Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Công ước basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và tiêu hủy chúng vấn đề thực hiện tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (0 B, 117 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỲNH DUNG

CÔNG ƢỚC BASEL VỀ KIỂM SOÁT VẬN CHUYỂN CHẤT
THẢI NGUY HẠI QUA BIÊN GIỚI VÀ TIÊU HỦY CHÚNG VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN QUỲNH DUNG

CÔNG ƢỚC BASEL VỀ KIỂM SOÁT VẬN CHUYỂN CHẤT
THẢI NGUY HẠI QUA BIÊN GIỚI VÀ TIÊU HỦY CHÚNG VẤN ĐỀ THỰC HIỆN TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số:


60380108

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Ly Anh

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quỳnh Dung


LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu công tác thực
tiễn, được sự hướng dẫn, giảng dạy của Quý thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình của cơ quan cùng với sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã
hoàn thành Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Qua đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng quý thầy cô Trường Đại học Luật Hà Nội, các
Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sỹ đã tận tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến
thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Khoa Sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện

quản lý đào tạo, cung cấp thông tin cần thiết về quy chế đào tạo cũng như
chương trình đào tạo một cách kịp thời, tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận
văn này đúng tiến độ.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến cô giáo TS. Hoàng Ly Anh
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận
văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên giúp đỡ tôi trong
suốt thời gian học tập.
Tác giả luận văn

Nguyễn Quỳnh Dung


Danh mục từ viết tắt
BLHS
Công ước Basel

Công ước Marpol
EU

Bộ luật Hình sự
Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy
hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng năm 1989
Công ước Marpol về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu gây ra
năm 1973
Liên minh châu Âu

OECD

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế


UNEP

Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
Chƣơng 1.NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CÔNG ƢỚC BASEL VỀ
KIỂM SOÁT VẬN CHUYỂN CHẤT THẢI NGUY HẠI QUA BIÊN
GIỚI VÀ TIÊU HỦY CHÚNG NĂM 1989 .................................................. 8
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển Công ƣớc Basel ........................... 8
1.1.1. Sự cần thiết ra đời điều ước quốc tế điều chỉnh việc vận chuyển
chất thải nguy hại xuyên biên giới ............................................................ 8
1.1.2. Quá trình đàm phán và quan điểm của các quốc gia khi xây
dựng Công ước Basel..
11
1.1.3. Những mục tiêu chính của Công ước Basel .............................. 12
1.1.4. Sự phát triển của Công ước Basel từ khi có hiệu lực đến nay . 13
1.1.4.1. Bản sửa đổi Công ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên
biên giới và tiêu hủy chúng và Nghị định thư Basel về Trách nhiệm và
bồi thường thiệt hại gây ra từ vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên
giới và việc tiêu hủy chúng .................................................................... 14
1.1.4.2. Ủy ban quản lý cơ chế thúc đẩy việc thực hiện và tuân thủ .. 16


1.2.
Nội dung chính của Công ƣớc Basel về kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng ........................................ 17
1.2.1. Phạm vi áp dụng của Công ước ................................................. 18
1.2.1.1. Các loại chất thải nguy hại theo Công ước ........................... 18
1.2.1.2. Yếu tố vận chuyển xuyên biên giới......................................... 21
1.2.2. Quyền và nghĩa vụ cơ bản của các quốc gia thành viên ........... 23
1.2.2.1. Quyền cấm xuất khẩu, nhập khẩu chất thải nguy hại ............ 23
1.2.2.2. Quy định về quản lý môi trường bền vững ............................ 24
1.2.2.3. Thông báo hoạt động vận chuyển xuyên biên giới ................ 25
1.2.3. Cơ chế đảm bảo thực hiện Công ước đối với các quốc gia thành
viên
...................................................................................................... 30
1.2.3.1. Ở cấp độ quốc gia .................................................................. 31
1.2.3.2. Cấp độ quốc tế ....................................................................... 33


1.2.4. Giải quyết tranh chấp theo Công ước Basel .............................. 36
Chƣơng 2.THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC BASEL VỀ KIỂM SOÁT VẬN
CHUYỂN CHẤT THẢI NGUY HẠI XUYÊN BIÊN GIỚI VÀ TIÊU
HỦY CHÚNG TẠI VIỆT NAM .................................................................. 39
2.1. Xây dựng hệ thống quy định pháp luật về kiểm soát vận chuyện chất
thải nguy hại xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng theo Công ƣớc ...... 39
2.1.1. Khái quát hệ thống văn bản pháp luật về kiểm soát và tiêu hủy
chất thải nguy hại xuyên biên giới .......................................................... 40
2.1.2. Khái niệm chất thải nguy hại và phân biệt phế liệu và chất thải 42
2.1.2.1. Quy định về chất thải nguy hại ................................................. 42
2.1.2.2. Phân biệt chất thải và phế liệu .................................................. 46
2.1.3. Quy định về xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh chất thải, phế liệu49

2.1.3.1. Quy định cấm nhập khẩu chất thải ........................................... 49
2.1.3.2. Quy định về nhập khẩu phế liệu ............................................... 50
2.1.4. Quản lý hoạt động kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại
xuyên biên giới ......................................................................................... 52
2.1.4.1. Cấp sổ đăng ký chủ nguồn thải và giấy phép quản lý chất thải
nguy hại ................................................................................................ 53
2.1.4.2. Đơn giản hóa thủ tục hành chính về chất thải nguy hại ........... 55
2.1.4.3. Thủ tục vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới ........... 56
2.1.5. Trách nhiệm của các chủ thể có liên quan đến hoạt động kiểm
soát vận chuyển chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng .......................... 57
2.1.6. Quy định về tiêu hủy, xử lý chất thải nguy hại ............................ 59
2.2. Cơ chế thực hiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy
hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng tại Việt Nam .................................. 61
2.2.1. Tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất thải
nguy hại xuyên biên giới theo Công ước Basel ...................................... 61
2.2.2. Giám sát thanh tra và xử lý vi phạm trong hoạt động kiểm soát
vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới...................................... 65
2.2.3. Công tác xử lý chất thải nguy hại tại Việt Nam ........................... 67


