nạn xã hội, đảm bảo
trật tự an toàn xã hội trong cộng đồng giáo xứ. Các giáo họ đã cùng với ban cán
sự xóm động viên tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt công tác tự quản ở khu dân
cư. Công an một số huyện đã phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, ban đoàn kết công
giáo cấp huyện và chính quyền địa phương, cùng giáo xứ xây dựng mô hình
"giáo họ bình yên". Nhờ đó mà tình đoàn kết trong cộng đồng, thôn xóm được
giữ vững, phát triển tốt đẹp, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội
đảm bảo.
- Trong thời gian qua cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và các ngành chức năng, nhất là lực lượng công an đã tích cực,
chủ động tham mưu với cấp ủy trong công tác tuyên truyền để nhân dân nói
chung và đồng bào có đạo nói riêng hiểu rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch, lợi dụng vấn đề tôn giáo để phá hoại sự đoàn kết dân tộc, chống đối
chế độ, cụ thể:
21


+ Phối hợp tuyên truyền vận động nhân dân xây dựng tổ liên gia tự quản
về an ninh trật tự trên địa bàn, xây dựng giáo xứ, giáo họ bình yên, ký cam kết
không vi phạm luật an toàn giao thông đường bộ, hàng năm các hộ gia đình
đăng ký xây dựng gia đình văn hóa. Phối hợp xây dựng đội ngũ cốt cán vùng
giáo của mặt trận để làm cơ sở nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của nhân
dân cũng như những vấn đề mới nảy sinh trong vùng đồng bào có đạo phản ánh
cho cấp ủy, chính quyền xem xét xử lý. Tích cực gặp gỡ, tranh thủ chức sắc,
chức việc để tạo mối quan hệ trong giải quyết những vấn đề phát sinh ở vùng
giáo; vận động giáo dân tích cực tham gia bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND
các cấp nhiệm kỳ 2016-2021.
+ Công tác xây dựng lực lượng cốt cán tôn giáo được quan tâm: Thường
xuyên khảo sát, rà soát đánh giá đội ngũ cốt cán để kịp thời thông tin hai chiều

về tình hình tôn giáo và định hướng công tác tôn giáo, tạo điều kiện thực hiện
một số chế độ chính sách đối với đội ngũ cốt cán vùng giáo theo Quyết định số
3340-QĐ/TU, như: thăm hỏi động viên khi gia đình gặp khó khăn, tặng quà
nhân các ngày lễ trọng, dịp tết... Mỗi năm chi ngân sách khoảng 14 tỷ đồng để
hỗ trợ cho đảng viên gốc giáo, cốt cán cơ sở, xây dựng cốt cán phong trào...do
vậy đông đảo đồng bào công giáo đã phân biệt được hoạt động tín ngưỡng tôn
giáo và lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo, ủng hộ chính quyền trong giải quyết các
vấn đề tôn giáo, xử lý các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật.
- Chính quyền các cấp quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi giải quyết kịp
thời các nhu cầu tôn giáo chính đáng, đúng pháp luật của giáo hội, giáo dân. Hầu
hết các lễ lớn, lễ trọng của giáo hội đều được chính quyền các cấp chấp thuận và
tạo điều kiện giúp đỡ để tổ chức long trọng, phấn khởi, an toàn, nhất là các lễ
năm thánh, lễ noel, lễ thụ phong giám mục, linh mục. Từ năm 2003 đến nay đã
giải quyết cho tách lập 24 xứ, 46 họ đạo công giáo; phê duyệt, cấp giấy phép xây
dựng cho trên 70 nhà thờ, nhà phòng, nhà học giáo lý; hàng chục cơ sở tôn giáo
được địa phương giải quyết cho mở rộng khuôn viên; 97% cơ sở tôn giáo được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; chấp thuận thụ phong trên 70 linh mục;
hàng chục linh mục được du học ở nước ngoài.
- Việc xây dựng, cải thiện điều kiện, cơ sở vật chất của hệ thống chính trị
vùng giáo được quan tâm, hàng năm ngân sách tỉnh hỗ trợ 300-600 triệu đồng để
sửa chữa/1 trụ sở làm việc xã. Bố trí thêm 1 chức danh phó chủ tịch Ủy ban
MTTQ đối với các xã có 30% giáo dân. Đội ngũ cán bộ vùng giáo được tăng
cường, an tâm công tác, bản lĩnh được trau dồi. Hàng năm toàn tỉnh kết nạp
trung bình 12-14 đảng viên gốc giáo. Nhiệm kỳ 2011-2016 người công giáo
tham gia UBMTTQ cấp xã 746 người, cấp huyện 106 người, cấp tỉnh 19 người;
tỷ lệ người có đạo tham gia đại biểu HĐND tỉnh nhiệm kỳ 2016-2021 là 2,2%.
Hạn chế
- Tình hình hoạt động tôn giáo trên địa bàn Nghệ An còn có những diễn
biến phức tạp, tiềm ẩn những nhân tố có thể gây mất ổn định.
- Một số giáo dân chưa tuân thủ pháp luật, truyền đạo trái phép vẫn xảy

