Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Giáo trình ngư loại phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.51 MB, 95 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN

GIÁO TRÌNH

NGƯ LOẠI I
MÃ SỐ: TS. 310

Biên soạn: Thạc sĩ NGUYỄN BẠCH LOAN

NĂM 2003

3


PHẦN I. HÌNH THÁI GIẢI PHẨU CÁ
Chương I. MỞ ĐẦU
I.

Đối tượng & phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của môn học Ngư loại I là cá, một trong những động vật có

giá trị kinh tế cao. Cá là những động vật:
-

Có xương sống (dây sống)

-

Biến nhiệt



-

Di chuyển và giữ thăng bằng bằng vi (vây)

-

Hầu hết thở bằng mang. Ngoài ra, cũng có một số loài cá có thể thở

bằng mang lẫn cơ quan hô hấp khí trời.
-

Cả vòng đời hoặc phần lớn vòng đời của đối tượng này phải sống

trong môi trường nước.
2. Phạm vi nghiên cứu
Ngư loại I là một môn học thuộc bộ môn sinh vật học nói chung và động vật học nói
riêng. Ngư loại I nghiên cứu ở hai lãnh vực: Hình thái cấu tạo và phân loại cá.
* Hình thái cấu tạo
loài cá.

Nghiên cứu về hình dạng cơ thể của các giống loài cá;
Khảo sát mối quan hệ giữa hình dạng cơ thể và tập tính sống của các

-

Quan sát hình thái cấu tạo của các cơ quan bên trong và bên ngoài cơ

thể cá;


- Nghiên cứu mối quan hệ giữa hình thái - cấu tạo của các cơ quan và

chức năng do các cơ quan này đảm nhận.
* Phân loại cá
-

Quan sát những điểm giống và khác nhau về hình dạng, cấu tạo của

toàn thân và các cơ quan trên cơ thể cá.
-

Dựa trên kết quả quan sát trên để xác lập mối quan hệ họ hàng giữa

các giống loài cá.
- Sau đó, hệ thống hoá mối quan hệ này bằng các cấp phân loại từ thấp
đến cao.
4


II.

Lịch sử phát triển

1.

Trên thế giới
*

Thời kỳ thứ nhất: Từ thời xa xưa, đánh bắt cá là một trong hai hoạt động quan


trọng trong đời sống con người. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng nghiê cứu về ngư loại
học có tính chất khoa học được bắt đầu từ Aristote (384 - 322 trước Công nguyên). Trong
quyển sách Historia animalum ông đã trình bày kết quả nghiên cứu về 115 loài cá và xếp
chúng vào 2 cấp phân loại là Lidos và Genos. Bên cạnh đó, quyển sách này còn cung cấp
thêm những dẫn liệu về nơi ở, di cư, sinh sản của các loài cá này.
*

Thời kỳ thứ hai (Thế kỷ XVII - thế kỷ XIX ): Ngư loại học bắt đầu được tích

luỷ nhiều dẫn liệu khác nhau nhất là những dẫn liệu về phân loại, địa lý phân bố và khu hệ
các loài cá ở các vùng nước khác nhau. Nhiều sách về phân loại cá của: P. Artedi (1705 1734); C. Linneaus (1707 - 1778); G. Cuver và A. Valeciennes (1828 - 1848); P. Bleeker
(1819 - 1878); A.Gunther (1830 - 1914) ... cho đến nay vẫn rất có giá trị.
Trong quyển Systema nature (1735), C. Linneaus sử dụng cách gọi tên cá bằng hai
từ la tinh (Pangasius bocourti), giới thiệu 2600 loài cá và xếp chúng vào một hệ thống
phân loại khá hoàn chỉnh gồm 5 cấp phân loại: Lớp, Bộ, Họ, Giống và Loài.
Ngoài những nghiên cứu chính về phân loại học, những nhgiên cứu về khu hệ, sinh
thái và sinh lý cá cũng đựợc tiến hành trong thời kỳ này.
*

Thời kỳ thứ ba (thế kỹ XX - nay): Những nghiên cứu về Ngư loại học đã tăng

lên rất nhanh và toàn diện hơn như: Cổ sinh học, Phân loại học, Tổ chức học, Sinh lý,
Sinh thái, Giải phẩu cá...
Thời kỳ này được đánh dấu bằng việc xuất hiện nhiều sách giáo khoa về ngư loại học,
nhiều tạp chí xuất bản định kỳ chuyên nghiên cứu về ngư loại học, nhiều hội nghị khoa
học về cá.
2.