Chƣơng 3.TĂNG CƢỜNG HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CÔNG ƢỚC
BASEL VỀ KIỂM SOÁT VẬN CHUYỂN CHẤT THẢI NGUY HẠI
XUYÊN BIÊN GIỚI VÀ TIÊU HỦY CHÚNG TẠI VIỆT NAM ............ 70
3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại... 70
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hại............................................................................................. 70
3.1.2. Một số kiến nghị cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát vận chuyển chất thải nguy hại......................................................... 72
3.2. Hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm soát vận
chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới.................................................. 76

3.2.1. Định hướng hoàn thiện cơ chế thực hiện kiểm soát vận chuyển
chất thải nguy hại xuyên biên giới .......................................................... 76
3.2.2. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật về kiểm
soát vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới .............................. 78
3.2.2.1. Giải pháp về tổ chức, quản lý và cơ chế, chính sách ............ 78
3.2.2.2. Giải pháp về truyền thông và phát triển nguồn nhân lực...... 80
3.2.2.3. Giải pháp về đầu tư và tài chính............................................ 81
3.2.2.4. Giải pháp về giám sát, kiểm tra, thanh tra ............................ 82
3.2.2.5. Giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và nghiên cứu, phát triển công nghệ84
3.2.2.6. Giải pháp về đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường trao đổi
và hợp tác kỹ thuật với các tổ chức quốc tế .......................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường luôn là tâm điểm quan tâm của nhân loại và từng quốc gia.
Thực tiễn đã chứng minh, không một quốc gia nào có thể phát triển bền vững
nếu không đặt vấn đề môi trường làm nền tảng cho phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn đề không phải của riêng bất kỳ
quốc gia nào. Tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng, sự bùng nổ dân số và gia
tăng hoạt động sản xuất là những nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm, thậm chí hủy
hoại môi trường với tốc độ ngày càng gia tăng.
Trong các tác nhân gây ô nhiễm môi trường, chất thải nguy hại: như bụi
công nhiệp, chất thải công nghiệp, chất thải y tế, chất thải sinh hoạt,… từ
chính hoạt động sản xuất và tiêu dùng của con người là những nguồn ô nhiễm

rất nghiêm trọng. Bên cạnh đó, các nước đang và chậm phát triển còn phải đối
mặt với thực tế không chỉ phải xử lý chất thải trong nước mà còn phải chịu
thêm nguồn phế thải nhập khẩu từ nước phát triển.
Nguy cơ vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới ngày càng tăng
do các nước phát triển ngày càng sản sinh ra nhiều chất thải nói chung và chất
thải nguy hại nói riêng và do hệ quả của việc gia tăng sản xuất các sản phẩm
công nghiệp và nhân tạo. Hơn nữa, mức thuế môi trường ở các nước phát
triển đối với việc tiêu hủy chất thải nguy hại cao hơn nhiều lần so với các
nước đang phát triển. Trong khi đó ở các nước có trình độ phát triển thấp, việc
nhập khẩu phế liệu (là chất thải) từ những nước phát triển nhiều khi mang lại
lợi ích không hề nhỏ. Đó chính là một phần nguyên nhân khiến nạn vận
chuyển chất thải nguy hại diễn ra ngày càng phức tạp, gây ảnh hưởng không
nhỏ đến sức khỏe con người và môi trường.
Trước thực tế gia tăng vận chuyển chất thải nguy hại, cộng đồng quốc
tế đã nhận thấy sự cần thiết phải quản lý chất thải nguy hại nói chung và kiểm


2

soát chất thải nguy hại nói riêng. Vì vây, ngay từ đầu những năm 80 của thế
kỷ XX, việc quản lý chất thải nguy hại đã được xác định một trong ba vấn đề
ưu tiên trong Chương trình Montevideo của UNEP về Luật môi trường.1 Ngày
22/3/1989, sau hai năm thương lượng, văn bản Công ước Basel về kiểm soát
vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng (Công ước
Basel) đã được tất cả các thành viên đàm phán nhất trí thông qua. 105 quốc
gia và Cộng đồng kinh tế châu Âu đã ký vào văn bản cuối cùng của Hội nghị
Basel. Ba năm sau, ngày 5/5/1992, Công ước Basel chính thức có hiệu lực,
đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc kiểm soát hiệu quả vận chuyển chất
thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng. Ngày 13/3/1995, Việt Nam
được chấp thuận gia nhập Công ước và ngày 11/6/1995, Công ước chính thức

có hiệu lực đối với Việt Nam.
Là một thành viên của Công ước Basel, Việt Nam đã và đang thực hiện
nghiêm chỉnh các quy định của Công ước Basel thông qua xây dựng hệ thống
các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động kiểm soát vận chuyển chất thải
nguy hại cũng như tổ chức thực hiện các quy định này trên thực tiễn. Tuy
nhiên, ở Việt Nam, tình hình vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới
dưới danh nghĩa phế liệu đã và đang diễn biến rất phức tạp. Có thể nêu vài
trường hợp điển hình như: Trong 8 tháng đầu năm 2008, chỉ riêng Hải quan
Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Cảnh sát môi trường và Sở Tài nguyên
và Môi trường kiểm tra chất lượng hàng nhập khẩu, đã phát hiện và xử lý gần
20 vụ nhập khẩu phế liệu không đạt tiêu chuẩn theo quy định bảo vệ môi
trường, với số lượng phế liệu lên đến hàng trăm tấn.2 Ngày 30/7/2008, Sở tài
nguyên và Môi trường Đà Nẵng cùng với Cảnh sát Môi trường Đà Nẵng và
Chi cục Hải quan Cảng Đà Nẵng khu vực II đã kiểm tra và phát hiện Công ty
cổ phần Thép Thành Lợi nhập khẩu 18 container rác phế liệu không đủ điều
1

Xem History of the negotiations of the Basel Convention,
/>2
Nguyễn Đức Việt, (2010), Môi trường Việt Nam và việc thực thi công ước Basel 1989 trong thời ký hội
nhập, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr 3.