ra.
- Một số xứ, họ đạo linh mục còn tổ chức cho giáo dân lấn chiếm đất trái
phép để mở rộng khuôn viên nhà thờ; xây dựng mới, cơi nới cơ sở thờ tự nhiều
22


nơi không xin phép chính quyền.
- Một số người đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt
động chống đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, gây
mất ổn định chính trị.
- Hệ thống chính trị vùng giáo một số nơi hoạt động yếu kém, tập hợp
quần chúng còn hạn chế.
(3). Đoàn kết lương, giáo:
- Ưu điểm:
+ Nhân dân Nghệ An nói chung (trong đó có lương và giáo) từ xưa tới nay
có truyền thống đoàn kết. Không xảy ra xung đột lương - giáo, không mặc cảm
với nhau. Cùng chung sống, lao động, sản xuất và học tập trên cùng địa bàn dân
cư.
+ Lương dân và giáo dân ở Nghệ An chủ yếu sống xen kẽ lẫn nhau, mỗi
khi giáo dân cũng như lương dân gặp khó khăn, hoạn nạn hoặc có chuyện vui,
chuyện buồn thì nhân dân trong cụm dân cư (kể cả giáo và lương) đều kịp thời
đến thăm hỏi, chia sẻ, động viên nhau.
+ Cán bộ trong hệ thống chính trị ở Nghệ An từ tỉnh đến cơ sở và khối
xóm không phân biệt lương hay giáo miễn là người có uy tín, có năng lực công
tác đều được bố trí vào vị trí công việc hợp lý, phù hợp.
+ Các ngày lễ, tết của dân tộc, của giáo hội đều tổ chức trang trọng, đoàn
kết, phù hợp với phong tục, tập quán của đồng bào.
- Hạn chế:
+ Thời gian gần đây, do có một số người truyền đạo trái phép lên các địa
bàn dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số, trong khi đó bà con dân tộc chưa đồng

tình, nên có nơi, có lúc vấn đề đoàn kết lương - giáo có ảnh hưởng.
+ Một số ít nơi ở vùng giáo sau khi xảy ra vụ việc phức tạp, từng bước đi
vào ổn định cuộc sống thì vấn đề mặc cảm giữa giáo dân và lương dân còn xảy
ra.
+ Một số phần tử lợi dụng vấn đề tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết
toàn dân, trong đó phá hoại sự đoàn kết lương - giáo.
- Đại đoàn kết là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - văn hóa - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh của Nghệ An trong thời
gian qua
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa,
trước đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, với việc phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mở
cửa hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thì việc thực hiện tư tưởng đại đoàn
kết của Người càng có ý nghĩa quan trọng, đó là một trong những nhân tố bảo
đảm cho quá trình đổi mới, phát triển. Nghệ An đã triển khai thực hiện tốt 04
nhiệm vụ và 05 giải pháp theo Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
7, (khóa IX) về đại đoàn kết toàn dân tộc; về công tác dân tộc; về công tác tôn
giáo.
(1) Đoàn kết góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế:
+ Về kinh tế: Trong điều kiện kinh tế khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của tỉnh trong nhiệm kỳ 2010 - 2015 vẫn đạt kết quả khá 7,89%, thu nhập bình
23


quân đầu người năm 2015 đạt 29 triệu đồng, tăng gần 2 lần so với năm 2010. Cơ
cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ và công
nghiệp - xây dựng (tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 38,94% năm 2010 lên 43,3%
năm 2015, công nghiệp - xây dựng từ 31,7% lên 37,5%, giảm tỷ trọng nông
nghiệp (từ 29,35% xuống còn 24,2%). Năm 2015 thu ngân sách đạt 10.038 tỷ
đồng.

