Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bài thu hoạch bồi dưỡng CDNN hạng II THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.46 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
1.1.

Lý do tham gia khóa bồi dưỡng
Hiện nay giáo dục phổ thông nước ta đang thực hiện bước chuyển từ

chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học –
từ chỗ quan tâm tới việc học sinh học được gì đến chỗ quan tâm tới việc học
sinh học được cái gì qua việc học. Để thực hiện được điều đó, nhất định phải
thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ
một chiều” sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình
thành năng lực và phẩm chất, đồng thời phải chuyển cách đánh giá kết quả giáo
dục từ nặng về kiểm tra trí nhớ sang kiểm tra, đánh giá năng lực vận dụng kiến
thức giải quyết vấn đề, coi trọng kiểm tra đánh giá kết quả học tập với kiểm tra,
đánh giá trong quá trình học tập để có tác động kịp thời nhắm nâng cao chất
lượng của hoạt động dạy học và giáo dục. Nhằm giúp cho các viên chức nắm
được vai trò và nhiệm vụ của mình một cách đảm bảo hơn. Ngoài những yêu cầu
bắt buộc về trình độ chuyên môn và các yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp cần có
của viên chức thì mỗi viên chức khi được xếp hạng hoặc thăng hạng phải được
bồi dưỡng và cấp chứng chỉ chuẩn chức danh nghề nghiệp mình đang giữ hoặc
muốn thăng hạng. Chính vì lí do đó Bộ giáo dục đã tổ chức mở các lớp bồi
dưỡng chuẩn chức danh nghề nghiệp nhằm tạo điều kiện để giáo viên theo học
nâng cao trình độ và đảm bảo về các loại chứng chỉ cần có khi giữ hạng viên
chức. Trong khóa học bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên
THCS hạng II tôi đã được các thầy, cô giáo truyền đạt tất cả 10 chuyên đề bao
gồm các kiến thức về chính trị, quản lý nhà nước, các kiến thức về kỹ năng nghề
nghiệp chuyên ngành và đạo đức nghề nghiệp. Ngay từ khi bắt đầu tham gia lớp
bồi dưỡng bản thân tôi ý thức rõ được lí do và mục đích theo học lớp học này là:
có hiểu biết đầy đủ kiến thức lý luận về hành chính Nhà nước; nắm vững và vận
dụng tốt đường lối, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực
giáo dục nói chung và giáo dục THCS nói riêng vào thực tiễn công tác giáo dục;


cập nhật được các xu thế, chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay; cập nhật được quan điểm, mục tiêu và các giải pháp đổi mới căn
Trang 1


bản và toàn diện giáo dục và đào tạo các xu hướng và bài kinh nghiệm trong các
hoạt động giáo dục ở các cơ sở giáo dục và chủ động phát triển các năng lực cốt
lõi của người giáo viên; thực hiện nhiệm vụ có tính chuyên nghiệp (quán xuyến,
thành thạo và chuẩn mực) theo vị trí chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS
hạng II, làm nòng cốt cho việc nâng cao chất lượng giáo dục ở cơ sở giáo dục
THCS.
1.2.

Đối tượng nghiên cứu:
Trong những năm qua, toàn thể giáo viên cả nước đã thực hiện nhiều công

việc trong đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá và đã đạt được
những thành công bước đầu. Đây là những tiền đề vô cùng quan trọng để chúng
ta tiến tới việc việc dạy học và kiểm tra, đánh giá theo theo định hướng phát
triển năng lực của người học. Tuy nhiên, từ thực tế giảng dạy của bản thân cũng
như việc đi dự giờ đồng nghiệp tại trường tôi thấy rằng sự sáng tạo trong việc
đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực của học sinh chưa
nhiều. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức. Hoạt động kiểm tra, đánh giá
còn nhiều hạn chế, chú trọng đánh giá cuối kì chưa chú trọng đánh giá cả quá
trình học tập. Vì những lí do trên, tôi thấy chuyên đề 7: “Dạy học theo định
hướng phát triển năng lực học sinh” là chuyên đề mà bản thân thấy ý nghĩa nhất
trong quá trình tham gia lớp bồi dưỡng chức danh nghề nghiệp.
Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người quản lí, giáo
viên giảng dạy trong việc thực thi nhiệm vụ tại đơn vị đang công tác. Với 10
chuyên đề đã giúp cho học viên nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực

tiễn mới trong công tác dạy và học. Qua một thời gian học tập bản thân đã tiếp
thu được nhiều kiến thức bổ ích qua đó mạnh dạn đưa ra một số bài học nhằm
phục vụ cho quá trình công tác sau này tuy nhiên do thời gian hoàn thiện ngắn,
việc nghiên cứu chưa được sâu và kinh nghiệm bản thân có hạn do đó dù đã cố
gắng rất nhiều nhưng bài viết này chắc chắn còn những hạn chế, rất mong được
sự đóng góp ý kiến của Quý thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.

Trang 2


NỘI DUNG
PHẦN 1. KẾT QUẢ THU HOẠCH KHI THAM GIA KHÓA BỒI
DƯỠNG
1. Tổng quan các chuyên đề
1.1 Chuyên đề 1: Lý luận về nhà nước và hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, xuất hiện và tồn tại
cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Đó chính là hoạt động quản lý
gắn liền với hệ thống các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước - bộ phận quan
trọng của quyền lực chính trị trong xã hội, có tính chất cưỡng chế đơn phương
đối với xã hội. Quản lý nhà nước được hiểu trước hết là hoạt động của các cơ
quan nhà nước thực thi quyền lực nhà nước.
Ở nước ta việc quản lí nhà nước thực hiện theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất nguyên tắc Đảng cầm quyền lãnh đạo hành chính nhà nước: Hoạt
động hành chính nhà nước luôn nằm dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền.
Đảng cầm quyền lãnh đạo hành chính nhà nước là để hoạt động của bộ máy
hành chính nhà nước đi đúng đường lối, chủ trương của đảng, phục vụ cho mục
tiêu hiện thực hóa đường lối chính trị của đảng cầm quyền trong xã hội. Do đó,
sự lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với hoạt động hành chính nhà nước là tất
yếu.
Thứ hai là nguyên tắc pháp trị: nguyên tắc pháp trị trong hành chính nhà nước là

xác lập vai trò tối cao của pháp luật, là việc tiến hành các hoạt động hành chính
nhà nước bằng pháp luật và theo pháp luật, lấy pháp luật làm căn cứ để tiến
hành hoạt động công vụ.
Thứ ba nguyên tắc phục vụ: bộ máy hành chính nhà nước là một bộ phận cấu
thành không tách rời của bộ máy nhà nước nói chung nên hoạt động mang đặc
tính chung của bộ máy nhà nước với tư cách là công cụ chuyên chính của giai
cấp cầm quyền. Do đó, khi tiến hành các hoạt động, đặc biệt là các hoạt động
duy trì trật tự xã hội theo các quy định của pháp luật, các quyết định quản lý
hành chính nhà nước tiềm ẩn khả năng cưỡng chế đơn phương của quyền lực
Trang 3


nhà nước và có thể sử dụng các công cụ cưỡng chế của nhà nước (như công an,
nhà tù, tòa án,...) để thực hiện quyết định.
Thứ tư là nguyên tắc hiệu quả: hiệu lực của hoạt động hành chính nhà nước thể
hiện ở mức độ hoàn thành các nhiệm vụ của bộ máy hành chính nhà nước trong
quá trình quản lý xã hội, còn hiệu quả của hoạt động hành chính nhà nước phản ánh
mối tương quan giữa kết quả của hoạt động so với chi phí bỏ ra để đạt kết quả đó.
Ngoài ra nhà nước còn quản lí theo nguyên tắc hoạt động hành chính nhà nước phải
chịu sự giám sát chặt chẽ của công dân và xã hội và nguyên tắc tập trung dân chủ.
Từ thực tiễn công tác và nội dung đã học, bản thân tôi nhận thấy việc quản lí cơ
quan đơn vị phải thực hiện theo các nguyên tắc cụ thể để đảm bảo sự thống nhất
trong các hoạt động và tạo sự hiệu quả cao trong công việc, cụ thể:
Một là nâng cao vai trò của Đảng trong đơn vị công tác qua một số nội dung:
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ, công tác
chuyên môn của đơn vị theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, hoàn thành nghĩa vụ của đơn vị đối với Nhà nước, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Lãnh đạo cán bộ, đảng viên và quần chúng giám sát mọi hoạt động của đơn vị
theo đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đề cao tinh