3

kiện nhập khẩu do lẫn các chất độc hại như thủy ngân, asen, selen,…3 Gần
đây nhất là vụ việc xả thải xuống biển của con tàu trọng tải khoảng 100 tấn
thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hiệp Thành ngày 12/9/2016.4 Tại thời
điểm bị bắt quả tang, chủ tàu đã không xuất trình được giấy tờ hợp pháp về số
lượng chất thải trên tàu; chất thải theo lời khai của thuyền trưởng là “bùn nạo

vét luồng của Cảng Gang thép Nghi Sơn”; cơ quan chức năng Nghệ An đã lấy
mẫu chất thải để giám định…
Những vụ nhập khẩu chất thải, xả thải trái phép kể trên đã và đang trở
nên ngày càng phức tạp, nó không chỉ gây ô nhiễm cho môi trường sống vốn
đang bị quá tải, đe dọa sức khỏe của cộng đồng mà còn làm phức tạp thêm
trật tự quản lý nhà nước. Đồng thời với tư cách là thành viên của Công ước
Basel năm 1989 và Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS),
Việt Nam không chỉ có trách nhiệm tuân thủ các điều ước quốc tế này và phải
có trách nhiệm thực thi tốt các điều luật và quy định về vận chuyển chất thải
nguy hại xuyên biên giới cũng như xả thải xuống biển.
Sau hơn 20 năm tham gia Công ước Basel, việc thực thi công ước ở
Việt Nam dần được xây dựng và hoàn thiện trong các văn bản pháp lý của
Việt Nam. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã dành hẳn một chương quy
định về quản lý chất thải trong đó có cả quy định về quản lý chất thải nguy
hại. Tuy nhiên việc thực thi chúng ở Việt Nam liệu đã hiệu quả, khi mà gần
đây cơ quan chức năng vẫn phát hiện hàng loạt vụ vi phạm pháp luật về vận
chuyển phế liệu chứa chất thải nguy hại vào Việt Nam hay việc xả thải trực
tiếp ra môi trường mà chưa qua xử lý. Trước tình hình đó, tác giả lựa chọn đề
tài “Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên
3

Trang điện tử thành phố Đà nẵng, Về xử lý đối với lô hàng sắt thép phế liệu nhập khẩu của Công ty cổ phần
thép Thành Lợi, đăng tải: 26/08/2008, truy cập 26/7/2017.
Link />4
Song Hà, Kiểm soát chặt, xử lý nghiêm hành vi xả thải xuống biển, đăng tải 13/9/2016, truy cập 26/7/2017
/>

4

giới và tiêu hủy chúng - vấn đề thực hiện tại Việt Nam” làm đề tài cho luận

văn thạc sĩ Luật, chuyên ngành Luật quốc tế. Trong luận văn này, thuật ngữ
“qua biên giới” và “xuyên biên giới” được hiểu như nhau.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về mặt lý luận, ngay từ khi ra đời Công ước Basel đã nhận được sự
quan tâm của nhiều học giả tiêu biểu là Katharina Kummer, tác giả của hàng
loạt công trình nghiên cứu liên quan đến Công ước Basel, chẳng hạn như
cuốn sách “International Management of Hazardous Wastes” xuất bản năm
1995, đã phân tích và đánh giá về các quy định của Công ước Basel. Trang
thông tin điện tử của Công ước Basel (www.basel.intl) đã cung cấp rất nhiều
tài liệu làm rõ và hướng dẫn các quy định của Công ước.
Ở Việt Nam, từ trước đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên
cứu đầy đủ về Công ước Basel. Phần lớn là những bài báo, tạp chí chuyên
ngành về vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung, hoặc là vấn đề nhập khẩu phế
liệu, vận chuyển chất thải xuyên biên giới nói riêng như: Bài viết của Nguyễn
Văn Phương: "Việt Nam với việc thực thi Công ước BASEL về kiểm soát chất
thải xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng", Tạp chí Khoa học pháp lý, số
2/2006; luận án tiến sĩ của Nguyễn Văn Phương với đề tài: "Pháp luật môi
trường về hoạt động xuất nhập khẩu phế liệu ở Việt Nam"… Ngoài ra còn có
một số khóa luận tốt nghiệp và luận văn thạc sĩ có liên quan đến Công ước
Basel: Nguyễn Thị Quỳnh Anh, “Đánh giá hoạt động xây dựng và áp dụng
pháp luật của Việt Nam nhằm thực thi Công ước Basel” khoá luận tốt nghiệp,
Hà Nội, 2008; Nguyễn Đức Việt, “Môi trường Việt Nam và việc thực thi Công
ước Basel 1989 trong thời kỳ hội nhập”, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội 2010. Đặc
biệt các công trình nghiên cứu này đều nghiên cứu ở những mức độ nhất định,
một số nội dung mà những công trình này nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên
cứu này còn chưa đầy đủ do đối tượng và dung lượng của công trình nghiên
cứu. Đây là những khó khăn rất lớn đối với tác giả trong việc tìm kiếm thông
tin cho việc hoàn thiện luận văn.



5

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1.

Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về Công ước Basel cụ thể là về các quy

định kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới, các thiết chế
được thành lập trong khuôn khổ Công ước thúc đẩy việc thực thi. Bên cạnh
đó luận văn cũng nghiên cứu các quy định của pháp luật việt Nam trong việc
kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại
3.2.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là quá trình hình thành và xây dựng

Công ước Basel từ khi soạn thảo đến nay, và pháp luật Việt Nam vầ quản lý,
kiểm soát chất thải nguy hại. Trong đó luận văn tập trung phân tích việc thực
thi pháp luật trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại đặc biệt là hoạt động
vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới. Từ đó rút ra kết luận làm cơ sở
cho việc đề ra những phương hướng và giải pháp trong thời gian tới.
Về không gian, ngoài việc nghiên cứu các quy định pháp luật của Việt
Nam, tác giả còn tìm hiểu một số quy định pháp luật cũng như thực tiễn thực
hiện Công ước Basel ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ khác như Liên minh
Châu Âu, Philippine, Hoa Kỳ,… để làm tư liệu cho luận văn
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đưa ra cái nhìn tổng quát về Công
ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu
hủy chúng thông qua phân tích một số nội dung cơ bản của Công ước: đối

tượng điều chỉnh của Công ước, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các quốc
gia thành viên, cơ chế thực thi công ước và giải quyết tranh chấp. Bên cạnh
đó, luận văn nghiên cứu quá trình tổ chức, thực thi Công ước tại Việt Nam từ
đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm
soát vận chuyển chất thải nguy hại và việc tiêu hủy chúng.
5. Câu hỏi nghiên cứu


6

Để đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả đã xác định một số câu hỏi mà
đề tài cần nghiên cứu là: Công ước Basel được ra đời trong hoàn cảnh nào?
Các vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát và vận chuyển chất thải nguy hại đã
được Công ước Basel quy định như thế nào? Nội dung cơ bản của pháp luật
kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng ở Việt Nam quy
định như thế nào, có tương thích với công ước Basel? Pháp luật về kiểm soát
vận chuyển chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng cần hoàn thiện theo hướng
nào để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc thực hiện đề tài được tiến hành dựa trên các nguyên tắc của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng các phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp, phương
pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết
hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Tác giả tiến hành tổng hợp nội dung từ
các nguồn chính thức để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của Công
ước Basel. Sau đó, bằng phương pháp phân tích, tác giả đi vào từng khía cạnh
của quy định trong Công ước. Phương pháp đánh giá, so sánh luật học và thu
thập số liệu sẽ được sử dụng trong quá trình đánh giá các quy định pháp luật
và việc thực thi Công ước ở Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận văn làm cơ sở để thực hiện hiệu quả hơn
Công ước Basel tại Việt Nam, đồng thời đóng góp những giải pháp cho công
tác quản lý việc vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và việc tiêu hủy
chúng nói riêng và việc quản lý chất thải nguy hại nói chung tại Việt Nam.
- Làm cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về môi trường
nói chung và pháp luật về quản lý các chất thải nguy hại nói riêng.


7

- Làm tài liệu nghiên cứu, học tập về xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính
sách quản lý vận chuyển chất thải nguy hại qua biên giới và việc tiêu hủy
chúng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Luận văn có kết cấu gồm 03 chương, gồm:
Chương 1: Những vấn đề chung của Công ước Basel về kiểm soát vận
chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng năm 1989
Chương 2: Thực hiện Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng tại Việt Nam
Chương 3: Nâng cao hiệu quả thực hiện Công ước Basel về kiểm soát
vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới


8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA CÔNG ƢỚC BASEL VỀ KIỂM
SOÁT VẬN CHUYỂN CHẤT THẢI NGUY HẠI QUA BIÊN GIỚI VÀ
TIÊU HỦY CHÚNG NĂM 1989
Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại qua biên

giới và tiêu hủy chúng (Công ước Basel) là văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên
điều chỉnh vấn đề kiểm soát vận chuyển chất thải nguy hại. Được thông qua
năm 1989 tại Basel, Công ước ra đời với mục đích bảo vệ sức khỏe con người
và môi trường chống lại những tác động tiêu cực của chất thải nguy hại. Cho
đến nay sau gần 30 năm, Công ước Basel vẫn được đánh giá là “điều ước
quốc tế về chất thải nguy hại có phạm vi rộng và ý nghĩa nhất”.5
Chương 1 khái quát những vấn đề cơ bản nhất của Công ước Basel về
kiểm soát và vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới. Chương này khái
lược sự ra đời của Công ước, các yếu tố tác động tới quá trình xây dựng Công
ước cũng như thực trạng sản sinh chất thải nguy hại, thực trạng vận chuyển
tiêu hủy kiểm soát vẩn chuyển tiêu hủy xuyên biên giới; một số nội dung cơ
bản của Công ước như khái niệm chất thải nguy hại, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của các quốc gia thành viên và cơ chế thực thi Công ước.
1.1.

Lịch sử hình thành và phát triển Công ƣớc Basel
1.1.1. Sự cần thiết ra đời điều ước quốc tế điều chỉnh việc vận
chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, số lượng chất thải nguy hại trên thế

giới tăng nhanh với cấp số nhân,6 do sự gia tăng nhu cầu sử dụng của con
người và sự phát triển của ngành sản xuất công nghiệp. Năm 1947, thế giới
sản xuất ra khoảng năm triệu tấn chất thải nguy hại, năm 1990 con số này đã
5

Sejal Choksi, The Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous Wastes and
Their Disposal: 1999 Protocol on Liability and Compensation, 28 Ecology L. Q. (2001), p. 518
6
Maureen T Walsh, The Global Trade on Hazardous Wastes: Domestic and International Attempts to Cope
with a Growing Crisis in Waste Management, 42 CathU.L.REV, 1992, p. 103.



