Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Diễn giải x quang vú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 51 trang )

Diễn giải X quang vú (phần 1): Khối
Bài X quang vú có các từ vựng miêu tả (tạm dịch, tô màu xanh) dựa theo định nghĩa BIRADS
hiện hành, gồm những phần sau:
– Khối
– Vôi hóa
– Biến dạng cấu trúc
– Những trường hợp đặc biệt
– Những dấu hiệu kết hợp
1. KHỐI
“KHỐI” là một tổn thương chiếm chỗ nhìn thấy ở hai hướng khác nhau. Nếu một khối tiềm tàng
chỉ nhìn thấy ở một hướng thì nên gọi là “KHÔNG ĐỐI XỨNG”-“ASYMMETRY” cho đến khi
3 chiều của nó được xác định.
1.1. HÌNH DẠNG

a. Hình tròn
Khối hình cầu, hình quả bóng, hình tròn.


Nang này là một thí dụ của khối tròn
b. Hình bầu dục
Khối hình trứng hoặc hình elip.

Khối máu tụ này là một thí dụ của khối hình bầu dục


c. Chia nhiều tiểu thùy (Lobular)
Khối có đường viền nhấp nhô (undulating contour).

Khối u xơ tuyến khổng lồ này ở hướng nghiêng A và đầu-chân B là một thí dụ của khối chia
nhiều thùy [con].
d. Hình không đều (méo mó)


Hình dạng tổn thương không thể mô tả đặc điểm bằng bất cứ từ nào ở trên.

Khối ung thư xâm lấn này là một thí dụ của khối có hình dạng không đều (méo mó)
1.2. Bờ (Làm thay đổi hình dạng của khối)


a. Bờ rõ, nét (Circmscribed)
Bờ được vạch ra rõ nét (ít nhất là 75% đường bờ rõ nét, và phần bờ còn lại cũng rõ nét
không kém dù bị mô phủ trên che khuất) với sự chuyển tiếp đột ngột giữa tổn thương và mô
xung quanh. Không có sự biến đổi thêm vào khả nghi do thâm nhiễm. Một khối mà bất cứ đoạn
bờ nào là không rõ hoặc có gai thì nên xếp vào loại tương ứng đó.

Nang này là một thí dụ về tổn thương có bờ rõ nét
b. Bờ bị che khuất (Obscured)
Bờ bị khuất do mô bình thường kề cận chờm lên hoặc chồng lên. Thuật ngữ này thường
được sử dụng khi bác sỹ đọc phim tin rằng khối có bờ rõ nét (circumscribed) nhưng bờ bị khuất.


Nhiều nang trên các phim vú nghiêng này có bờ rõ nét nhưng bờ bị mô bình thường che khuất
c. Bờ vi tiểu thùy (microlobulated margin)
Các vòng cung ngắn của bờ tạo thành các chỗ nhấp nhô nhỏ (vài milimet). (Khác với
khối chia tiểu thùy bề mặt có các cung lớn hơn).


Khối ung thư xâm lấn này có bờ vi tiểu thùy
d. Bờ không rõ (Indistinct margin)
Sự không rõ của [toàn bộ] bờ hoặc bất cứ đoạn bờ nào cũng gây lo ngại rằng có thể có sự
thâm nhiễm của tổn thương và hình thái này ít khả năng do mô vú bình thường chồng lên.

Khối ung thư xâm lấn này có bờ không rõ.

e. Bờ có gai (Spiculated margin)


Tổn thương loại này đặc trưng bởi các đường thẳng tỏa ra từ bờ của khối.

Khối ung thư xâm lấn bờ có gai.

Bệnh nhân nữ 57 tuổi có ung thư biểu mô ống thâm nhiễm.
Phim xq hướng đầu chân A và chếch trong ngoài B cho thấy mật độ khu trú (các mũi tên). Các
phim trên từ sàng lọc, một người đọc kết quả đã cho là âm tính (BI-RADS 1) mặc dù tổn thương
rõ trên các phim. Phim phóng đại khu trú hướng nghiêng thực sự C bộc lộ khối có gai, tất cả các
người đọc cho là rất gợi ý ác tính (BI-RADS 5). (Wendie A. Berg. Breast Imaging Reporting and
Data System: Inter- and IntraobserverVariability in Feature Analysis and FinalAssessment.
AJR:174, June 2000).
1.3. MẬT ĐỘ


