Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Phát triển thị trường phát thải các bon ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (308.22 KB, 24 trang )

1
PHẦN MỞ ĐẦU:
TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
1. Tính cấp thiết của Luận án
- Phát triển thị trường phát thải các-bon (Emission Trading
Scheme - ETS) đang ngày càng mở rộng với sự tham gia của các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Thị trường phát thải cácbon (các-bon được gọi chung cho các loại khí thải nhà kính do CO2 là
loại khí thải chiếm tỷ trọng lớn nhất) đã trở thành công cụ chính sách
quốc gia về kinh tế chủ đạo trong giải quyết vấn đề giảm thiểu biến
đối khí hậu. Đến nay, thị trường phát thải các-bon đã phát triển với
các cấp độ từ quốc tế, đến quốc gia (khoảng 40 quốc gia), tỉnh, thành
phố (hơn 20) với quy mô thị trường lên tới 15% tổng lượng phát thải
toàn cầu.
- Chính sách quốc tế về BDKH đã thay đổi và Việt Nam đã cho
thấy sự chủ động cần thiết để tham gia ETS. Việt Nam đã có những
hành động rất rõ ràng với việc ký Hiệp định Pari về biến đổi khí hậu
với cam kết giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản
phát triển thông thường và có thể tiết giảm đến 25% nếu nhận được
hỗ trợ quốc tế vào năm 2030; Việt Nam cũng đã xác định rõ tầm quan
trọng của việc hình thành thị trường phát thải các-bon nhằm mục tiêu
giảm thiểu biến đổi khí hậu thông qua “Chiến lược quốc gia về tăng
trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050” và “Chiến
lược quốc gia về biến đổi khí hậu”.
- Xây dựng thị trường phát thải các-bon có khả năng sẽ góp
phần hỗ trợ Việt Nam chuyển dịch dần nền kinh tế theo hướng phát
thải các-bon thấp và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việt Nam hiện là
nền kinh tế đang phát triển với các ngành công nghiệp đóng vai trò
ngày càng quan trọng như năng lượng, sắt thép, xi măng, xây dựng,
vận tải... là những ngành thâm dụng các-bon cao và cần được tái cơ
cấu lại theo hướng các-bon thấp càng sớm càng tốt, trong đó ETS sẽ
cho phép các doanh nghiệp thuộc các ngành này có sự lực chọn giảm


phát thải với hiệu quả kinh tế cao nhất.


2
- Tuy nhiên, việc xây dựng thị trường phát thải các-bon tại Việt
Nam phải cân nhắc dựa trên rất nhiều yếu tố như: sự ổn định của giá
phát thải các-bon để tạo ra tín hiệu cho doanh nghiệp, tính hiệu quả chi phí của ETS, các ảnh hưởng đến cạnh tranh của doanh nghiệp,
mức độ tác động đến người nghèo, sự sẵn có về hạ tầng để đảm bảo
ETS có thể vận hành... Chính vậy, việc thực hiện Luận án “Phát triển
thị trường phát thải các-bon ở Việt Nam” là rất cần thiết.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu chung: Làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của việc
hình thành phát triển thị trường phát thải các-bon và đề xuất về thiết
kế mô hình và tổ chức vận hành mô hình thị trường phát thải các-bon
phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ cơ sở khoa học về phát triển thị trường phát thải các-bon.
+ Đánh giá thực trạng và tiềm năng phát triển thị trường phát
thải các-bon ở Việt Nam.
+ Đề xuất lựa chọn mô hình và thiết kế thị trường phát thải
các-bon phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung vào nghiên cứu thị trường phát thải các-bon,
mô hình thiết kế và vận hành thị trường phát thải các-bon của ở Việt
Nam từ năm 2007 đến nay.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn, điểm mới của Luận án
- Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án
Luận án đã cung cấp được một cách đầy đủ về cơ sở khoa học
của việc xây dựng thị trường phát thải các-bon và đưa ra được những
khuyến nghị về việc xây dựng mô hình thị trường phát thải các-bon

phù hợp với điều kiện của Việt Nam để thực hiện mục tiêu giảm phát
thải khí nhà kính.