9

tăng gấp 60 lần lên mức 300 triệu tấn.7 Cho đến nay, theo ước tính, mỗi năm
tổng lượng chất thải nguy hại do con người tạo ra là hơn 400 triệu tấn.8 Hơn
chín mươi phần trăm số chất thải này có nguồn gốc từ các nước phát triển
thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Vào cuối những năm
1980, những quy định chặt chẽ về môi trường tại các nước công nghiệp phát
triển như Hoa Kỳ và việc khan hiếm các cơ sở xử lý chất thải nguy hại dẫn
đến chi phí xử lý chất thải trong nước tăng cao. Để tiết kiệm chi phí xử lý chất
thải, các doanh nghiệp của những nước này đã vận chuyển chất thải sang các
nước đang phát triển ở khu vực châu Phi, châu Á và Mỹ Latinh để xử lý.
Việc xuất khẩu chất thải nguy hại để xử lý tại các quốc gia đang phát
triển đã đặt ra câu hỏi về sự công bằng, gây ra những vấn đề môi trường
nghiêm trọng đối với quốc gia đó, đồng thời ảnh hưởng đến môi trường toàn
cầu. Trên thực tế, mối quan tâm về công bằng môi trường được hình thành từ
khi các nước công nghiệp phát triển “trục lợi” từ việc lợi dụng vị thế kinh tế
thấp hơn của các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển hay các nước
nghèo buộc phải đặt ưu tiên phát triển kinh tế lên trên môi trường, do vậy,
những nước này đã đề nghị một khoản ngoại tệ tương ứng để họ chấp nhận
chất thải độc hại được vận chuyển qua đường biển. Bên cạnh đó, những quốc
gia này thường thiếu cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ để quản lý loại chất
thải này, do vậy chất thải nguy hại sẽ là nguy cơ tiềm tàng gây ra ô nhiễm đất
đai, nước ngầm và bệnh tật cho con người cũng như những thảm họa môi
trường không thể khắc phục.
Các vấn đề môi trường phát sinh từ việc xử lý chất thải nguy hại ở các
nước đang phát triển lần đầu tiên thu hút sự chú ý của quốc tế vào cuối những
năm 1980, khi một số vụ việc vứt bỏ chất thải ở châu Phi được báo cáo. Một
trong những trường hợp vận chuyển chất thải bất hợp pháp xảy ra ở Nigeria.9

7

Sejal Choksi, The Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous Wastes and
Their Disposal: 1999 Protocol on Liability and Compensation, 28 Ecology L. Q. (2001), p. 512
8
Xem />9
Zada Lipmam, Trade in Hazardous Waste: Environmental Justice Versus Economic Growth, Link:
/>

10

Một công dân Ý, làm việc ở Nigeria đã có giấy phép nhập khẩu sản phẩm, sau
đó thay thế bằng hàng ngàn tấn chất thải độc hại và phóng xạ ở nồng độ cao.
Những khoang chứa chất thải đã bị rò rỉ và gây ảnh hưởng nghiêm trọng cho
người lao động thực hiện đóng gói chúng để trả về Ý cũng như môi trường
của Nigeria. Năm 1988, Guinea-Bissau đã ký hợp đồng trị giá 600 triệu đô la
- gấp bốn lần tổng sản lượng quốc gia - để thải 15 triệu tấn chất thải độc hại
trong vòng năm năm. Hợp đồng này không bao giờ thực thi vì mối lo ngại
ảnh hưởng đến môi trường của người dân Guinea-Bissau.10
Vụ việc Khian Sea được coi là “sự xấu hổ của Hoa Kỳ”.11 Năm 1986,
sau những nỗ lực xả thải trong nước thất bại, 15.000 tấn tro rác được dán nhãn
“phân bón”, chất lên con tàu Khian Sea ở Philadelphia. Rất nhiều bến cảng đã
từ chối con tàu này bao gồm cả Bahamas và Haiti và vụ việc này đã bị tổ chức
Hòa Bình Xanh đưa ra ánh sáng. Tuy nhiên đội tàu đã đổi tên con tàu thành
Pelicano và tiếp tục tìm chỗ vứt rác. Những hồ sơ đã ghi nhận con tàu đầy
chất độc hại đã “biến mất”, trong khi đó 3.000 – 4.000 tấn tro độc tiếp tục làm
ô nhiễm bờ biển Haiti và rất nhiều người nghi ngờ phần còn lại của số chất
thải trên vẫn đang nằm dưới đáy biển Ấn Độ Dương.12
Nhờ có sự tham gia tích cực của truyền thông trong những thảm họa và
vụ việc tương tự mà thế giới đã nhận thức được về khủng hoảng xả thải ở tầm

quốc tế. Sự phản đối kịch liệt từ phía công chúng và sự quan tâm của chính
quyền đã giúp các chính trị gia thấy được sự cần thiết hình thành những quy
định thống nhất về thương mại chất thải. Đây là một trong những lý do chính
dẫn đến việc xây dựng một công ước quốc tế điều chỉnh về vấn đề vận chuyển
chất thải nguy hại xuyên biên giới.