Trong nước: Có thể chia làm 4 thời kỳ như sau
*


Thời kỳ phong kiến (trước 1884): Những hiểu biết về đời sống của các loài

cá, nghề nuôi cá, nghề khai thác và chế biến cá, nghề làm nước mắm... đươc ghi chép
trong các sách sử học và kinh tế học thời phong kiến.
*

Thời kỳ Pháp thuộc: Các hiểu biết về cá ở thời kỳ này đã mang tính chất khoa

học. Các nghiên cứu về cá chủ yếu do người Pháp tiến hành. Hầu hết các nghiên cứu này
tập trung vào lãnh vực hình thái phân loại, khu hệ cá và phân bố địa lý của các loài cá.
5


Trong thời gian này, các công trình nghiên cứu phục vụ cho sự phát triển của nghề nuôi
chưa có và các cán bộ khoa học người Việt Nam cũng chưa được tham gia vào các công
trình nghiên cứu.
*

Thời kỳ sau hoà bình 1954
-

Miền Bắc: Các nghiên cứu về Ngư loại học chủ yếu do các cán bộ khoa học

Việt Nam tiến hành. Nhiều công trình đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển
của nghề nuôi và khai thác cá.
*

Miền Nam: Chỉ có một vài nghiên cứu nhỏ về khu hệ cá.
Thời kỳ sau 1975 - nay


Những nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về cá được tiến hành trên cả nước đã góp
phần giúp Thủy sản chiếm một vị trí khá quan trọng nền kinh tế quốc dân.

Chương II

HÌNH DẠNG & CÁC CƠ QUAN BÊN NGOÀI CƠ THỂ CÁ
I. Hình dạng cơ thể cá
Hiện nay trên thế giới đã có hơn 20.000 loài cá đã được định danh nên hình dạng cơ
thể của các loài cá cũng rất phong phú và đa dạng. Vì vậy, để dễ dàng cho việc nhận dạng
và mô tả các loài cá, người ta đã dựa trên 3 trục chính trên cơ thể là trục đầu - đuôi, trục
lưng - bụng và trục phải - trái cá để xếp chúng vào 4 nhóm chính và một nhóm đặc biệt
như sau:
1. Dạng thủy lôi, hình thoi dài
Cơ thể những loài cá dạng thủy lôi có trục đầu - đuôi dài nhất, trục phải - trái và trục
- lưng bụng tương đương nhau; Những loài cá cơ thể thuộc dạng này thường có đầu nhọn,
đuôi thon nên chúng bơi lội nhanh nhẹn và chiếm tỉ lệ cao ở các thủy vực, các tầng nước.
Những loài cá dữ, cá có tập tính di cư cơ thể thường có dạng này ví dụ như cá lóc, cá
lóc bông, cá bống tượng, cá hú, cá thu, cá ngừ...
2. Dạng dẹp bên
Cơ thể của các loài cá dạng dẹp bên có trục phải - trái ngắn nhất, trục đầu - đuôi và trục
lưng - bụng tương đương nhau. Bọn cá này thường bơi lội chậm chạp nên thường sống ở
6


các thủy vực nước tĩnh hoặc nước chảy yếu như : Đầm, hồ, ao, hạ lưu các sông. Ví dụ
như: Cá he vàng, cá sặc, cá nâu, cá chim,...
3. Dạng dẹp bằng
Cơ thể cá dạng dẹp bằng có trục lưng - bụng ngắn nhất, trục đầu - đuôi và trục - trái phải
tương đương nhau. các loài cá này bơi lội chậm chạp và thường sống ở tầng đáy của các

thủy vực ví dụ như cá đuối, cá chai,...
4. Dạng ống dài
Các loài cá này cơ thể có trục đầu - đuôi rất dài, trục lưng - bụng và trục phải - trái
ngắn hoặc tương đương nhau. Hầu hết có tập tính sống chui rúc trong bụi rậm, hang nên
các vi kém phát triển, bơi lội chậm chạp như lươn, cá bống kèo, cá chình, ... Bên cạnh đó,
cũng có một số loài sống ở tầng mặt của các thủy vực như cá lìm kìm, cá nhái.