Công nghiệp - xây dựng ổn định và tăng trưởng: Giá trị sản xuất công
nghiệp - xây dựng bình quân 5 năm đạt 10,71%. Cơ cấu ngành công nghiệp có
sự chuyển dịch theo hướng tăng trưởng các ngành công nghiệp có tiềm năng, lợi
thế của tỉnh như thủy điện, sản xuất đồ uống (bia, sữa chế biến), chế biến lâm
sản, khai thác, chế biến khoáng sản, chế biến hải sản, may mặc. Đã thu hút được
nhiều dự án quan trọng, có tổng mức đầu tư lớn của các nhà đầu tư có thương
hiệu vào địa bàn như: Khu công nghiệp, đô thị và dịch vụ VSIP Nghệ An, nhà
máy xi măng Sông Lam, Nhà máy Tôn Hoa Sen, Nhiệt điện Quỳnh Lập 1, tuyến
đường nối QL7-N5, tuyến đường D4 và N5 trong khu kinh tế Đông Nam, tuyến
đường giao thông đi vào nhà máy xi măng Tân Thắng, đường Quốc lộ 1A đi thị
xã Thái Hòa, Nghĩa Đàn...chuẩn bị khởi công cầu Cửa Hội, dự án Vinggroup,
Tập đoàn Becamex, Massan, Samsung, BSE, Vinamilk, TH, Nhựa tiền phong,
Nguyễn Kim, Xi măng The Vissai...Đến tháng 16/5/2016 đã cấp mới giấy chứng
nhân đầu tư cho 34 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 19.091,94 tỷ đồng.
Sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp phát triển và tăng trưởng khá: Tổng sản
lượng lương thực đạt trên 1,2 triệu tấn/năm, độ che phủ rừng đạt 55%, nhiều cơ
sở nuôi trồng thủy sản được đầu tư xây dựng và kinh doanh có hiệu quả.
(2) Đoàn kết góp phần thúc đẩy văn hóa - xã hội phát triển:
- Giáo dục đào tạo tiếp tục phát triển, đến nay trên địa bàn tỉnh có 06
trường đại học, 10 trường cao đẳng và 14 trường trung cấp chuyên nghiệp và
trung cấp nghề. 21/21 huyện, thành, thị hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non,
chất lượng phổ cập tiểu học, THCS được nâng cao; tỷ lệ học sinh giỏi quốc gia,
khu vực và quốc tế và học sinh đậu đại học đứng tốp đầu cả nước; có 950 trường
đạt chuẩn quốc gia (62,45%).
- Hoạt động văn hóa, nghệ thuật diễn ra sôi nổi; dân ca ví dặm Nghệ Tĩnh
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện cả nhân loại...
- Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, dân số, gia đình trẻ em có nhiều
tiến bộ; đến nay trên địa bàn tỉnh có 38 bệnh viên công lập và ngoài công lập,
đạt tỷ lệ 25 giường bệnh và 7 bác sỹ/1 vạn dân; không để xảy ra dịch bệnh trên
địa bàn; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 17,8%.

- Tỷ lệ đói nghèo năm 2015 còn 7,5% (hàng năm bình quân giảm 3,07%).
Xuất khẩu lao động 51.000 người trong nhiệm kỳ.
- Phong trào xây dựng làng, bản, khối xóm, cơ quan, đơn vị và gia đình
văn hóa được triển khai đồng bộ, đều khắp và được nhân dân đồng tình hưởng
ứng.
+ Có 3.368/5.898 làng văn hóa (chiếm 57%).
+ Có 119 cơ quan đạt đơn vị văn hóa.
+ Có 505 dòng họ được UBND các cấp công nhân dòng họ văn hóa.
+ Có 579.642/737.125 gia đình được công nhận gia đình văn hóa, chiếm
24