thần trách nhiệm, phát huy tính chủ động sáng tạo, không ngừng cải tiến lề lối,
phương pháp làm việc, nâng cao hiệu quả công tác, hoàn thành tốt các nhiệm vụ
được giao.
Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở đơn vị, phát huy
quyền làm chủ của cán bộ, đảng viên và quần chúng, đấu tranh chống các biểu
hiện tiêu cực.
Hai là nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện: các kế hoạch, định hướng phát
triển cơ quan do Hiệu trưởng xây dựng trên cơ sở thông qua lấy ý kiến thống
nhất của cán bộ giáo viên nhân viên trong đơn vị, Hiệu trưởng là người đưa ra
những quyết sách thực hiện các công việc trong đơn vị.Trong các hoạt động của
nhà trường luôn công khai minh bạch, giáo viên và các tổ chức trong nhà trường
có quyền giám sát kiểm tra thông qua hoạt động của ban thanh tra nhân dân
Trang 4


trong đơn vị, giáo viên nhân viên có quyền đưa ra ý kiến đóng góp các công việc
chung trong khuôn khổ đúng vai trò trách nhiệm của mình.
Ba là xây dựng quy chế hoạt động của đơn vị đảm bảo: trong mỗi năm học nhà
trường phải tổ chức nghiêm túc Hội nghị công chức, viên chức đầu năm, thông
qua Hội nghị để thông qua quy chế chi tiêu nội bộ. Tập thể giáo viên nhân viên
đóng góp, biểu quyết thông qua quy chế làm việc của cơ quan trong năm học.
Hiệu trưởng căn cứ kết quả của Hội nghị ban hành Quy chế hoạt động của đơn
vị và thực hiện đảm bảo chế độ khen thưởng cá nhân xuất sắc đồng thời kỉ luật
nghiêm cá nhân vi phạm quy chế đã xây dựng, xây dựng vững chắc kỉ cương
của đơn vị.
Bốn là nguyên tắc hiệu quả trong công việc: nhà trường cần xây dựng kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có phẩm chất đạo đức, năng lực công
tác, tinh thần trách nhiệm và tính chuyên nghiệp cao; Đánh giá và phân loại viên
chức bảo đảm đủ năng lực, phẩm chất và uy tín đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt
ra. Đồng thời đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan

liêu; xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị
trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Tăng cường kỷ luật, kỷ cương đối với
cán bộ, công chức, viên chức trong triển khai thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao
trách nhiệm người đứng đầu trong việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương công vụ của
đơn vị. Thực hiện tốt công tác tư tưởng, chính trị nội bộ trong đơn vị. Bên cạnh
đó trong công tác đành giá phân loại giáo viên chú trọng đến hiệu quả thực hiện
nhiệm vụ được giao có chính
sách khen thưởng động viên kịp thời.
1.2 Chuyên đề 2: Chiến lược và chính sách phát triển giáo dục và đào tạo.

Trang 5


Cùng với sự phát triển chung của các lĩnh vực trong toàn xã hội trước tác động
của toàn cầu hóa, lĩnh vực giáo dục chịu ảnh hưởng trực tiếp của các tác động quá
trình trên, do đó nền giáo dục của thế giới đang phát triển theo định hướng:
Thứ nhất giáo dục chú trọng tới việc phát triển năng lực của người học, đặc biệt
là năng lực vận dụng kiến thức vào việc giải quyết các vấn đề trong thực tiễn và
tạo ra năng lực học tập suốt đời.
Thứ hai giáo dục quan tâm đúng mức đến dạy chữ, dạy người và định
hướng nghề nghiệp cho từng đối tượng HS, quán triệt quan điểm tích hợp cao ở
cấp tiểu học và thấp dần ở trung học và phân hoá sâu dần từ tiểu học lên trung
học gắn bó chặt chẽ với định hướng nghề nghiệp trong tương lai.
Thứ ba xu thế đổi mới phương pháp dạy học theo yêu cầu tích cực hóa hoạt
động học tập và phát triển năng lực người học đã tạo ra sự chuyển biến thực sự
trong cách dạy và cách học .
Thứ tư xu thế đổi mới phương pháp và hình thức đánh giá kết quả học tập phù
hợp yêu cầu phát triển năng lực người học, cho phép xác định/giám sát được
việc đạt được năng lực dựa vào hệ thống tiêu chí của chuẩn đánh giá.
Thứ năm Quan niệm đa dạng hóa theo hướng mở về nguồn tài liệu dạy học

cung cấp thông tin cho việc dạy của GV và học của HS.
Cùng với sự phát triển của chung các nền giáo dục các nước trên thế giới giáo
dục nước ta cũng đứng trước các yêu cầu đổi mới đảm bảo phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại.
Đảng và Nhà nước luôn khẳng định phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu,
đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển; giáo dục vừa là mục tiêu vừa là
động lực để phát triển kinh tế - xã hội .
Trong Văn kiện Nghị quyết 29NQ/TƯ ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban
chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế với các điểm cụ thể sau:
Một là giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của Đảng, Nhà

Trang 6


nước và của toàn dân. Đầu tư cho giáo là đầu tư phát triển, được ưu tiên đi trước
trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung,
phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự
lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ
sở giáo dục- đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản
thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học.
Ba là phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức
sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học.
Bốn là phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã
hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan.

Năm là đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa
các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại
hóa giáo dục và đào tạo.
Sáu là chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển giáo dục và đào
tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài công lập, giữa các
vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc
biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và
các đối tượng chính sách.
Bảy là chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng
thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước.
Với các mục tiêu cụ thể trên Đảng và nhà nước đã đề ra chiến lược cụ thể để phát
triển giáo dục đào tạo và phát triển giáo dục phổ thông giai đoạn 2011-2020 cụ thể:
Tư tưởng xuyên suốt từ quan điểm đến mục tiêu và các giải pháp chiến lược
phát triển giáo dục 2011-2020 là ưu tiên nâng cao chất lượng giáo dục, người
học là tâm điểm của chiến lược, hướng tới phát triển toàn diện năng lực và
Trang 7


phẩm chất của người học; đảm bảo công bằng trong tiếp cận giáo dục, tạo cơ
hội học tập suốt đời cho mỗi người dân, góp phần từng bước xây dựng xã hội
học tập; phát triển giáo đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Để đạt được những mục tiêu trên cần Đảng và nhà nước thực hiện các chính
sách phát triển giáo dục:
Đổi mới nhận thức về đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế
Xác định rõ hai giai đoạn giáo dục cơ bản và giáo dục sau cơ bản định hướng
nghề nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông.
Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp dạy học và đánh giá
giáo dục: xác định rõ mục tiêu của các cấp học cụ thể đối với các cấp quản lí,

thay đổi phương pháp dạy học theo hướng tích cực. Trong công tác đánh giá
người học chú trọng đến việc đánh giá năng lực, sự sáng tạo và phù hợp với
từng đối tượng học sinh.
Bên cạnh đó chú trọng đến công tác đào tạo giáo viên phù hợp với các chính sách
đổi mới, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lí chuẩn theo vị trí việc làm, chú trọng
công tác tuyển dụng mới.
Về chính sách đầu tư tập trung đầu tư xây dựng hạ tầng cơ bản, ưu tiên vùng
khó khăn, từng bước chuẩn hóa cơ sở vật chất kĩ thuật cho các nhà trường.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, Đảng nhà nước chú trọng đến chính sách
tạo cơ hội bình đẳng và phát triển giáo dục vùng miền thông qua chương trình
học, sách giáo khoa có những nội dung gắn với đặc điểm văn hóa dân tộc, đặc
điểm vùng miền, thực hiện chính sách ưu tiên trong tuyển sinh, đào tạo, cơ chế
cấp học bổng, hỗ trợ học phí, tín dụng và mở rộng hệ thống đào tạo dự bị đại
học cho HS sinh viên người dân tộc thiểu số và thuộc diện chính sách xã hội, Có
chính sách thỏa đáng thu hút nhà giáo cho vùng dân tộc thiếu số, vùng sâu, vùng
xa. Triển
khai mạnh chương trình đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp, nông thôn, lao
động ở vùng dân tộc và vùng khó khăn.