A

7


B

C

Hình 1A và B. Cá có cơ thể dạng thủy lôi (Cá nhám, cá bốp)
C. Cá có cơ thể dạng dẹp bên (Cá móm)

A

8


B

C

Hình 2. A. Cá có cơ thể dạng dẹp bằng (Cá đuối)
B. Cá có cơ thể dạng ống dài (Cá lìm kìm)

C. Cá có cơ thể dạng đặc biệt (cá lưỡi hùm)
5. Dạng đặc biệt
-

Cá bơn: Sống đáy thường nằm sát mặt đáy thủy vực nên hai mắt kém phát

triển, và bị lệch về một bên.
-

Cá nóc hòm có bộ giáp do các vẩy gắn lại với nhau để chịu đựng áp suất cao

ở đáy biển sâu

B. CÁC CƠ QUAN BÊN NGOÀI CƠ THỂ CÁ
I. Các cơ quan ở phần đầu
9


Các cơ quan ở phần đầu thường nằm sát 2 bên hoặc ẩn sâu vào xương đầu; Có thể
kể như: Miệng, râu, mũi, mắt, mang...
1.

Miệng
Hình dạng cấu tạo, vị trí và kích thước của miệng thay đổi theo tập tính của từng

loài.
* Hình dạng miệng:
- Miệng tròn, dạng giác bám: Cá bám
- Miệng nhọn, dài dạng mũi kiếm: Cá đao, cá nhái
- Miệng thon dài dạng ống hút: Cá ngựa, cá lìm kìm cây, cá chìa vôi

* Vị trí miệng: Dựa vào chiều dài xương hàm trên và xương hàm dưới để xếp
miệng cá vào 3 dạng :
- Cá miệng trên: Chiều dài xương hàm trên nhỏ hơn chiều dài xương hàm dưới ví
dụ như cá thiểu, cá lành canh, cá mè trắng, ...
- Cá miệng giữa: Rạch miệng nằm ngang, chiều dài xương hàm trên tương đương
với chiều dài xương hàm dưới. Ví dụ như cá tra, cá chim.
- Cá miệng dưới: Rạch miệng hướng xuống, chiều dài hàm trên chiều dài lớn hơn
chiều dài xương hàm dưới. Ví dụ như cá trôi, cá hú.
* Kích thước miệng :
- Cá miệng rộng như: Cá mào gà, cá lóc, cá nhám, ...
- Cá miệng hẹp như: Cá sặc rằn, cá linh, cá heo,...

10


A

Miệng

Nắp và ỗl mang

Mũi

Đường bên

Mắt

Viưng
l


Vi ậu
h môn
Vi mỡ

Lỗ niệu sinh dục
Lỗ hậu môn
Râu

11

Viđuôi


Vi bụng

Hinh 3. A. Cá có cơ thể dạng đặc biệt (Cá nóc)
B. Các cơ quan bên ngoài cơ thể cá

2.

Mũi
-

Cá miệng tròn chỉ có một đôi lỗ mũi.

-

Cá sụn và cá xương thường có hai đôi lỗ mũi nằm hai bên đầu của cá .

Đôi lỗ mũi trước thường thông với đôi lỗ mũi sau.

3.

Râu
Số lượng và chiều dài của râu khác nhau tùy loài cá. Các loài cá sống và kiếm ăn

tầng đáy thường có râu phát triển (cả về số lượng lẫn chiều dài). Cá thường cá có bốn đôi
râu và được gọi tên theo vị trí của chúng như sau:
- Râu mũi: Một đôi nằm kề bên đôi lỗ mũi trước.
- Râu mép: Một đôi nằm hai bên mép. Đây là đôi râu dài nhất.
- Râu càm: Một đôi nằm ở dưới càm.
- Râu hàm: Một đôi nằm kế đôi râu mép.
4.