Thuật ngữ này được dùng để xác định độ suy giảm tia x của tổn thương so với độ suy
giảm kỳ vọng của mô xơ-tuyến vú có thể tích tương đương. Điều quan trọng là phần lớn các ung
thư vú tạo thành một khối có thể nhận thấy được có mật độ bằng hoặc cao hơn mật độ của cùng
một thể tích mô xơ-tuyến. Hiếm có (mặc dù không phải là không có) ung thư vú có mật độ thấp
hơn. Ung thư vú không bao giờ chứa mỡ (thấu xạ) cho dù mỡ có thể mắc kẹt bên trong.
a. Mật độ cao

Ảnh x quang vú của một khối mật độ cao (February 2011 Radiology, 258, 417-425.)
b. Đồng mật độ (isodense)


Ảnh x quang vú của một khối đồng mật độ (February 2011 Radiology, 258, 417-425.)
c. Mật độ thấp nhưng không chứa mỡ



Ảnh x quang vú của một khối mật độ thấp (February 2011 Radiology, 258, 417-425)
d. Chứa mỡ (Thấu xạ-Radiolucent)
Loại này bao gồm tất cả các tổn thương chứa mỡ như nang dầu, u mỡ, galactocele, cũng
như u mô thừa (hamartoma) hoặc u mỡ-xơ-tuyến (fibroadenolipoma). Bởi vì độ đặc hiệu thấp
hơn độ nhạy, vì vậy điều quan trọng là nhấn mạnh bản chất lành tính của các đặc điểm x quang
vú khi có thể. Một khối chứa mỡ sẽ biểu hiện lấn át là lành tính.

Khối có thể sờ thấy ở đuôi nách này là thấu xạ và có vỏ mỏng. Khối đã được cắt bỏ mặc dù trên
x quang nó rõ ràng là u mỡ và không cần thiết phải lấy đi.


Khối có thể sờ thấy này phát triển ở vùng đã phẫu thuật trước đây. Nó có vỏ mỏng, chứa mỡ
thấu xạ và là một dạng hoại tử mỡ lành tính không yêu cầu điều tra thêm. Kết luận nang dầu sau
chấn thương phẫu thuật.

Hamartoma (mũi tên). Tổn thương hỗn hợp này chứa mỡ và mô xơ-tuyến. Nó lành tính, mặc dù
có thể sờ thấy được, và không yêu cầu điều tra thêm.


Galactocele. Tổn thương sáng hiếm hoi này là một nang chứa sữa có mật độ mỡ cao
2. VÔI HÓA
(Phân loại và Phân bố của Vôi hóa)
Vôi hóa được nhận định lành tính trên phim x quang điển hình là tròn, to và thô với bờ nhẵn và
dễ nhận ra hơn vôi hóa ác tính. Vôi hóa liên quan đến u ác tính (cũng như nhiều loại vôi hóa lành
tính) thường rất nhỏ và cần sử dụng kính phóng đại để nhìn thấy rõ hơn.
Khi không thể đưa ra bệnh căn cụ thể thì mô tả vôi hóa nên có cả hình thái và phân bố của
chúng. Không nhất thiết phải luôn báo cáo vôi hóa lành tính hiển nhiên. Tuy nhiên, nên báo cáo
chúng nếu bác sỹ đọc phim lo ngại các người đọc phim khác có thể diễn giải sai. Vôi hóa mạch

máu được ghi chú trong báo cáo kết quả, đặc biệt ở phụ nữ dưới 50 tuổi có dữ liệu gợi ý nguy cơ
tiềm tàng của bệnh động mạch vành.