Trang 8


Trong thời gian qua chủ trương đổi mới giáo dục là vấn đề được đề cập rất
nhiều trong kế hoạch phát triển giáo dục của Đảng và nhà nước ta. Bản thân tôi
cũng đã ý thức và thực hiện tốt nhiệm vụ đổi mới trong quá trình làm việc cụ
thể:
Thứ nhất trong nhận thức ý thức rõ vai trò đổ mới phương pháp giảng
dạy trong việc thực hiện chương trình dạy học mới, nhận thức rõ việc chuyển từ
dạy học thụ động sang dạy học chủ động đối với học sinh.
Thứ hai trong công tác giảng dạy bản thân tôi đang giảng dạy bộ môn Sinh học

một bộ môn khoa học thực nghiệm rất coi trọng công tác thực hành thí nghiệm do đó
thực hiện việc đổi mới giảng dạy là công việc cần thiết thông qua việc sử dụng các kĩ
thuật dạy học mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học, thực hành thí nghiệm,
trong công tác đánh giá học sinh chú trọng đến năng lực người học thông qua việc xây
dựng hệ thống câu hỏi, bài tập có tính phân loại nhận thức người học.
Thứ ba trong công tác bồi dưỡng tự nâng cao trình độ bản thân tôi cần
luôn tự rèn luyện tự học tập cập nhật thong tin mới để làm phong phú bài giảng
hơn.
1.3 Chuyên đề 3: Quản lý giáo dục và chính sách phát triển giáo dục trong
cơ chế thị trường định hướng XHCN.
Quản lí nhà nước về giáo dục là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền
lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục đào tạo do các cơ quan quản lý giáo dục
của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ
do Nhà nước trao quyền nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục, duy trì kỷ cương, thỏa
mãn nhu cầu giáo dục của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục của quốc gia.
Việc quản lí của nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước từ chính phủ,
bộ giáo dục cho đến các cơ quan ngang bộ và ủy ban nhân dân các cấp, trong đó
bộ giáo dục là cơ quan thực hiện chức năng quản lí nhà nước về giáo dục và
đào tạo thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và các cơ sở giáo dục khác về các lĩnh
vực: mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch, chất lượng giáo dục và đào
tạo; tiêu chuẩn nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục; quy chế thi, tuyển sinh; hệ
thống văn bằng, chứng chỉ; cơ sở vật chất và thiết bị trường học; Quản lí nhà
Trang 9


nước đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lí nhà nước của Bộ theo quy
định của pháp luật.
Trong thời đại kinh tế thị trường sự tác động của quả trình toàn cầu hóa bao phủ
tất cả mọi lĩnh vực trong đó có cả lĩnh vực giáo dục đòi hỏi phải có sự đổi mới
để phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo

duc là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến
mục tiêu, hệ thống, chương trình giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều
kiện bảo đảm chất lượng giáo dục; đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào
tạo.
Trong việc đổi mới giáo dục phổ thông chú trọng đổi mới chương trình, sách
giáo khoa: bao gồm đổi mới mục tiêu, nội dung phương pháp và đánh giá theo
quan điểm tiếp cận "Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học"; Quản lý thực
hiện chương trình giáo dục phổ thông mới thực hiện dân chủ hóa, phân cấp
quản lí, giao quyền tự chủ để phát huy tính chủ động, sáng tạo phù hợp thực tế
của các nhà trường, địa phương.
Cùng với sự đổi mới trong giáo dục, nhà nước có nhiều cải cách về thủ tục hành chính và
tiền lương trong giáo dục.
Song song với đó nhà nước ta thực hiện một số chính sách phát triển giáo dục:
- Nhà nước thực hiện chính sách phổ cập giáo dục tạo điều kiện cho mọi
người dân học tập. Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng được
miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập khi tham gia các chương trình phổ cập
giáo dục giáo dục tiểu học và giáo dục trung học cơ sở , xóa mù chữ theo quy định.
- Chính sách tạo bình đẳng về cơ hội cho các đối tượng hưởng thụ giáo dục và các
vùng miền; nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ vùng khó khăn và chính sách dân
tộc là hệ thống chính sách tổng hợp về kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an
ninh….
- Chính sách chất lượng Nhà nước đã có các chủ trương chính sách và biện
pháp quan trọng về nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo

Trang 10


dục, đổi mới chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy,
tăng cường năng lực quản lý, giảng dạy, tăng cường cơ sở vật chất...

- Chính sách xã hội hóa và huy động các lực lượng xã hội tham gia vào ̣ quá trình giáo
dục: Xã hội hóa giáo dục có thể được hiểu, một mặt là việc huy động các nguồn lực
khác nhau của xã hội và cả sự tham gia công sức, trí tuệ của cộng đồng để phát triển
sự nghiệp giáo dục; mặt khác, phải có chính sách để công bằng xã hội tốt hơn cùng với
việc nâng cao khả năng “tiếp cận dịch vụ giáo dục” của toàn xã hội. Xã hội hóa giáo
dục bao gồm các nội dung: giáo dục hóa xã hội; cộng đồng trách nhiệm; đa dạng hóa
loại hình; đa dạng hóa nguồn lực; thể chế hóa chủ trương.
- Chính sách đầu tư cho phát triển giáo dục: Ngân sách nhà nước chi cho giáo
dục dành ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ tăng
chi ngân sách giáo dục hằng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục phải được phân bổ theo nguyên tắc công
khai, tập trung dân chủ; căn cứ vào quy mô giáo dục, điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội của từng vùng; thể hiện được chính sách ưu tiên của Nhà nước đối với
giáo dục phổ cập, phát triển giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số và vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
1.4. Chuyên đề 4: Giáo viên với công tác tư vấn học sinh trong trường
THCS.
“Tư vấn học đường” là hoạt động của những người có chuyên môn nhằm trợ
giúp học sinh, cha mẹ học sinh và nhà trường (dưới các hình thức: cố vấn, chỉ
dẫn, tham vấn,...), để giải quyết những khó khăn của học sinh liên quan đến học
đường, như: về tâm – sinh lí, định hướng nghề nghiệp, về học tập, về định
hướng giá trị sống và kỹ năng sống, về pháp luật…
Vai trò của tư vấn học đường: Hỗ trợ học sinh vượt qua khó khăn về tâm
lý; hỗ trợ học sinh giải quyết những yếu tố nảy sinh trong quá trình học tập.
Nội dung tư vấn học đường: Tư vấn học đường cho những học sinh gặp
khó khăn trong học tập; tham vấn học đường cho những học sinh có vấn đề về
cảm xúc và hành vi.