Mắt

Cá thường có hai mắt nằm ở phần đầu của cá. Vị trí hình dạng và chức năng của mắt
cũng thay đổi theo tập tính sống của từng loài cá.
-

Cá sống tầng mặt: Mắt thường to và nằm ở hai bên nửa trên của đầu. Ví dụ: Mắt cá

trích, cá mè, cá he.
-

Cá sống chui rúc hoặc sống ở tầng đáy: Mắt thường kém phát triển hoặc thoái hóa.

Ví dụ: Lươn, cá trê, cá lưỡi mèo.
-

Cá sống vùng triều: Mắt thường nằm trên hai cuống ở đỉnh đầu. Ví dụ: Cá thòi lòi,


cá bống sao, cá bống kèo.
5.

Khe mang (lỗ mang)

-

Cá miệng tròn: Có 7 - 14 đôi lỗ mang hình tròn hoặc bầu dục nằm hai bên đầu.
12


Các lỗ mang không có nắp mang.
-

Cá sụn: Có 5 - 7 đôi khe mang nằm ở mặt bụng hoặc hai bên đầu cá tùy theo loài. Ở
cá sụn các khe mang hẹp, dài và được che chở bởi nắp mang giả do vách ngăn mang kéo
dài ra tạo thành.

-

Cá xương: Có 4 - 5 đôi khe mang nằm trong khe mang và thông ra ngoài bằng 1 - 2
đôi lỗ mang nằm ở hai bên đầu cá. Ở cá xương các lỗ mang rộng và được che chở bởi
hai nắp mang bằng xương.

6.

Lỗ phun nước
Lỗ phun nước chỉ có ở cá sụn, nằm ở phía trước các khe mang.


I. Các cơ quan ở phần thân và đuôi
1.

Vây (vi)
Vây là cơ quan di chuyển và giữ thăng bằng của cá. Cấu tạo của vây cá gồm 3 phần:
*

Màng da: Nằm ở ngoài cùng. Nhiệm vụ của màng da là bao quanh và nối các

tia vây với nhau.
*

Tia vây: Dựa vào hình dạng cấu tạo có thể chia các tia vây làm 4 loại:

-

Gai cứng: Là loại tia vây hoá xương hoàn toàn, không phân đốt, không phân

nhánh, có cấu trúc đơn.
-

Gai mềm (gai giả): Là loại tia vây hoá xương chưa hoàn toàn, không phân

đốt, không phân nhánh, có cấu trúc đôi.
-

Tia mềm không phân nhánh (tia đơn): Là loại tia vây có phân đốt, không

phân nhánh, có cấu trúc đôi.
-


Tia mềm phân nhánh: Là loại tia vây có phân đốt, phân nhánh và cấu trúc

*

Cơ gốc vây: Nằm ở gốc các vây. Các cơ nầy phối hợp với các tia vây giúp cá

đôi.
bơi lội và giữ thăng bằng.
2.

Cơ quan đường bên

Cơ quan đường bên thường nằm ở hai bên thân cá. Đây là một trong những cơ quan cảm
giác của cá.
3.

Lỗ hậu môn

13


Lỗ hậu môn nằm ở mặt bụng của cá, phía trước lỗ sinh dục. Đây là cơ quan bài tiết các
chất thải trong quá trình tiêu hoá của cơ thể cá.
4.

Lỗ sinh dục

Lỗ sinh dục nằm ở mặt bụng của cá, phía trước gốc vi hậu môn. Lỗ sinh dục là nơi cá
phóng trứng hoặc cá con ra môi trường ngoài.


Chương III

DA & SẢN PHẨM CỦA DA
A. DA
I.

Nhiệm vụ của da

- Chống mầm bệnh
- Tham gia quá trình hô hấp và bài tiết
- Tham gia điều hòa áp suất thẩm thấu của máu cá.
- Tạo ra các sản phẩm của da: Tuyến đơn bào, tuyến đa bào, tuyến độc, vẩy, cơ quan phát
sáng...
II.

Cấu trúc của da

1.