tỷ lệ 82%.
- Việc cưới, việc tang trên địa bàn tỉnh nhìn chung đã thực hiện nghiêm
túc các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật về đăng ký và
quản lý hộ tịch. Quy định về thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc
tang được các địa phương quan tâm đưa vào hương ước, quy ước của làng, bản
để thực hiện. Do đó cơ bản các đám cưới đều thực hiện tiết kiệm, không mở
nhạc quá 22 giờ đêm; việc tang được thực hiện theo đúng thuần phong, tập quán
tốt của các địa phương, đảm bảo vệ sinh môi trường. Một số huyện đã xây dựng
được mô hình cưới theo nếp sống văn hóa, tổ chức tại nhà văn hóa xã như Nghĩa
Đàn, Diễn Châu, Thái Hòa, Quỳnh Lưu.
- Các lễ hội tại Nghệ An được quan tâm chỉ đạo, thu hút được đông đảo
người dân tham gia, như lễ hội du lịch biển Cửa Lò, lễ hội Vua Mai, lễ hội đền
Vạn Lộc, lễ hội Đền Cờn, lễ hội đền Bạch Mã... Cơ bản việc tổ chức lễ hội được
thực hiện đúng quy định, thực hiện theo nếp sống văn minh, từng bước hạn chế
tiêu cực.
(3) Đoàn kết để củng cố quốc phòng, an ninh trên địa bàn:
- Quốc phòng an ninh luôn được đảm bảo, xây dựng thế trận quốc phòng
toàn dân và thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Giữ vững an ninh chính trị, trật

tự an toàn xã hội, an ninh các vùng đặc thù, xung yếu, đảm bảo an toàn các mục
tiêu trọng điểm, các hoạt động chính trị xã hội quan trọng diễn ra trên địa bàn
tỉnh. Đấu tranh ngăn chặn và xử lý có hiệu quả các hoạt động của tổ chức, đối
tượng phản động, cơ hội chính trị, cực đoan, chống đối, không để hình thành và
công khai hoạt động của các tổ chức chính trị đối lập, không để xảy ra hoạt động
khủng bố, phá hoại, bạo loạn phức tạp trên địa bàn. Giữ vững ổn định chính trị,
góp phần tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
- Đoàn kết để chống lại âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch trên địa
bàn: Các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, chia rẽ
giữa các dân tộc anh em, chống phá Đảng, chính quyền, trong đó có "Tây Nghệ
An". Nhưng nhân dân các dân tộc ở Nghệ An đã không nghe kẻ xấu, thường
xuyên cung cấp thông tin cho công an, biên phòng, chính quyền cơ sở để phá tan
các âm mưu của các thế lực thù địch. Do đó tình hình miền Tây Nghệ An luôn
ổn định, 419km biên giới Việt - Lào yên, nhân dân 2 bên biên giới Việt - Lào
đoàn kết, tin tưởng lẫn nhau (kết nghĩa giữa bản, cụm bản biên giới 2 bên tốt).
- Góp phần ngăn chặn, chống truyền đạo trái phép lên miền núi, dân tộc.
Trong những năm gần đây chủ trương của giáo hội là phát triển đạo lên miền
Tây Nghệ An, do đó họ dùng mọi biện pháp để truyền đạo lên vùng đồng bào
dân tộc thiểu số. Ở phía Tây lấy địa bàn huyện Con Cuông để xây dựng trung
tâm sau đó truyền đạo lên Tương Dương, Kỳ Sơn; Ở phía Tây - Bắc lấy huyện
Quỳ Châu làm trung tâm để truyền đạo lên Quế Phong, xuống Quỳ Hợp. Tuy
nhiên, nhân dân các dân tộc đã không nghe theo và chống lại vì bà con cho rằng
từ xưa tới nay đồng bào các dân tộc thiểu số đã có bản sắc văn hóa riêng rồi
không cần phải có tôn giáo nữa; do đó đã hạn chế và đẩy lùi việc truyền đạo lên
miền núi.
Tóm lại, trong thời gian qua ở Nghệ An đã vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết vào địa bàn một cách sáng tạo, có hiệu quả; cấp ủy, chính
25



×