Trang 11



1.5. Chuyên đề 5: Tổ chức hoạt động dạy học, xây dựng và phát triển kế
hoạch giáo dục ở trường THCS.
Trên cơ sở chương trình giáo dục chung, tổ chức xây dựng kế hoạch giáo dục của
nhà trường phù hợp với đối tượng học sinh, điều kiện của địa phương và nhà trường.
Tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục của nhà trường đã được xây dựng. Việc thực
hiện chương trình và kế hoạch giáo dục được bắt đầu từ từng giáo viên, đến các tổ
chuyên môn và trong toàn trường. Vì vậy, mỗi chủ thể phải có trách nhiệm thực hiện
tốt phần chương trình và kế hoạch giáo dục của mình, mỗi cấp quản lý (cấp tổ
chuyên môn và cấp trường) phải tổ chức thực hiện chương trình theo phân cấp quản
lý. Đánh giá chương trình, kế hoạch giáo dục đã thực hiện, trên cơ sở đó điều chỉnh
và hoàn thiện chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường.
1.6. Chuyên đề 6: Phát triển năng lực nghề nghiệp giáo viên THCS hạng II.
Đây là nội dung tôi nhận thấy mình đúng đắn khi tham gia học lớp này, chuyên
đề đã giúp tôi định hướng đúng hơn nữa việc học tập và nghiên cứu phục
vụ cho công tác chuyên môn thời gian tới, nội dung chính của chuyên đề là:
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục đáp ứng nhu cầu xã hội như hiện nay, mỗi giáo
viên cần không ngừng tự học, tự bồi dưỡng nhằm phát triển năng lực nghề
nghiệp của chính mình, đặc biệt là phát triển những năng lực cơ bản phục vụ
cho việc dạy học của bản thân đó là: năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức
hoạt động dạy học, năng lực phát triển phẩm chất cá nhân và giá trị nghề
nghiệp. Bên cạnh đó, người giáo viên phải có năng lực phối hợp với gia đình và
cộng đồng trong hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học
sinh và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển, mở rộng
các nguồn lực xã hội phục vụ dạy học và giáo dục.
Bên cạnh chuyên môn nghiệp vụ, giáo viên THCS cần có những tiêu chuẩn đạo
đức như: luôn có ý thức trau dồi đạo đức, nêu cao tinh thần trách nhiệm, giữ gìn
phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo; gương mẫu trước học sinh, thương
yêu, đối xử công bằng và tôn trọng nhân cách của học sinh; bảo vệ các quyền
và lợi ích chính đáng của học sinh; đoàn kết, giúp đỡ đồng nghiệp.


Trang 12


Giáo viên THCS được xác định ở vị trí của đội ngũ cốt cán - là lực lượng nòng
cốt tham gia vào các công việc chuyên môn quan trọng của tổ bộ môn và nhà
trường ngoài nhiệm vụ dạy học và giáo dục thông thường. Bên cạnh đó, có thể
thấy, giáo viên THCS hạng II phải tham gia hầu hết các hoạt động chuyên môn
trong phạm vi cấp trường như: thi giáo viên trung học cơ sở dạy giỏi hoặc giáo
viên trung học cơ sở chủ nhiệm giỏi, các hội thi của học sinh…Như vậy, từ vị
trí của một giáo viên hạng III, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng chủ yếu trong
tổ bộ môn và trong các lớp được giao dạy học, chủ nhiệm, người giáo viên
THCS hạng II cần có những đóng góp mở rộng hơn, tới phạm vi toàn trường
đồng thời cũng là phạm vi chuyên sâu hơn – đi vào các hoạt động chuyên môn
cấp cao hơn.
Để đáp ứng được các nhiệm vụ nêu trên, đòi hỏi giáo viên phải có sự nỗ lực
không ngừng, tự học tập, tự bồi dưỡng để đáp ứng yêu cầu, về trình độ phải có
bằng đại học sư phạm trở lên, có trình độ ngoại ngữ bậc 2 hoặc chứng chỉ tiếng
dân tộc đối với những vị trí việc làm yêu cầu tiếng dân tộc, có trình độ tin học
đạt chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin cơ bản theo quy định tại Thông
tư số 03/2014/TT-BTTTT .
Giáo viên THCS hạng II là giáo viên cốt cán của đơn vị công tác và có vai trò
quan trọng trong việc xác định nhu cầu giáo dục và cải thiện chất lượng giáo
dục của trường THCS. Giáo viên cốt cán là những giáo viên biết rõ những gì
đang xảy ra trong trường học của họ. Họ ở một vị trí đủ tốt và khách quan bởi lẽ
họ không chỉ làm việc với đồng nghiệp, với học sinh, mà họ còn tiếp xúc nhiều
với phụ huynh, cộng đồng và những cơ quan, tổ chức có liên quan trong công
tác giáo dục học sinh.
Giáo viên cốt cán còn là người truyền cảm hứng cho đồng nghiệp của mình
trước những thay đổi hoặc những đổi mới giáo dục nhất là trong bối cảnh xã hội

hội nhập và phát triển như hiện nay.
Do đó mỗi đơn vị trường học cần phải xác định rõ phát triển đội ngũ giáo
viên cốt cán là việc làm hết sức quan trọng, là động lực phát triển nhà trường nói
chung và phát triển năng lực nghề nghiệp mỗi giáo viên THCS nói riêng. Nhiệm
Trang 13


vụ này không chỉ của riêng cán bộ quản lý nhà trường mà là của mọi giáo viên
và nhân viên trong nhà trường.
Việc tổ chức các hoạt động dạy học và giáo dục của giáo viên cốt cán không chỉ
tác động đến học sinh trong lớp của mình, vì sự tiến bộ của học sinh; mà còn là
một kênh thông tin để đồng nghiệp cùng tham khảo, chia sẻ và học hỏi kinh
nghiệm. Chính vì vậy, khi đội ngũ giáo viên cốt cán tổ chức dạy học cũng như
tổ chức các hoạt động giáo dục, cần tạo cơ hội để có sự tham gia của bạn bè
đồng nghiệp và cộng đồng. Đối với đồng nghiệp, đó là việc chia sẻ những bài
học thành công và những bài học cần rút kinh nghiệm; đối với cộng đồng, đó là
sự phối hợp để hiểu những nội dung mà học sinh được học, để từ đó có những
phối hợp tốt nhất từ phía gia đình và cộng đồng vào việc giáo dục học sinh.
Trong quá trình dạy học theo nhiệm vụ được phân công mỗi người giáo viên
cốt cán là một diễn viên thực thụ trên sân khấu nghệ thuật. Lúc này, mỗi giáo
viên quyết định lựa chọn và sử dụng các phương pháp truyền thống như thuyết
trình, đàm thoại, luyện tập,… hoặc khai thác các cách tiếp cận khác trong dạy
học như: dạy giải quyết vấn đề; dạy theo tình huống; định hướng hành động...
Mặt khác giáo viên cốt cán cần phát huy được những phương pháp dạy học cổ
truyền bằng cách khắc phục những hạn chế của phương pháp đó, song song với
đó
cần linh hoạt sử dụng các phương pháp kĩ thuật dạy học mới phù hợp với từng
đối tượng học sinh để đạt được kết quả giảng dạy cao nhất.
1.7. Chuyên đề 7: Dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh ở trường
THCS.

Năng lực của người học là khả năng làm chủ hệ thống tri thức, kĩ năng, thái
độ... và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công
nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra cho họ trong cuộc
sống.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng
lực chuyên môn bao gồm tri thức, kỹ năng chuyên môn, phát triển năng lực
phương pháp, năng lực xã hội và năng lực cá thể. Những năng lực này không
Trang 14


tách rời nhau mà có mối quan hệ chặt chẽ. Năng lực hành động được hình
thành trên cơ sở có sự kết hợp các năng lực này. Trong hoạt động dạy học theo
định hướng phát triển năng lực, giáo viên là yếu tố quyết định hàng đầu. Với
sự nhận thức đúng đắn, với tinh thần trách nhiệm và sự quyết tâm cao, kỹ năng
sử dụng thiết bị dạy học và tổ chức hướng dẫn học sinh học tập tốt là những
phẩm chất cần thiết của người giáo viên trong nhà trường.
Để phát huy được hiệu quả của việc dạy học theo định hướng phát triển năng
lực cần sử dụng các phương pháp dạy học tích cực cụ thể như: phương pháp
giải quyết vấn đề; hướng dẫn học tập thông qua hoạt động trải nghiệm; hướng
dẫn học tập kiến tạo; ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy.
Việc phát triển năng lực cho học sinh là khâu rất quan trọng trong giai đoạn
đổi mới giáo dục hiện nay, song song với việc phát triển năng lực của giáo viên
thì việc phát triển năng lực cho học sinh đã và đang được nhà trường đưa vào
trong mục tiêu giáo dục của nhà trường và đó là một nội dung trọng tâm trong
việc nâng cao chất lượng day và học. Thực tế ở giai đoạn đầu trong quá trình
thực hiện, việc hình thành năng lực của học sinh còn chưa rõ ràng, học sinh
còn bỡ ngỡ, chưa chủ động trong các nhiệm vụ học tập. Nhưng sau này với
phương pháp dạy theo hướng đổi mới của giáo viên thì học sinh đã dần quen
và chủ động hơn trong các hoạt động học tập, từ đó tôi nhận thấy sự hình thành
năng lực của học sinh được rõ ràng hơn, tạo hứng thú học tập cho cả giáo viên

và học sinh.
1.8. Chuyên đề 8: Thanh tra kiểm tra và một số hoạt động đảm bảo chất
lượng trường THCS.
Trong công tác thanh tra kiểm tra hoạt động chuyên môn ở trường THCS được
quy định cụ thể tại Thông tư 39/2013/TT-BGDĐT ngày 04/12/2013 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hướng dẫn thanh tra chuyên ngành trong
lĩnh vực giáo dục. Nội dung thanh tra kiểm tra được thể hiện rõ đối với từng đối
tượng, bao gồm: đối với Sở giáo dục và đào tạo, Phòng giáo dục và đào tạo, nhà
trường và các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực giáo dục.