Biểu bì

Được tạo thành bởi nhiều tế bào hình bọt. Số lượng các tế bào biểu bì thay đổi theo loài,
lứa tuổi, vị trí trên cơ thể cá. Biểu bì thường mềm và mỏng. Tuy nhiên biểu bì của da cá
có thể hóa sừng từng bộ phận trong một thời gian (biểu bì gốc vi ngực của cá mè trắng bị
hoá sừng trong mùa sinh sản) hoặc suốt đời (biểu bì của môi cá ăn rong, rêu bám trên đá
bị hoá sừng suốt đời). Trong cùng của lớp biểu bì là tầng sinh trưởng.
2.




- Bì nằm bên dưới lớp biểu bì. Bì được tạo thành bởi các mô liên kết nên khá dai. Bên
trong lớp bì có nhiều mạch máu và dây thần kinh phân bố. Dưới cùng của lớp bì có nhiều
mô mỡ tích lũy. Đây là nơi tạo ra vẩy của cá.

14


B. CÁC SẢN PHẨM CỦA DA
1. Tuyến dịch nhờn
Tuyến dịch nhờn của cá có dạng hình ống. Các tuyến này phân bố rải rác giữa các tế bào
biểu bì. Nhiệm vụ của tuyến dịch nhờn là:
-

Tiết ra dịch nhờn làm trơn bề mặt cơ thể, lắp đầy các chổ lõm trên cơ

thể nhằm làm giảm ma sát khi cá di chuyển.
-

Tiết ra dịch nhờn làm trơn bề mặt cơ thể, lắp đầy các chổ lõm trên cơ

thể nhằm làm giảm ma sát khi cá di chuyển.
-

Tham gia điều hoà áp suất thẩm thấu.

-

Bảo vệ cơ thể chống sự xâm nhập của các mầm bệnh.


Tế bào sắc tố Tuyến dịch nhầy

Gai vẩy

Vẩy
Biểu bì
Hạ bì
Vẩy
A
Mô Mô liên kết
Tế bào sắc tố
T
Vách cơ
Mạch máu

15




Tế bào sắc tố

B

Hình 4 A. Cấu trúc của da cá. B. Tế bào sắc tố của cá
(Theo Largler K. F. et all, 1977)
2.

Tuyến độc
- Tuyến độc do các tế bào biểu bì biến đổi thành.

- Phân bố rải rác ở gốc các gai vi, gai xương nắp mang.
- Chất độc sau khi được tuyến độc tiết ra được tích trữ ở gốc các gai và
được phóng ra khỏi các gai để tự vệ và bắt mồi.

3.

Cơ quan phát sáng

Cơ quan phát sáng của cá được hình thành bởi những vi sinh vật sống ký sinh trên cá
hoặc do các tế bào biểu bì của da cá biến đổi thành. Cơ quan phát sáng do tế bào biểu bì
của da cá biến đổi thành có thể là tuyến đơn bào hoặc tuyến đa bào. Nếu là tuyến đa bào
chúng gồm các phần như: Tế bào tuyến, tế bào thủy tinh thể, tầng sắc tố, tầng phản quang.
4.

Tế bào sắc tố và màu sắc của cá
*

-

Tế bào sắc tố

Dạng hình sao.
16


-

Các tế bào sắc tố được gọi tên theo màu sắc của chúng. Ví dụ: Tế bào sắc tố vàng
được gọi là Xanthophyl, tế bào sắc tố đen được gọi là Melathophyl.


-

Phân bố ở chân bì của da và màng bảo vệ của xoang nội quan, xoang bao tim, cơ
quan phát sáng.
*

Màu sắc của cá: Giúp cá thích nghi, hoà lẫn với môi trường sống để dễ dàng

trong việc tự vệ và bắt mồi. Ví dụ:
- Cá sống tầng mặt: Lưng thường có màu xanh.
- Cá sống tầng đáy: Lưng thường có màu xám, xám đen.
- Cá sống ở các thủy vực có nhiều rong rêu, cây cỏ thủy sinh: Lưng thường có
màu xanh rêu.
5.