Sơ đồ này thể hiện nhiều loại vôi hóa có thể nhìn thấy trên phim x quang vú: (1) các vụn vôi hóa
trong ống dẫn; (2) các vòng vôi hóa đậm, trung tâm sáng trong hoại tử mỡ; (3) vôi hóa lắng
đọng trong các nang nhỏ (cặn vôi); (4) các thể kết ở trong các tiểu thùy giãn dạng nang nhỏ; (5)
viền vôi hóa ở thành nang dịch: (6) lắng đọng ban đầu trong khối u xơ-tuyến thoái triển; (7)
lắng đọng nhiều trong khối u xơ-tuyến thoái triển; (8) vôi hóa mạch máu; (9) vôi hóa da; (10)
vôi hóa hình que trong bệnh chế tiết; (11) lắng đọng đa hình thái ở ung thư nội ống tuyến; (12)
vôi hóa hình đường mảnh ở comedocarcinoma.
2.1. LÀNH TÍNH ĐIỂN HÌNH
a. Vôi hóa của da.
Những nốt vôi tròn hoặc đa giác ở da thường có trung tâm sáng và hình thái của chúng
đặc trưng bệnh. Vôi hóa da đa phần nhìn thấy dọc nếp dưới vú cạnh xương ức, nách và quầng vú.
Các nếp bất thường có thể được xác định là lắng đọng ở da bằng cách chụp vú theo hướng tiếp
tuyến với da phủ trên.

Vôi hóa tròn, trung tâm sáng ở da.


Những nốt vôi có trung tâm sáng và hình đa giác thì hầu như luôn là vôi hóa lành tính của da,
như thấy trong hình A đã được phóng đại nhiều lần. Vôi hóa của da thường thấy dọc bờ xương
ức của vú, như nhìn thấy ở hướng chếch trong – ngoài (hình B) và đầu – chân (hinh C) ở bệnh
nhân thứ hai này. Các nốt vôi có trung tâm sáng tập trung với mật độ cao ở đây do vùng này có
nhiều nang lông.


Có các vôi hóa to, lành tính với trung tâm sáng (mũi tên ngắn) trong hình A, nhưng cũng có
những vi vôi hóa đa hình (mũi tên dài) do ung thư biểu mô nội ống. Hình B phóng đại.

b. Vôi hóa mạch máu
Những đường vôi hóa song song, hoặc những đoạn thẳng vôi hóa liên quan rõ ràng với
các cấu trúc ống.


c. Vôi hóa hình bỏng ngô (popcorn-like) hay thô đại
Những vôi hóa này to (đường kính >2-3mm) kinh điển do u xơ-tuyến thoái triển tạo ra.


Các phim x quang vú trình bày u xơ tuyến thoái hóa có vôi hóa thô đại (A) và hình bỏng ngô (B)
( Indian J Radiol Imaging. 2009 November; 19(4): 282–286.)



Vôi hóa giống hình bỏng ngô điển hình của u xơ tuyến thoái triển, như trong hình chụp hướng
chếch trong ngoài A (hình B phóng đại) và hướng đầu-chân C (hình D phóng đại) ở bệnh nhân
nữ 43 tuổi này.
d. Vôi hóa hình que lớn
Những vôi hóa lành tính này liên quan tới giãn ống dẫn và có thể tạo thành các hình que
đặc, thẳng, nhẵn, hoặc đứt đoạn, đường kính thường ≥ 1mm. Chúng có trung tâm sáng nếu vôi
đọng ở thành ống, và sẽ thường đặc ở các ống bị giãn. Chúng phân bố theo các ống, tỏa tia
hướng tới núm vú, đôi khi phân nhánh và thường ở hai bên vú. Vôi hóa bài tiết thường gặp ở phụ
nữ trên 60 tuổi.

Vôi hóa hình que đặc là điển hình của vôi hóa lành tính do các chất tế bào nội ống trong bệnh
bài tiết, đây là phim hướng nghiêng A và đầu-chân của một bệnh nhân nữ 83 tuổi.


Vôi hóa tiết có thể hình ống với trung tâm sáng, giống như một số vối hóa trong phim hướng
đầu-chân này. Có giả thuyết bệnh là do viêm quanh ống dẫn. (Indian J Radiol Imaging. 2009

November; 19(4): 282–286.)
e. Vôi hóa hình tròn
Khi nhiều, vôi hóa loại này có thể có kích thước khác nhau. Chúng có thể được coi là
lành tính khi phân tán. Khi nhỏ (≤ 1mm), chúng thường được hình thành trong các phế nang của
tiểu thùy. Nếu kích thước nhỏ hơn 0,5mm có thể gọi là “chấm”. Một chùm riêng biệt các chấm
vôi hóa có thể cho phép theo dõi sát hoặc thậm chí sinh thiết nếu mới xuất hiện hoặc cùng bên
với một ung thư (đã biết) cho dù cần phải có nghiên cứu thêm để chứng thực.