Trang 15


Kiểm tra nội bộ việc thực hiện nhiệm vụ dạy học và giáo dục trường THCS bao
gồm các đối tượng kiểm tra nội bộ của nhà trường là lãnh đạo, viên chức, người
lao động của nhà trường. Hình thức kiểm tra theo kế hoạch hoặc đột xuất, với
các nội dung kiểm tra cụ thể đối với: Kiểm tra việc thực hiện nhiêm vụ được
giao của cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; Kiểm tra điều kiện đảm bảo việc
thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường trong năm học; Kiểm tra hoạt
động các tổ, khối chuyên môn và các bộ phận trong nhà trường; Kiểm tra cơ sở
vật chất, trang thiết bị, thư viện; Kiểm tra tài chính; Kiểm tra công tác bán trú.
Theo tôi thấy công tác thanh tra, kiểm tra có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng; là
chức năng thiết yếu của quản lý; là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước; là phương thức phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế;
phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Xuất phát từ tính
chất, vị trí và vai trò quan trọng của công tác thanh tra, kiểm tra, các cấp quản lý
giáo dục, các nhà trường cần chú trọng đúng mức công tác này này, để thanh tra,
kiểm tra thực sự có vai trò quan trọng trong việc duy trì và nâng cao chất lượng
giáo dục.
Qua các kiến thức đã được học tập, bồi dưỡng tại chuyên đề này tôi nhận thấy

hoạt động kiểm tra nội bộ của nhà trường về cơ bản đội ngũ cán bộ, giáo viên đã
đáp ứng được theo yêu cầu. Phần lớn cán bộ, giáo viên đã được đào tạo cơ bản
cả về chính trị và chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Tuy
nhiên một số cán bộ, giáo viên chưa xem công tác thanh tra là bức thiết đối với
hiệu quả giáo dục. Nhận thức và tâm lý của đội ngũ cán bộ, giáo viên còn ngại làm
công tác thanh tra, kiểm tra. Khi tiến hành thanh tra, kiểm tra thì còn e dè trong đánh
giá, xếp loại và kết luận. Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, giáo viên tham gia
kiểm tra nhìn chung còn yếu về kiến thức pháp luật, về năng lực và nghiệp vụ thanh
tra kiểm tra. Việc tập hợp thông tin về nhà trường chủ yếu qua báo cáo của các bộ
phận. Do vậy ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động kiểm tra của nhà trường.
1.9. Chuyên đề 9: Sinh hoạt tổ chuyên môn và công tác bồi dưỡng giáo viên
trong trường THCS.

Trang 16


Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động thường xuyên trong nhà trường, là dịp để
giáo viên trao đổi chuyên môn nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học.
Mục đích của sinh hoạt chuyên môn là nhằm cập nhật các thông báo, văn bản
chỉ đạo, đồng thời bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên, giúp giáo
viên chủ động lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng
đối tượng học sinh của mình.
Tổ chuyên môn có nhiệm vụ: Xây dựng chương trình, tài liệu dạy học môn
chuyên; nghiên cứu, áp dụng các phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra đánh giá tiên tiến vào giảng dạy, đánh giá kết quả học tập của học sinh; Phát
hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu; bồi dưỡng học sinh tham gia các kỳ thi
học sinh giỏi và các cuộc thi về năng khiếu khác liên quan đến chuyên môn của tổ;
Xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học sư
phạm ứng dụng; tổng kết, áp dụng sáng kiến - kinh nghiệm, tự làm thiết bị dạy
học hàng năm của giáo viên, nhân viên và hoạt động nghiên cứu khoa học, sáng
tạo kỹ thuật của học sinh; hướng dẫn học sinh làm quen với nghiên cứu khoa học;

Hỗ trợ giáo viên, học sinh tham gia nghiên cứu khoa học, tổng kết, áp dụng sáng
kiến - kinh nghiệm, tự làm thiết bị dạy học, sáng tạo kỹ thuật; Xây dựng đội ngũ
giáo viên cốt cán của tổ, nhóm chuyên môn làm nòng cốt cho các hoạt động
chuyên môn của nhà trường; Tổ chức việc bồi dưỡng phát triển năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ của các thành viên trong tổ; Đề xuất khen thưởng, kỷ luật đối
với giáo viên.
Hoạt động của tổ chuyên là tạo lập môi trường tự học, tự bồi dưỡng và
hợp
tác, chia sẻ. Có thể tổ chức thông qua dưới hình thức chuyên đề (đối với cấp tổ,
cấp trường) hoặc tổ chức Hội thảo (đối với cấp cụm) thông qua yêu cầu các giáo
viên phải tự tìm tòi các kiến thức chuyên môn đáp ứng yêu cầu của xã hội và nâng
cao hiệu quả giáo dục.

Đối với công tác bồi dưỡng giáo viên tập sự và bồi dưỡng giáo viên tại trường,
tập huấn giáo viên nên tổ chức sinh hoạt chuyên môn thông qua hoạt động dự
giờ, góp ý cho đồng nghiệp và tập huấn, báo cáo chuyên đề.
Trang 17


1.10. Chuyên đề 10: Xây dựng mối quan hệ trong và ngoài nhà trường để
nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển trường THCS.
Với công tác xây dựng môi trường giáo dục trong và ngoài nhà trường là rất
quan trọng để góp phần nâng cao chất lượng giáo dục.
Đối với các mối quan hệ trong nhà trường cần tăng cường hoạt động của các tổ
chức đoàn thể trong nhà trường để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa các thành
viên. Nhờ đó mỗi tổ chức trong nhà trường sẽ phát huy được vai trò, nhiệm vụ
của mình, thực hiện được một phần mục tiêu giáo dục đã đề ra. Cụ thể như: Vai
trò của tổ chức công đoàn trong nhà trường là tổ chức Hội nghị cán bộ, công
chức theo tinh thần dân chủ, đoàn kết; tổ chức các đợt thi đua và các phong trào
quần chúng; chăm lo đời sống, bảo bệ quyền lợi cho cán bộ, giáo viên, nhân

viên trong nhà trường. Nếu tổ chức công đoàn thực hiện tốt các nhiệm vụ trên
thì sẽ giúp cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường thêm có niềm tin vào
sự nghiệp giáo dục, thêm tâm huyết với nghề. Trong hoạt động của Đội giữ vai
trò vô cùng quan trọng đến hình thành và phát triển của các em học sinh thông
qua hoạt động và giao lưu trong Đội, các em học sinh sẽ cảm thấy trưởng thành
hơn và biết quý trọng cuộc sống. Bên cạnh đó nhà trường còn tăng cường hoạt
động của tổ chuyên môn nhằm hướng tới xây dựng một cộng đồng học tập trong
nhà trường bằng cách: tăng tính tự chủ của tổ chuyên môn trong việc xây dựng
kế hoạch, triển khai trương trình giáo dục và công khai công tác kiểm tra đánh
giá trong tổ chuyên môn; tăng cường sinh hoạt chuyên môn theo “nghiên cứu
bài học” nhằm bồi dưỡng chuyên môn của giáo viên thông qua giờ học nghiên
cứu và rút ra kết luận thống nhất cùng thực hiện sau buổi sinh hoạt chuyên môn;
Ngoài ra nhà trường cũng phối hợp tốt và tăng tính hiệu quả với Ban đại diện
cha mẹ học sinh để góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Đối với mối quan hệ ngoài nhà trường gồm: Đảng bộ và chính quyền địa
phương có vai trò quyết định đến công tác xã hội hóa của nhà trường và các tổ
chức quần chúng, văn hóa, xã hội là môi trường sinh hoạt về chính trị, văn hóa,
thể thao cho thế hệ trẻ. Do vậy nhà trường cần phải xây dựng môi trường thuận
lợi cho giáo dục gồm nhà trường, gia đình, xã hội, tạo điều kiện để toàn xã hội
Trang 18