10

Zada Lipmam, tlđd 9.
Sejal Choksi, tlđd 5, tr. 515.
12
Sejal Choksi, tlđd 5, tr. 515.
11


11

1.1.2. Quá trình đàm phán và quan điểm của các quốc gia khi xây dựng
Công ước Basel
Việc quản lý chất thải nguy hại đã xuất hiện trong chương trình nghị sự
về môi trường quốc tế từ đầu những năm 1980, khi nó là một trong ba lĩnh
vực ưu tiên tại Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (United Nations
Environment Programmes – UNEP). Năm 1982, UNEP thành lập một nhóm
công tác để phát triển một bản hướng dẫn cách thức mua bán chất thải nguy
hại theo cách thức an toàn hơn. Nhóm công tác này đã đưa ra Bản hướng dẫn
Cairo một bộ các đề xuất hướng đến việc khuyến khích các nước thiết lập các
quy định riêng về mua bán chất thải nguy hại. Mặc dù bản hướng dẫn này
thiếu giá trị pháp lý trên thực tế nhưng chúng đã thúc đẩy các quốc gia cần
quan tâm hơn đến sự gia tăng các giao dịch mua bán chất thải nguy hại từ đó
đặt ra yêu cầu xây dựng một điều ước quốc tế có tính ràng buộc để quản lý và

kiểm soát các giao dịch này.
Vào tháng 6 năm 1987, UNEP đã triệu tập một nhóm công tác với
nhiệm vụ soạn thảo một công ước toàn cầu về việc kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hại xuyên biên giới. Nhóm công tác đã làm việc trong hai năm và
đến tháng 3 năm 1989 đã tổ chức tất cả năm cuộc đàm phán. Tuy nhiên, các
cuộc đám phán để cho ra đời Công ước Basel đã cho thấy những quan điểm
hết sức trái ngược giữa các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển.
Một số quốc gia đang phát triển, dẫn đầu là các thành viên của Tổ chức châu
Phi Thống nhất (OAU) yêu cầu xây dựng quy định ngăn chặn hoàn toàn hành
vi vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới. Trong khi đó, các nước phát
triển (giữa họ đã có việc mua bán phế liệu có thể tái chế) mong muốn có một
cơ chế kiểm soát, quan tâm đến việc các nước tiếp nhận sẽ chấp nhận nhập
khẩu chất thải nguy hại theo pháp luật quốc gia đó. Các nước này lập luận
việc cấm hoạt động thương mại đối với chất thải nguy hại không dựa trên lợi
ích tốt nhất của môi trường và lập luận rằng một lệnh cấm hoàn toàn và vô


12

điều kiện sẽ vi phạm Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT).13
Việc đàm phán tiếp tục bị cản trở và chưa thể kết thúc bởi những khó khăn
trong yếu tố chính trị chứ không phải do yếu tố kỹ thuật.
Sau những cuộc đàm phán căng thẳng, Hội nghị Bộ trưởng về Công
ước quốc tế về kiểm soát vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại đã
được triệu tập từ ngày 20-22 tháng 3 năm 1989 tại Basel với sự tham gia của
116 quốc gia để xem xét dự thảo cuối cùng của Công ước. Hội nghị đã nhất trí
thông qua Công ước vào ngày 22 tháng 3 năm 1989.14 Đến ngày 22 tháng 3
năm 1990 khi Công ước Basel kết thúc quá trình ký kết theo Điều 21, 53 quốc
gia và Cộng đồng Kinh tế Châu Âu đã đặt bút ký vào văn kiện thông qua
Công ước. Công ước chính thức có hiệu lực từ ngày 5 tháng 5 năm 1992.15

Cho đến tháng 8 năm 2017 đã có 186 quốc gia và vùng lãnh thổ phê chuẩn
Công ước.16
1.1.3. Những mục tiêu chính của Công ước Basel
Công ước Basel ra đời nhằm giải quyết vấn đề kiểm soát việc vận
chuyển chất thải nguy hại và tiêu hủy chúng. Mục đích bao quát của Công
uớc Basel là bảo vệ sức khỏe con người và môi trường trước những tác hại
của chất thải nguy hại. Hiểu theo nghĩa rộng hơn, Công ước hướng tới việc
quản lý môi trường bền vững đối với chất thải nguy hại và các loại chất thải
khác, điều này cũng là mục tiêu mà đa phần các điều ước quốc tế về môi
trường đều hướng tới. Các điều khoản của công ước được xây dựng dựa trên
các mục đích cơ bản: (i) Cắt giảm việc tạo ra chất thải nguy hại và thúc đẩy
quản lý môi trường bền vững đối với chất thải nguy hại, với bất kỳ địa điểm
13

Tatiana Terekhova, The Basel Convention: a tool for conbating environment crime and enhancing the
management of hazardous and other waste, Handbook of Transnational Environmental Crime, 2016, p. 423.
14
Katharina Kummer Peiry, Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous
Wastes and their Disposal, />15
Katharina Kummer Peiry, Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous
Wastes and their Disposal, />16
Basel Convention, Parties to the Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of
Hazardous Wastes and their Disposal, số liệu cập nhật đến ngày 4/8/2017.
/>

13

tiêu hủy nào; (ii) hạn chế vận chuyển rác thải xuyên biên giới trừ khi nhận
thấy việc đó là phù hợp với nguyên tắc quản lý môi trường bền vững; và (iii)
một hệ thống quy định pháp luật sẽ áp dụng để cấp phép cho trường hợp vận

chuyển xuyên biên giới.
Để cụ thể hóa các mục đích này, Công ước đưa ra các mục tiêu cụ thể
như:
- Giảm thiểu tối đa việc xả thải ở cả số lượng và khả năng gây độc
hại, cần tính đến các yếu tố xã hội, kỹ thuật và kinh tế.
- Xử lý và tiêu hủy chất thải nguy hại càng gần địa điểm phát thải
càng tốt.
- Đảm bảo địa điểm tiêu hủy phải có sẵn cơ sở vật chất thích hợp với
việc tiêu hủy.
- Bảo vệ con người liên quan đến việc quản lý chất thải và đảm bảo
tiến hành các bước cần thiết để ngăn ngừa ô nhiễm từ hoạt động
quản lý đó.
- Giảm thiểu hoạt động vận chuyển chất thải và phế thải khác xuyên
biên giới tương thích với việc quản lý môi trường hiệu quả và bền
vững.
- Kiểm soát vận chuyển chất thải xuyên biên giới, giám sát và ngăn
chặn hành vi vận chuyển trái phép.
1.1.4. Sự phát triển của Công ước Basel từ khi có hiệu lực đến nay
Sự ra đời của Công ước Basel được đánh giá là “điều ước quốc tế về
chất thải nguy hại có phạm vi rộng và ý nghĩa nhất”, 17 tuy nhiên cũng còn
nhiều tổ chức môi trường và các quốc gia phát triển chỉ trích Công ước Basel.
Họ cho rằng một trong những lỗ hổng của Công ước là không xây dựng đề
xuất để giảm thiểu thiệt hại từ tai nạn do chất thải nguy hại gây ra. Bên cạnh
đó, Điều 11 của Công ước cũng bị chỉ trích vì không điều chỉnh tất cả các
hoạt động vận chuyển chất thải theo các thỏa thuận song phương và đa
17

Sejal Choksi, tlđd 5, tr. 518.