Vẩy

Dựa vào nguồn gốc phát sinh và cấu tạo, vẩy cá được chia làm 3 loại là vẩy tấm, vẩy láng
và vẩy xương.
*.Vẩy láng: Chỉ có ở cá cổ và cá hóa thạch.
*

Vẩy tấm: Có ở cá đuối và cá nhám.

*

Vẩy xương: Có ở cá xương.
Phần bên trên của vẩy

Phần trước của vẩy


P

Tâm vẩy

Phần sau của vẩy

Gai vẩy
Tế bào sắc tố

Rãnh xuyên tâm

Rãnh đồng tâm
(Vân tăng trưởng)

Vòng tuổi
Phần bên dưới của vẩy
Hình 5. Vẩy của cá xương (Theo Largler K. F. et all, 1977)
17


• Hình dạng cấu tạo: Một vẩy thường được chia làm 4 phần:
- Phần trước: Cắm vào da, có nhiều rãnh đồng tâm và xuyên tâm
- Phần sau: Lộ ra ngoài, hướng về phía sau, có nhiều tế bào sắc tố phân bố, đôi
khi có gai ở rìa sau của vẩy. Trong phân loại cá, có thể dựa vào phần sau của vẩy
để chia vẩy xương làm 2 loại là: Vẩy tròn và vẩy lược.
- Phần bên trên và phần bên dưới có nhiều rãnh đồng tâm.
Hình dạng cấu tạo của một vẩy đường bên ngoài 4 phần trên còn có thêm ống cảm
giác nằm ở mặt trên của phần sau vẩy.
• Ý nghĩa của vẩy xương

Trong nghiên cứu về phân loại cá, số lượng vẩy đường bên (vẩy đường dọc), vẩy
trên đường bên, vẩy quanh cuống đuôi, …là những chỉ tiêu thường được dùng để xác định
các giống, loài.
Trong nghiên cứu về sinh học, các vân tăng trưởng của vẩy cá (còn gọi là rãnh đồng tâm)
được ứng dụng trong nghiên cứu về dinh dưỡng và tăng trưởng của cá,

Trong sản xuất,

vẩy cá là nguyên liệu dùng trong sản xuất keo, phim ảnh, dùng trong công nghiệp dệt.
Chương IV

BỘ XƯƠNG CÁ
I.

Một số khái niệm
*

Dây sống: Là sợi dây nhỏ có 2 đầu nhọn hoặc bằng, có tính đàn hồi
- Bên ngoài được bao bằng lớp bao liên kết dầy
- Bên trong chứa chất dịch dạng keo

*

Xương sống: Là trục chính nâng đỡ cơ thể cá. Xương sống được tạo thành

bởi nhiều đốt sống nối với nhau bằng các mấu khớp và mô liên kết.

II.

*


Sụn: Dạng keo, chứa nhiều nước nên kém cứng chắc hơn xương cá.

*

Xương: Cứng chắc do chứa nhiều muối khoáng và chứa ít nước.

Bộ xương cá

- Là bộ khung giúp cá ổn định hình dạng cơ thể và bảo vệ các cơ quan quan trọng của cơ
thể cá. Dựa vào vị trí và cách sắp xếp có thể chia bộ xương cá thành 2 phần:
*

Xương trục chính: Gồm có xương sọ, xương sống, xương sườn và xương

dăm.
18


*

Xương chi: Gồm có xương đai vai, đai hông và các tia vi.

1. Xương trục

chính
a. Xương sọ

-


Sọ não: Quá trình phát sinh của sọ não cá trãi qua 4 giai đoạn

Giai đoạn hình thành tấm cơ sở: Khi dây sống xuất hiện và hoàn chỉnh, não

nguyên thủy phình to và phân hoá, dưới não xuất hiện 2 đôi tấm sụn (đôi tấm sụn trước
dây sống và đôi tấm sụn bên dây sống). Cùng lúc đó, xung quanh 3 đôi gíác quan cũng
hình thành 3 đôi túi sụn là đôi túi sụn mắt, đôi túi sụn mũi và đôi túi sụn tai.
-