chăm lo cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, người lớn nêu gương tốt cho trẻ em
và tham gia vào các hoạt động giáo dục của nhà trường; đồng thời các cơ quan,
tổ chức và mọi cá nhân trong xã hội có trách nhiệm tăng cường các biện pháp
nhằm ngăn ngừa sự xâm nhập của các ảnh hưởng tiêu cực ngoại lai vào nhà
trường, phối hợp chặt chẽ giữa các môi trường giáo dục để tạo sự thống nhất tác
động giáo dục.
2. Kết quả thu hoạch về kỹ năng:
Bản thân đã được bồi dưỡng thêm các kiến thức về các phương pháp dạy

học tích cực để sử dụng thành thục, nhuần nhuyễn trong quá trình dạy học như
các phương pháp dạy học nhóm, dạy học theo trạm, bàn tay nặn bột, các kĩ thuật
dạy học tích cực… dạy học theo trải nghiệm sáng tạo, dạy học tích hợp, liên
môn….. các phương pháp này sẽ kích thích được mọi học sinh tích cực làm việc
đặc biệt là những học sinh yếu bởi chính những học sinh này sẽ được giáo viên
và các bạn cùng nhóm để ý đến nhiều hơn. Khi phát triển được các năng lực
trong quá trình học tập tức là học sinh thấy rõ vai trò vị trí của mình, từ đó sẽ
biết nỗ lực để hoàn thành nhiệm vụ, biết hành động vì người khác và đó chính
là một cách để hoàn thiện nhân cách người học sinh.
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục/dạy học theo hướng
hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp
tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, khả năng tư duy độc lập của người
học. Học sinh tự tìm tòi kiến thức, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức, bồi
dưỡng phẩm chất, năng lực thông qua các hoạt động học tập dưới sự chỉ đạo,
tổ chức, hướng dẫn của giáo viên; học sinh được trình bày và bảo vệ ý kiến
của mình, được lắng nghe và phản biện ý kiến của bạn, nhất là khi tham gia
các hoạt động xã hội, trải nghiệm sáng tạo; khắc phục lối truyền đạt áp đặt
một chiều, ghi nhớ máy móc.
Hiểu rõ về các hoạt động của tổ chuyên môn và vai trò của cá nhân
trong hoạt động của tổ chuyên môn. Một số hình thức đổi mới trong sinh hoạt
tổ chuyên môn. Hoạt động thanh tra, kiểm tra các hoạt động trong nhà trường.
Trang 19


PHẦN 2. KẾ HOẠCH HOẠT ĐỘNG CỦA BẢN THÂN SAU
KHÓA BỒI DƯỠNG
2.1. Hoạt động nghề nghiệp bản thân
2.2. Kế hoạch hoạt động cá nhân sau khi tham gia khóa bồi dưỡng
Đối với bản thân:
Bản thân tôi đã tốt nghiệp đại học, đã có 30 năm công tác trực tiếp tham gia công tác

giảng dạy, tôi nhận thấy việc học thêm để nâng cao trình độ và chuyên môn nghiệp vụ là rất
cần thiết. Đây là việc cần phải được các giáo viên làm thường xuyên hàng ngày để theo kịp sự
phát triển của zxã hội, của thế giới, hàng ngày, hàng giờ các thành tựu khoa học trên thế giới
liên tục được đổi mới, cập nhất nếu ta không chịu học hỏi ta sẽ trở thành người lạc hậu, lỗi
thời.
Để trang bị cho mình các kiến thức cơ bản và cần thiết bắt kịp sự tiến bộ của thế giới tôi thấy
bản thân tôi và mỗi giáo viên cần phải làm những việc sau đây:
Một là: Luôn trung thành với đường lối của Đảng sự lãnh đạo của nhà nước, tuân thủ
và chấp hành sự phân công của cấp trên. Chấp hành làm thực hiện các chính sánh do ngành và
địa phương đề ra, động viên bạn bè và quần chúng làm theo. Luôn là tấm gương sáng cho học
sinh noi theo. Tăng cường đọc báo (báo mạng, báo in, tạp chí, tập san ... trong đó báo mạng là
phổ biến) để cập nhật thông tin.
Hai là: Không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy(thực hiện dạy học theo các chủ
để, thực hiện các chuyên đề, các nghiên cứu bài học ... do tổ , nhà trường và phòng giáo dục
đề ra)
Ba là: Tăng cường hơn nữa công tác dự giờ thăm lớp trao đổi kinh nghiệm chuyên
môn.
Bốn là: Tham gia các hoạt động văn hoá, văn nghệ, sinh hoạt ngoại khoá do trường và
các tổ chức xã hội chỉ đạo .
Năm là: Sử dụng triệt để các đồ dùng giảng dạy sẵn có để phục vụ công tác giảng dạy,
sử dụng các phương tiện hiện đại hỗ trợ cho việc giảng dạy ... Sáng tạo làm các đồ dùng bổ
sung cho việc gảng dạy.
Sáu là: Kết hợp với tổ phó, ban giám hiệu chỉ đạo các tổ viên làm tốt các kế hoạch cá
nhân, kế hoạch bộ môn. Xây dựng cho mình một kế hoạch cá nhân để hoàn thiện tốt mọi công
việc mà chi bộ và ban giám hiệu giao cho - (bản thân tôi đang là tổ trưởng tổ KHTN).
Bảy là: Không ngừng học hỏi nâng cao trình độ, gần gũi thương yêu học sinh giúp các
em tiếp cận kiến thức tốt nhất, xây dựng đội ngũ học sinh giỏi Vật Lí 9 hàng năm đạt kết quả
cao, mỗi năm ít nhất phải có 1 HS giỏi huyện.
2. Với trường THCS
a. Sinh hoạt tổ chuyên môn:


Trang 20


Khi được học tập các chuyên đề tôi nhận thấy rằng : Sinh hoạt chuyên môn là hoạt
động hết sức quan trọng và là việc làm thường xuyên của mỗi nhà trường phổ thông, là một
trong những hình thức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên, giúp giáo viên nâng
cao năng lực chuyên môn và phương pháp giảng dạy.
Công tác sinh hoạt chuyên môn lâu nay nhiều nhà trường chỉ đạo và thực hiện rất tốt,
trường tôi cũng vậy nó đã đem lại hiệu quả đáng trân trọng. Những đơn vị này các tổ trưởng
chuyên môn rất tâm huyết, có năng lực chuyên môn vững vàng, biết cách chỉ đạo điều hành
hoạt động tổ. Biết vận dụng linh hoạt sáng tạo ý kiến chỉ đạo của cấp trên phù hợp với tình
hình thực tế của đơn vị. Biết vạch ra kế hoạch việc gì cần làm, việc gì ưu tiên trước, làm thế
nào để đạt hiệu quả cao nhất. Biết trăn trở những việc chưa làm được, hiệu quả còn thấp…
Hiện nay cũng không ít giáo viên mong sao nhà trường đưa ra càng ít hoạt động càng
tốt; chuyên môn đưa ra càng ít nội dung sinh hoạt càng đỡ vất vả. Họ có tư tưởng đến giờ lên
lớp dạy hết tiết quy định, soạn bài đầy đủ, khi nào có thao giảng, dự giờ thì chuẩn bị khá kỹ
một chút để đừng bị xếp loại yếu hoặc trung bình, thời gian còn lại về chăm sóc gia đình hoặc
kiếm thêm thu nhập. Cho nên việc góp ý cho chuyên môn họ cũng không mấy nặn mà.
Để sinh hoạt tổ chuyên môn thực sự có hiệu quả, trước hết Ban giám hiệu nhà trường
phải thường xuyên dự sinh hoạt với các tổ chuyên môn nhằm nắm bắt chỉ đạo công việc đã
triển khai, đồng thời có định hướng cho từng hoạt động.
Phải lựa chọn đội ngũ giáo viên làm tổ trưởng, tổ phó thực sự có năng lực để làm việc,
vì tổ trưởng, tổ phó là người kế cận, giúp việc cho Ban giám hiệu thực hiện các hoạt động
chuyên môn.
Phải xây dựng được nề nếp sinh hoạt chuyên môn để tạo thói quen và nhận thức đầy đủ hơn
về tầm quan trọng của việc sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên. Không để buổi sinh hoạt
chuyên môn chỉ nghe triển khai công việc hành chính hoặc góp ý mấy tiết dạy, mà phải làm
cho buổi sinh hoạt chuyên môn thực sự đi vào chiều sâu, đúng nghĩa của nó.
Để buổi sinh hoạt chuyên môn thực sự đi vào chiều sâu, thì tổ trưởng phải xây dựng