14

phương của các quốc gia không phải là thành viên. Mặc dù Điều 11 cũng quy
định các thỏa thuận đó quy định “không kém bền vững về môi trường hơn so
với các quy định của Công ước Basel”.18 Một số ý kiến cho rằng ngôn ngữ sử
dụng trong Công ước quá mơ hồ và các quốc gia phát triển có thể phá vỡ
Công ước bằng cách không tuân thủ các thỏa thuận, các quốc gia phát triển có
thể theo đuổi những lợi ích kinh tế.19 Tiếp thu những lời nhận xét, các bên
tham gia Công ước đã nỗ lực củng cố các khía cạnh khác nhau của Công ước
nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Công ước trên thực tế bằng việc ban hành
các văn bản pháp lý bổ trợ cho Công ước cũng như thành lập các thiết chế hỗ
trợ các thành viên tuân thủ Công ước.
1.1.4.1. Bản sửa đổi Công ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên
giới và tiêu hủy chúng và Nghị định thư Basel về Trách nhiệm và
bồi thường thiệt hại gây ra từ vận chuyển chất thải nguy hại xuyên
biên giới và việc tiêu hủy chúng
Trước những lời chỉ trích Công ước chưa có một quy định đủ mạnh để
ngăn chặn việc vận chuyển chất thải nguy hại, tháng 9 năm 1995, Hội nghị
các bên (Conference of the Parties – COP) lần thứ ba đã thông qua Bản sửa
đổi Công ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy
chúng (còn được gọi là Lệnh cấm xuất khẩu các chất thải nguy hại xuyên biên
giới - “the Ban Amendment”).20 Lệnh cấm năm 1995 quy định việc cấm xuất
khẩu các chất thải độc hại điều chỉnh bởi Công ước Basel với mục đích tiêu
hủy, tái sử dụng, tái chế hay phục chế từ các nước được liệt kê trong phụ lục
VII (các quốc gia và vùng lãnh thổ là thành viên của OECD, Cộng đồng châu
Âu, Liechtenstein) của Công ước đến tất cả các quốc gia khác. Theo quy định
Lệnh cấm năm 1995 sẽ có hiệu lực khi có ¾ các bên chấp thuận Lệnh cấm.21
Dù ưu tiên giải quyết những tranh chấp còn tồn tại, nhưng cho đến nay sau 22
18


Công ước Basel, Điều 11, khoản 1.
Sejal Choksi, tlđd 5, tr. 519.
20
Bản sửa đổi Công ước về kiểm soát chất thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng còn được gọi là
Lệnh cấm xuất khẩu các chất thải nguy hại xuyên biên giới, trong phạm vi bài viết sẽ gọi tắt là Lệnh cấm.
21
Công ước Basel, Điều 17
19


15

năm được thông qua, Lệnh cấm vẫn chưa có hiệu lực. Tính đến tháng 8 năm
2017, Lệnh cấm đã được 89 thành viên phê chuẩn cũng như chấp thuận Lệnh
cấm.22 Nhận thức rõ những thách thức trong việc bảo vệ những quốc gia dễ bị
tổn thương từ việc nhập khẩu những chất thải nguy hại không mong muốn
cùng với đó là việc ngăn chặn việc nhập khẩu “chất thải được coi là nguyên
liệu thô thứ cấp có giá trị” hay còn được gọi là phế liệu vào các quốc gia mà
vẫn có thể quản lý môi trường bền vững là điều Lệnh cấm đang hướng đến.
Những cuộc thảo luận không chính thức trong khuôn khổ COP 9 vào năm
2008 để tìm cách giúp Lệnh cấm có hiệu lực mà vẫn giải quyết được nhu cầu
và sự quan tâm của tất cả các thành viên Công ước.23
Bên cạnh việc tạo ra một rào cản đủ mạnh để ngăn chặn việc xuất, nhập
khẩu chất thải nguy hại xuyên biên giới, thì vấn đề tạo lập một cơ chế để quy
trách nhiệm và bồi thường thiệt hại cho những hậu quả gây ra bởi việc vận
chuyển chất thải xuyên biên giới cũng được các quốc gia trong Công ước
Basel hết sức quan tâm. Sau 6 năm đàm phán, 115 quốc gia đã tán thành
thông qua Nghị định thư Basel về Trách nhiệm và bồi thường thiệt hại gây ra
từ vận chuyển chất thải nguy hại xuyên biên giới và việc tiêu hủy chúng (Còn
được gọi là Nghị định thư Basel) tại COP 5 năm 1999. Trong bối cảnh đa số

những điều ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại môi trường tại
thời điểm đó dù đã được thông qua nhưng vẫn chưa chính thức có hiệu lực,
Nghị định thư Basel được xem như một bước ngoặt trong cơ chế thực thi quốc
tế.24 Nghị định thư Basel quy định trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại
là hậu quả của quá trình vận chuyển chất thải nguy hại hay các phế thải khác
xuyên biên giới, bao gồm cả những tai nạn gây ra bởi việc vận chuyển trái
phép. Mỗi giai đoạn trong quá trình vận chuyển xuyên biên giới, từ địa điểm
mà chất thải được chất hàng để xuất khẩu, điểm trung chuyển quốc tế, điểm
22

Basel Convention, update 04/8/2017,
/>23
Katharina Kummer Peiry, Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous
Wastes and their Disposal, />24
Sejal Choksi, tlđd 11, tr. 522.