Giai đoạn kết hợp: Đôi tấm sụn trước dây sống, đôi tấm sụn bên dây sống

cùng phát triển và gắn liền nhau hình thành đáy sọ não gọi là tấm nền. Sau đó, đôi túi
sụn mũi và đôi túi sụn tai cũng gắn vào tấm sụn nền. Chỉ riêng đôi túi sụn mắt là không
gắn vào tấm nền và đôi túi sụn này sẽ về sau sẽ trở thành màng cứng của mắt cá.
-

Giai đoạn phát triển lên trên của tấm nền đáy: Ở giai đoạn này, phần sau và

hai phần bên của tấm sụn nền sẽ phát triển lên trên rất nhanh để tạo nên một hộp sọ
không có nắp.

A

A

19


Xương lá mía
Xương mũi

Xương khứu giác giữa
Xương trán
Xương sau trán
Xương cánh tay
Xương chẩm trên

B

Xương đỉnh
Xương vẩy
Xương thái dương
Xương chẩm bên
Xương chẩm bên

Hình 6A. Quá trình hình thành xương sọ não của cá
B. Xương sọ não của cá xương (Theo Trương Thủ Khoa, 1984)
- Giai đoạn phủ trùm: Phần bên của hộp sọ phát triển theo bề ngang tạo thành nắp đậy
hộp sọ có nhiều lỗ trống để các dây thần kinh não bộ đi ra ngoài.
*

Sọ hầu: Thường gồm có 7 đôi


Một đôi cung hàm: Gồm có hàm trên và hàm dưới
- Hàm trên: Có hai xương trước hàm và hai xương hàm trên.
- Hàm dưới: Có hai xương khớp và hai xương răng



Một đôi cung lưỡi: Gồm có xương đuôi lưỡi, xương gốc lưỡi, hai


xương dưới lưỡi, hai xương góc lưỡi và hai xương giang lưỡi nối với các tia màng
mang.


Năm đôi cung mang: Mỗi cung mang có 5 loại xương là xương gốc

mang, xương dưới mang (hai), xương góc mang (hai), xương trên mang và xương
hầu mang
20


(hai).
b. Xương sống: Do nhiều đốt sống nối với nhau bằng các mấu khớp và các mô liên kết.
Cấu tạo của một đốt sống thường gồm có 3 phần:
-

Thân sống: Hình trụ với 2 mặt lõm. Trên tiết diện ngang của thân sống có nhiều

vòng tròn đồng tâm lồng vào nhau.
-

Cung thần kinh: Nằm bên trên thân sống, bao bọc lấy tủy sống. Bên trên cung thần

kinh có gai thần kinh.
-

Cung huyết: Nằm bên dưới thân sống, bao bọc lấy mạch máu vùng bụng . Bên dưới

cung huyết có gai huyết. Riêng các đốt sống bụng thường không có gai huyết mà chỉ có

mấu huyết.
c. Xương sườn: Có 2 loại là xương sườn lưng và xương sườn bụng
d. Xương dăm: là những xưng nhỏ phân bố rãi rác trong các bó cơ.
2. Xương chi
a. Xương vi chẳn
*

Vi ngực: Gồm có đai vi ngực và vi ngực
- Đai vi ngực: Có hai xương vẩy, hai xương thái dương, hai xương trên đòn, hai
xương đòn, hai xương mỏ quạ và hai xương bả vai.
- Vi ngực: Gồm có xương gốc vi và các tia vi.

*

Vi bụng: Cũng gồm có xương đai hông và vi bụng
- Đai hông: Gồm có 2 xương cánh gốc nằm cạnh nhau ở mặt bụng của cá.
- Vi bụng: Chỉ có các tia vi bụng gắn trực tiếp vào xương cánh gốc.