kế hoạch cụ thể tuần nào, tháng nào tập trung vào những nội dung gì ( tạm gọi là kế hoạch
sinh hoạt chuyên môn). Những nội dung trong kế hoạch phải trọng tâm, phải thiết thực tập
trung vào những vấn đề như đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng giảng dạy,
quản lý học sinh… Mà đã được tổ thảo luận, trao đổi thống nhất thực hiện. Muốn tổ chức một
buổi sinh hoạt chuyên môn đem lại hiệu quả cao thì đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, chuẩn bị
kỹ trước đó để đỡ mất thời gian trong buổi sinh hoạt. Không những chỉ có người thực hiện
chuẩn bị mà tất cả các thành viên trong tổ đều phải nghiên cứu chuẩn bị Để trách buổi sinh
hoạt chuyên môn bị kéo dài thời gian, hoặc không thống nhất được mục tiêu đề ra đòi hỏi tổ
trưởng (người chủ trì) phải định hướng nội dung trọng tâm cần tập trung thảo luận, trao đổi,
góp ý. Không góp ý lan man hoặc lợi dụng sinh hoạt chuyên môn để hạ bệ lẫn nhau. Tạo điều
kiện cho tất cả các thành viên trong tổ đều được trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Không nên chỉ có
một vài ý kiến tham gia ban đầu rồi sau đó các thành viên còn lại nói “Tôi cũng đồng ý như ý
kiến trên”.

Trang 21


Thời lượng cho sinh hoạt chuyên môn tổ là không có nhiều, thường thì vài tiết hoặc
vài tiếng đồng hồ cho nên cần hạn chế triển khai công việc hành chính hoặc triển khai nhanh
gọn trọng tâm, các nội dung khác đưa lên bảng thông báo. Thời gian còn lại dành cho tập
trung trao đổi, thảo luận, phân tích, góp ý…nội dung chuyên môn.
Một điểm cần lưu ý là lâu nay trong sinh hoạt chuyên môn chúng ta thường chỉ nêu ra
các biện pháp, giải pháp, cách thức… thực hiện của thầy (người dạy) mà chưa chú ý đến việc
hoạt động của trò trong quá trình tiếp thu lĩnh hội kiến thức. Cho nên khi tổ chức góp ý, đánh
giá cũng chỉ tập trung xoay quanh các hoạt động của thầy. Còn trò học ra sao, phản ứng thế
nào, lĩnh hội được cái gì…ít được quan tâm. Điều này thường dễ thấy trong góp ý tiết dạy của
đồng nghiệp. Cho nên bắt buộc phải đổi mới sinh hoạt chuyên môn, đổi mới từ tư duy nhận
thức cho giáo viên, cách thức tổ chức, nội dung sinh hoạt cho đến cách nhìn nhận đánh giá…
Tổ trưởng với Ban Giám hiệu:
- Xác định rõ vị trí người tổ trưởng là cầu nối giữa Hiệu trưởng và giáo viên trong tổ

về thông tin 2 chiều nhằm mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục. Hiệu trưởng
có thông tin để đánh giá chính xác giáo viên, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của họ từ đó
phân công giáo viên hợp lý, đạt hiệu quả tốt; chuyển tải cho giáo viên trong tổ các chỉ đạo
chuyên môn của Hiệu trưởng và cơ quan quản lý cấp trên;
- Tổ chức thực hiện chỉ đạo chuyên môn của Hiệu trưởng và cơ quan quản lý cấp trên
về các hoạt động dạy học, giáo dục: Thực hiện kế hoạch, chương trình giáo dục, chuẩn kiến
thức kĩ năng, đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra, đánh giá…qua các hoạt động
cụ thể như bồi dưỡng giáo viên, học sinh, dự giờ, thăm lớp…
Tổ trưởng với công tác chủ nhiệm:
Các thành viên trong tổ chuyên môn cũng thực hiện công tác chủ nhiệm. Mối quan hệ
này sẽ giúp giáo viên trao đổi chuyên môn và trao đổi về công tác quản lý học sinh, hiểu rõ
hơn học sinh, từ đó góp phần vào công tác giáo dục toàn diện học sinh và như vậy sẽ giúp
công tác giảng dạy đạt kết quả tốt hơn.
Tổ trưởng với Chi bộ Đảng, Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh,
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
- Trong tổ chuyên môn có các thành viên là đảng viên sẽ góp phần truyền đạt chủ
trương, nghị quyết của chi bộ Đảng đến tổ chuyên môn kịp thời, chính xác hơn. Các tổ viên là
đảng viên sẽ gương mẫu, thúc đẩy các thành viên khác thực hiện nhiệm vụ tốt hơn.
- Tổ chuyên môn cũng hỗ trợ hoạt động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên và Đội
Thiếu niên Tiền phong bằng cách truyền đạt các chủ trương của các đoàn thể này để phối hợp
chặt chẽ và từ đó góp phần giáo dục toàn diện học sinh, thực hiện kế hoạch nhà trường và
thực hiện được mục tiêu giáo dục đề ra.
Tổ chuyên môn không thể hoạt động độc lập mà có quan hệ chặt chẽ với các tổ
chuyên môn khác, với Ban Giám hiệu trường, với Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Các mối quan hệ trên nếu được thực
hiện tốt, chặt chẽ, đồng bộ thì chắc chắn hoạt động của tổ chuyên môn sẽ đạt hiệu quả tốt
hơn/.

Trang 22



b. Đổi mới phương pháp dạy họcnâng cao chất lượng giờ lên lớp bằng cách phối
hợp nhiều phương pháp:
Cải tiến các phương pháp dạy học truyền thống.
Đổi mới phương pháp dạy học không có nghĩa là loại bỏ các phương pháp dạy học
truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt đầu bằng việc cải tiến để nâng
cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp
dạy học này người giáo viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo
các kỹ thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật đặt các
câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu trong luyện tập. Tuy
nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các
phương pháp dạy học truyền thống cần kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể
tăng cường tính tích cực nhận thức của học sinh trong thuyết trình, đàm thoại theo quan điểm
dạy học giải quyết vấn đề.Việc dạy học theo định hướng phát triển năng lực bắt buộc cả giáo
viên và học sinh phải có sự chuẩn bị hết sức chu đáo, học sinh phải chủ động và tích cực hợp
tác trong mọi hoạt động.
Yêu cầu giáo viên phải có sự thay đổi về quan điểm, về cách tiếp cận trong việc lựa
chọn phương pháp dạy học, hình thức tổ chức lớp học cũng như thay đổi cách đánh giá học
sinh – dạy học gắn với phát triển năng lực. Muốn làm được điều đó trước hết người giáo viên
phải có sự thay đổi trong cách tiếp cận, phải giúp cho học sinh làm chủ quá trình học tập.
Vận dụng dạy học giải quyết vấn đề.
Dạy học giải quyết vấn đề (dạy học nêu vấn đề, dạy học nhận biết và giải quyết vấn
đề) là quan điểm dạy học nhằm phát triển năng lực tư duy, khả năng nhận biết và giải quyết
vấn đề. Học được đặt trong một tình huống có vấn đề, đó là tình huống chứa đựng mâu thuẫn
nhận thức, thông qua việc giải quyết vấn đề, giúp học sinh lĩnh hội tri thức, kỹ năng và
phương pháp nhận thức. Dạy học giải quyết vấn đề là con đường cơ bản để phát huy tính tích
cực nhận thức của học sinh, có thể áp dụng trong nhiều hình thức dạy học với những mức độ
tự lực khác nhau của học sinh. Các tình huống có vấn đề là những tình huống khoa học
chuyên môn, cũng có thể là những tình huống gắn với thực tiễn. Trong thực tiễn dạy học hiện
nay, dạy học giải quyết vấn đề thường chú ý đến những vấn đề khoa học chuyên môn mà ít