16

nhập khẩu hay điểm tiêu hủy cuối cùng đều được Nghị định thư điều chỉnh.
Các đại diện của COP 5 cũng đồng ý tại cuộc họp tạm thời để giải quyết các
tình huống khẩn cấp cho đến khi Nghị định thư Basel chính thức có hiệu lực.
COP 6 thông qua Bản hướng dẫn tạm thời việc thực thi quyết định V/32 về
việc mở rộng phạm vi của Quỹ hợp tác kỹ thuật.
1.1.4.2. Ủy ban quản lý cơ chế thúc đẩy việc thực hiện và tuân thủ
Ngoài hai văn kiện pháp lý có tính bổ trợ quan trọng cho Công ước nêu
trên, Công ước Basel còn thiết lập một cơ chế thực thi khá toàn diện. Ủy ban
quản lý cơ chế thúc đẩy việc thực hiện và tuân thủ (còn được gọi tắt là Ủy ban
thi hành và tuân thủ - Implementation and Compliance Committee) được
thành lập tại COP 6 vào năm 2002. Mục tiêu của cơ chế này là hỗ trợ các bên

tuân thủ các nghĩa vụ theo Công ước và nhằm thuận lợi hóa cũng như thúc
đẩy việc thực thi cũng như tuân thủ các nghĩa vụ theo Công ước. Cơ chế này
minh bạch, tiết kiệm chi phí và có tính chất phòng ngừa, đơn giản, linh hoạt,
không bắt buộc và trực tiếp hướng đến việc giúp đỡ các quốc gia thành viên
thực thi các quy định của Công ước Basel.25 Ủy ban này cũng đặc biệt chú ý
đến những nhu cầu của các quốc gia đang phát triển và các quốc gia đang
trong quá trình chuyển đổi kinh tế nhằm thúc đẩy sự hợp tác giữa tất cả các
thành viên. Cơ chế này bổ trợ một số hoạt động cho các cơ quan khác của
Công ước cũng như các Trung tâm Khu vực của Công ước Basel. Ủy ban
Thực thi và tuân thủ có nhiệm vụ rà soát những bản đề xuất chi tiết cũng như
những vấn đề chung về việc thực thi và tuân thủ.
Tính đến thời điểm hiện tại, Công ước Basel là công cụ pháp lý quốc tế
duy nhất điều chỉnh việc vận chuyển xuyên biên giới và quản lý môi trường
bền vững đối với chất thải nguy hại và các phế thải khác. Trong hơn 20 năm
kể từ khi được thông qua, Công ước đã trở thành hình mẫu quy định pháp lý
quốc tế về vấn đề này. Một vài nguyên tắc pháp lý cơ bản của Công ước, ví
25

Katharina Kummer Peiry, Basel Convention on the Control of Transboundary Movements of Hazardous
Wastes and their Disposal, />

17

dụ nguyên tắc xử lý tại nơi gần nhất (proximity principle), nguyên tắc quản lý
bền vững môi trường (environmentally sound management), nguyên tắc thỏa
thuận ưu tiên thông báo trước đối với việc nhập khẩu những chất có khả năng
độc hại đã đóng góp đáng kể cho sự phát triển của tập quán quốc tế trong các
lĩnh vực có liên quan. Một số điều ước quốc tế ở cấp độ khu vực cùng với
những nguyên tắc này đã được một số quốc gia ở rất nhiều châu lục khác
nhau thông qua để thực thi Công ước Basel và giải quyết những yêu cầu cụ

thể của khu vực. Nguyên tắc xử lý tại nơi gần nhất là nguyên tắc cơ bản được
sử dụng rất nhiều và chính các án lệ đã làm rõ hơn nguyên tắc này. Trong vụ
việc chất thải Vallon,26 Tòa án Công lý Châu Âu bằng thẩm quyền của mình
đã đưa ra lệnh cấm nhập khẩu chất thải vào khu vực dựa trên nguyên tắc xử lý
tại nơi gần nhất. Tòa nhận thấy rằng những chất thải có liên quan trong vụ
việc có mối quan hệ rất gần giữ với nguyên tắc xử lý tại nơi gần nhất và
nguyên tắc “tự cung tự cấp” được quy định trong Công ước Basel mà Cộng
đồng châu Âu là một bên ký kết.27
1.2.

Nội dung chính của Công ƣớc Basel về kiểm soát vận chuyển chất
thải nguy hại xuyên biên giới và tiêu hủy chúng
Công ước Basel về kiểm soát vận chuyển chất thải xuyên biên giới là

thỏa thuận môi trường quốc tế toàn diện nhất về chất thải nguy hại và các loại
chất thải khác. Công ước quy định về những vấn đề tổng quát trong vận
chuyển chất thải xuyên biên giới thông qua 29 điều và 9 phụ lục. Theo đó, các
thành viên có nghĩa vụ chung là đảm bảo giảm thiểu việc vận chuyển xuyên
biên giới những loại chất đó và hành vi vận chuyển rác thải phải tiến hành dựa
trên việc bảo vệ con người và môi trường. Bên cạnh những quy định về nghĩa
vụ, Công ước cũng yêu cầu kiểm soát hoạt động vận chuyển chất thải nguy
hại, theo đó vận chuyển chất thải chỉ được tiến hành khi đã đáp ứng những

26
27

Case C-2/90 Commission v. Belgium ECLI:EU:C:1992:310
Case C-2/90 Commission v. Belgium ECLI:EU:C:1992:310, paragraph 34.



×