21


Hình 7A. Xương sọ hầu của cá xương (Theo Trương Thủ Khoa, 1984)
B. Xương sống của cá xương (Theo Largler K. F. et all, 1977)
b. Xương vi lẻ
22


*

Vi lưng và vi hậu môn: Có cấu tạo khá giống nhau, gồm có các xương nâng vi


nằm bên trong cơ thể và các tia vi nằm bên ngoài cơ thể cá.
*

Vi đuôi: Dựa vào hình dạng cấu tạo có xếp vi đuôi cá vào 3 dạng:
- Dạng nguyên thủy: Đoạn cuối của xương sống đi vào giữa vi đuôi, các tia vi

đuôi gắn trực tiếp vào các đốt sống.
- Dạng dị hình: Vi đuôi chia làm 2 phần không bằng nhau. Đoạn cuối của xương
sống đi vào thùy vi đuôi lớn. Các tia vi đuôi cũng gắn trực tiếp vào các đốt
sống.
- Dạng đồng hình: Vi đuôi chia làm 2 phần tương đương nhau. Đoạn cuối của
xương sống không đi vào vi đuôi. Các tia vi đuôi không gắn trực tiếp vào các
đốt sống cuối.

23


Xương đòn

Tia vi ngực

24


D

E

F


Hình 8 A.
Xương đai vi
ngực . B.

Xương đai vi bụng
B. Xương nâng vi, tia vi lưng,vi hậu môn của cá xương & cá sụn
(Theo Trương Thủ Khoa, 1984)
C. Vi đuôi cá miệng tròn (Theo Amaoka et all, 1994).
E.Vi đuôi cá sụn. F. Vi đuôi cá xương

Chương V

HỆ CƠ
Nhiệm vụ của hệ cơ là phối hợp với các xương, hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác để
giúp cơ thể cá có thể hoạt động nhịp nhàng, hữu hiệu trong cuộc sống.
I. Các loại cơ
1.

Một số khái niệm về cơ
Cơ thường chiếm phần lớn trọng lượng của cơ thể cá. Cơ cá (còn gọi là thịt cá)

chứa nhiều protid, lipid, vitamin, muối khoáng. Đây là loại cơ dễ tiêu hoá và hấp thu nên
cá là một trong những loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng và thương phẩm cao, rất tốt cho
sức khỏe của con người.
Cơ cá chỉ hoạt động trong một giới hạn nhiệt độ nhất định. Vì vậy, khi nhiệt độ môi
trường vượt quá giới hạn phù hợp thì cơ cá sẽ ngừng hoạt động.
25



Đơn vị của cơ cá là tế bào cơ: Tế bào cơ có dạng thon, dài, tế bào chất biến thành những
sợi mảnh, dài, có tính đàn hồi nên được gọi là sợi cơ. Đặc tính nổi bậc của cơ là khi bị
kích thích chúng cùng co, giãn về một hướng đồng nhất.
2.

Các loại cơ

Cơ thể cá cũng có 3 loại tế bào cơ giống như các động vật bậc cao là: Cơ trơn, cơ vân và
cơ tim.
* Cơ trơn
Tế bào cơ trơn có dạng hình thoi, ngắn, thô. Một tế bào cơ trơn chỉ có một nhân. Cơ trơn
chịu sự điều khiển của thần kinh giao cảm nên cơ trơn phản ứng chậm chạp, nhịp nhàng.
Chúng thường phân bố ở vách của ống tiêu hoá (dạ dày, ruột), các mạch máu, cơ quan bài
tiết và cơ quan sinh dục.
* Cơ vân
Tế bào cơ vân có dạng hình thoi, thon, dài. Một tế bào cơ vân có nhiều nhân do nhân
phân phân cắt nhanh hơn tế bào. Khi quan sát dưới kính hiển vi sẽ thấy tế bào chất của
các tế bào cơ vân có những đoạn đậm nhạt kế tiếp nhau do độ phản quang không đồng
nhất. Cơ vân chịu sự điều khiển của thần kinh trung ương.nên cơ vân phản ứng nhanh
nhẹn. Cơ vân phân bố ở hai bên vách thân, mang, vách thực quản nên cơ vân thường
chiếm tỉ lệ cao trong trọng lượng cơ thể cá .

26


A

B

C


Đốt cơ thân
Vách cơ

Đốt cơ đuôi

Vách ngăn ngang

Hình 9A. Cơ thân của cá miệng tròn.
B. Cơ thân của cá sụn.
C. Cơ thân của cá xương
(Theo Largler K. F. et all, 1977)

* Cơ tim
27


×