chú ý hơn đến các vấn đề gắn với thực tiễn. Tuy nhiên nếu chỉ chú trọng việc giải quyết các
vấn đề nhận thức trong khoa học chuyên môn thì học sinh vẫn chưa được chuẩn bị tốt cho
việc giải quyết các tình huống thực tiễn. Vì vậy bên cạnh dạy học giải quyết vấn đề, lý luận
dạy học còn xây dựng quan điểm dạy học theo tình huống.
Vận dụng dạy học theo tình huống.
Dạy học theo tình huống là một quan điểm dạy học, trong đó việc dạy học được tổ
chức theo một chủ đề phức hợp gắn với các tình huống thực tiễn cuộc sống và nghề nghiệp.
Quá trình học tập được tổ chức trong một môi trường học tập tạo điều kiện cho học sinh kiến
tạo tri thức theo cá nhân và trong mối tương tác xã hội của việc học tập. Các chủ đề dạy học
phức hợp là những chủ đề có nội dung liên quan đến nhiều môn học hoặc lĩnh vực tri thức
khác nhau, gắn với thực tiễn. Trong nhà trường, các môn học được phân theo các môn khoa

Trang 23


học chuyên môn, còn cuộc sống thì luôn diễn ra trong những mối quan hệ phức hợp. Vì vậy
sử dụng các chủ đề dạy học phức hợp góp phần khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn của các
môn khoa học chuyên môn, rèn luyện cho học sinh năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp,
liên môn. Phương pháp nghiên cứu trường hợp là một phương pháp dạy học điển hình của dạy
học theo tình huống, trong đó học sinh tự lực giải quyết một tình huống điển hình, gắn với
thực tiễn thông qua làm việc nhóm. Vận dụng dạy học theo các tình huống gắn với thực tiễn
là con đường quan trọng để gắn việc đào tạo trong nhà trường với thực tiễn đời sống, góp
phần khắc phục tình trạng giáo dục hàn lâm, xa rời thực tiễn hiện nay của nhà trường phổ
thông. Tuy nhiên, nếu các tình huống được đưa vào dạy học là những tình huống mô phỏng
lại, thì chưa phải tình huống thực. Nếu chỉ giải quyết các vấn đề trong phòng học lý thuyết thì
học sinh cũng chưa có hoạt động thực tiễn thực sự, chưa có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực
hành.
Vận dụng dạy học định hướng hành động
Dạy học định hướng hành động là quan điểm dạy học nhằm làm cho hoạt động trí óc
và hoạt động chân tay kết hợp chặt chẽ với nhau. Trong quá trình học tập, học sinh thực hiện

các nhiệm vụ học tập và hoàn thành các sản phẩm hành động, có sự kết hợp linh hoạt giữa
hoạt động trí tuệ và hoạt động tay chân. Đây là một quan điểm dạy học tích cực hoá và tiếp
cận toàn thể. Vận dụng dạy học định hướng hành động có ý nghĩa quan trong cho việc thực
hiện nguyên lý giáo dục kết hợp lý thuyết với thực tiễn, tư duy và hành động, nhà trường và
xã hội. Dạy học theo dự án là một hình thức điển hình của dạy học định hướng hành động,
trong đó học sinh tự lực thực hiện trong nhóm một nhiệm vụ học tập phức hợp, gắn với các
vấn đề thực tiễn, kết hợp lý thuyết và thực hành, có tạo ra các sản phẩm có thể công bố. Trong
dạy học theo dự án có thể vận dụng nhiều lý thuyết và quan điểm dạy học hiện đại như lý
thuyết kiến tạo, dạy học định hướng học sinh, dạy học hợp tác, dạy học tích hợp, dạy học
khám phá, sáng tạo, dạy học theo tình huống và dạy học định hướng hành động.
Để dạy học theo định hướng phát triển năng lực học sinh có hiệu quả thì mỗi giáo viên
phải tự học tự rèn luyện và phải học hỏi các đồng nghiệp khi tham gia dự giờ, trao đổi rút
kinh nghiệm, tham gia các lớp bồi dưỡng, tập huấn.
Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học.
Việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học trong toàn bộ quá trình
dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy
học. Dạy học toàn lớp, dạy học nhóm, nhóm đôi và dạy học cá thể là những hình thức xã hội
của dạy học cần kết hợp với nhau, mỗi một hình thức có những chức năng riêng. Tình trạng
độc tôn của dạy học toàn lớp và sự lạm dụng phương pháp thuyết trình cần được khắc phục,
đặc biệt thông qua làm việc nhóm. Trong thực tiễn dạy học ở trường trung học hiện nay, nhiều
giáo viên đã cải tiến bài lên lớp theo hướng kết hợp thuyết trình của giáo viên với hình thức
làm việc nhóm, góp phần tích cực hoá hoạt động nhận thức của học sinh. Tuy nhiên hình thức
làm việc nhóm rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc giải quyết các nhiệm vụ học tập nhỏ xen
kẽ trong bài thuyết trình, mà còn có những hình thức làm việc nhóm giải quyết những nhiệm
vụ phức hợp, có thể chiếm một hoặc nhiều tiết học, sử dụng những phương pháp chuyên biệt

Trang 24


như phương pháp đóng vai, nghiên cứu trường hợp, dự án. Mặt khác, việc bổ sung dạy học

toàn lớp bằng làm việc nhóm xen kẽ trong một tiết học mới chỉ cho thấy rõ việc tích cực hoá
“bên ngoài” của học sinh. Muốn đảm bảo việc tích cực hoá “bên trong” cần chú ý đến mặt
bên trong của phương pháp dạy học, vận dụng dạy học giải quyết vấn đề và các phương pháp
dạy học tích cực khác.
Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp
lý hỗ trợ dạy học
Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học,
nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện nay, việc trang
bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy
nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát
huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy
học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình
diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử
dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết nối.
Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo
Kỹ thuật dạy học là những cách thức hành động của của giáo viên và học sinh trong
các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học. Các kỹ thuật
dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có những kỹ thuật dạy học
chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi
trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát
huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “động não”, “tia chớp”, “bể cá”, bản đồ tư
duy...
Chú trọng các phương pháp dạy học đặc thù bộ môn
Phương pháp dạy học có mối quan hệ biện chứng với nội dung dạy học, việc sử dụng
các phương pháp dạy học đặc thù có vai trò quan trọng trong dạy học bộ môn. Các phương
pháp dạy học đặc thù bộ môn được xây dựng trên cơ sở lý luận dạy học bộ môn. Ví dụ: Thí
nghiệm là một phương pháp dạy học đặc thù quan trọng của các môn khoa học tự nhiên; các
phương pháp dạy học như trình diễn vật phẩm kỹ thuật, làm mẫu thao tác, phân tích sản phẩm
kỹ thuật, thiết kế kỹ thuật, lắp ráp mô hình, các dự án là những phương pháp chủ lực trong
dạy học kỹ thuật; phương pháp “Bàn tay nặn bột” đem lại hiệu quả cao trong việc dạy học các

môn khoa học...
Bồi dưỡng phương pháp học tập tích cực cho học sinh
Phương pháp học tập một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá,
phát huy tính sáng tạo của học sinh. Có những phương pháp nhận thức chung như phương
pháp thu thập, xử lý, đánh giá thông tin, phương pháp tổ chức làm việc, phương pháp làm
việc nhóm, có những phương pháp học tập chuyên biệt của từng bộ môn. Bằng nhiều hình
thức khác nhau, cần luyện tập cho học sinh các phương pháp học tập chung và các phương
pháp học tập trong bộ môn.
Để thúc đẩy phong trào thi đua và nâng cao chất lượng thì việc thanh kiểm tra nội bộ
phải được làm thường xuyên. Ngay từ đầu năm với sự chỉ đạo của hiệu trưởng các tổ lên kế

Trang 25


×