Vôi hóa lành tính điển hình. Vôi hóa dạng chấm lan tỏa. Những chấm vôi này xuất hiện ở khắp
hai vú.(V.P. Jackson / Radiol Clin N Am 42 (2004) 853– 870).

Vôi hóa [hình] chùm nang. Hình A cho thấy một nhóm các vôi hóa tròn, nhỏ đứng sát nhau
nhiều khả năng là tiểu thùy vị giãn kiểu vi nang. Sơ đồ B gợi ý sự phát triển của vôi hóa dạng
nang.
f. Vôi hóa trung tâm sáng
Đó là những vôi hóa lành tính có kích thước từ dưới 1mm đến 1cm hoặc lớn hơn. Những
chất lắng đọng đó hình tròn hoặc bầu dục, có bề mặt nhẵn và trung tâm sáng. “Thành” dày hơn
vôi hóa kiểu “vỏ trứng” hoặc “đường viền”. Vôi hóa loại này gồm có các vùng hoại tử mỡ và
mảnh lắng vôi hóa trong các ống tuyến.


Vôi hóa trung tâm sáng do tiến triển lành tính trong ảnh A. Trong trường hợp thứ hai, vôi hóa
trên ảnh phóng đại chếch trong – ngoài B và đầu – chân C tập trung thành đám hình cầu. Chúng
đã được theo dõi và cuối cùng tạo thành lắng cặn hình cầu (D, E) nhiều khả năng do hoại tử mỡ
(Lưu ý cũng có các chấm vôi hóa khác được hình thành trong thời kỳ chuyển tiếp).
g. Vôi hóa kiểu “vỏ trứng” hoặc “đường viền”
Những vôi hóa lành tính này rất mỏng xuất hiện dưới dạng lắng đọng vôi trên bề mặt của
một khối cầu. Những lắng đọng đó có chiều dày thành mỏng dưới 1mm. Hoại tử mỡ và vôi hóa
thành nang là nguyên nhân phổ biến nhất của vôi hóa đường viền.



Nang dầu. Khối chứa mỡ, bờ rõ này (mũi tên) là kết quả của phẫu thuật thu nhỏ tạo hình vú.
Một dải xơ (đầu mũi tên) ở bên dưới nang dầu. Tiến triển này biểu hiện lành tính trên x quang.
Không cần đánh giá thêm hoặc can thiệp.(V.P. Jackson / Radiol Clin N Am 42 (2004) 853– 870)

Vôi hóa đường viền mỏng thường vạch ra thành nang. Trong trường hợp này đường nét của
nang 1cm có thể nhìn thấy rõ trong mô dày đặc bởi vì viền vôi ở thành.
h. Vôi hóa dạng “sữa canxi”
Đây là biểu hiện của vôi hóa lắng đọng trong các nang lớn và nhỏ. Trên ảnh hướng đầuchân chúng thường kém rõ và các lắng đọng vô định hình, tròn, mờ nhạt, trong khi trên phim
nghiêng 900 chúng thường hình lưỡi liềm, hình bán nguyệt, bờ rõ hình đoạn thẳng hoặc đường
cong lắng đọng ở phần thấp của các nang. Một đặc điểm quan trọng nhất của vôi hóa loại này là


sự thay đổi hình dạng của chúng theo các hướng chụp x quang vú khác nhau (hướng đầu chân so
với chếch hoặc nghiêng bên 900).

Các lớp sữa canxi trong các nang. Ở cá nhân này (hình A) chỉ vừa đủ nhìn thấy nang (mũi tên)
trên phim hướng đầu-chân bởi vì chùm tia đi qua một lớp canxi rất mỏng. Trên phim B chụp
nghiêng phóng đại, lớp canxi vẽ ra đáy cong lồi của nang. Hiện tượng này được mô tả bằng sơ
đồ trong ảnh C, theo đó sữa canxi tạo thành “vũng” canxi ở phần thấp của nang. Khi nhìn từ
trên xuống theo phim chụp đầu-chân, mật độ canxi giảm từ trung tâm ra ngoại vi, tạo thành hình
thái vô định hình. Trong phim chụp hướng nghiêng, vôi tạo thành một bóng hình lưỡi liềm lõm
xuống.


Hiện tượng được lấy thí dụ như các bông tuyết lắng đọng trong quả cầu thủy tinh chặn giấy
(trên cùng) sau khi lắc, chúng ta chụp ở hướng nghiêng và từ trên xuống.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×