3
+ Về mặt khoa học: Việc thực hiện luận án đã có đóng góp
trong việc tổng hợp lại được toàn bộ cơ sở khoa học hình thành của
thị trường phát thải các-bon.
+ Về mặt thực tiễn, Luận án đã có đóng góp trong việc đưa ra
đề xuất được mô hình thiết kế và vận hành thị trường phát thải cácbon cho Việt Nam,
- Những điểm mới của Luận án
+ Luận án đã hệ thống hóa cơ sở khoa học của việc hình thành thị
trường phát thải các-bon; mô hình và cách thức thiết kế, vận hành thị
trường phát thải các-bon, kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt Nam.
+ Luận án đã rà soát, đánh giá thực trạng về biến đổi khí hậu,
các chính sách về biến đổi khí hậu và quá trình tham gia vào thị
trường phát thải các bọn của Việt Nam; Đã đưa ra được các phân tích,
đánh giá tiềm năng và điều kiện phát triển thị trường phát thải cácbon tại Việt Nam.
+ Luận án đã đưa ra được các phân tích, đánh giá về xu hướng
phát triển thị trường phát thải các-bon trong tương lai; đề xuất mô
hình thiết kế, giải pháp và các kiến nghị để thiết lập và vận hành thị
trường phát thải các-bon tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Một số phương pháp nghiên cứu chính để triển khai thực hiện
Luận án, gồm: Phương pháp nghiên cứu tại bàn; Phương pháp mô
hình phân tích SWOT; Phương pháp phỏng vấn sâu, đối với chuyên
gia; Phương pháp so sánh; Phương pháp tiếp cận lịch sử và logic;
Phương pháp hội nghị, hội thảo.
6. Kết cấu của Luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phần tổng quan tình hình

nghiên cứu trong và ngoài nước, Phần Danh mục các công trình
nghiên cứu và Tài liệu tham khảo, Luận án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học về phát triển thị trường phát thải các-bon;
Chương 2: Thực trạng và tiềm năng phát triển thị trường phát thải
các-bon ở Việt Nam và Chương 3: Đề xuất lựa chọn mô hình và thiết
kế thị trường phát thải các-bon phù hợp với điều kiện của Việt Nam.


4
PHẦN TỔNG QUAN:
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC
A. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của Luận án
ở ngoài nước:
- Định giá phát thải các-bon thông qua thuế các-bon hoặc thị
trường phát thải các-bon được áp dụng theo lý thuyết về tính tối ưu
của sử dụng công cụ trong xử lý các vấn đề ngoại ứng. Đã có một số
nghiên cứu nổi bật như: Kindleberger (1986) về “International public
goods without international government”; Pizer (2012) về
“Combining price and quantity controls to mitigate global climate
change”; Nordhaus (2007) “To Tax or Not to Tax: Alternative
Approaches to Slowing Global Warming”; Weitzman (2011) về “Fattailed uncertainty in the economics of catastrophic climate change”;
Stavin (2008) về “Addressing climate change with a comprehensive
US cap‐and‐trade system”..
- Thị trường phát thải các-bon là một lựa chọn để định giá
phát thải các-bon linh hoạt hơn so với thuế các-bon do cơ chế hoạt
động linh hoạt hơn. Đã có một số nghiên cứu nổi bật như: Goulder
(2006) về “The economics of climate change”; Neuhoff (2008) về
“Tackling Các-bon, How to Price Các-bon for Climate Policy”.
- Thị trường phát thải các-bon tạo ra áp lực và tín hiệu thị
trường cho doanh nghiệp lựa chọn phương án giảm phát thải theo

hướng có lợi nhất. Đã có một số nghiên cứu nổi bật như: Smale
(2006) về “The impact of CO2 emissions trading on firm profits and
market prices”; Smale (2006) về “The impact of CO2 emissions
trading on firm profits and market prices”; Garnaut (2008) về “The
Garnaut Climate Change Review”; Diekman (2013), về “EU
Emissions Trading: The Need for Cap Adjustment in Response to
External Shocks and Unexpected Developments”.
- Mặc dù có cùng cơ chế tác động, cơ chế vận hành, tuy nhiên
việc thiết kế thị trường phát thải các-bon lại không giống nhau giữa
các thị trường và nền kinh tế theo các cấp độ khác nhau. Đã có một


5
số nghiên cứu nổi bật như: Fuessler (2012) về “Chile PMR Activity
1. MRV, Compliance and Registry”; Kachi (2013) về “Carbon
Market Oversight Primer”; Goes (2010) về “New and old marketbased instruments for climate change policy”; Aldy (2012) về “The
promise and problems of pricing các-bon: theory and experience” và
Haites (2013) về “Lessons learned from linking emissions trading
systems: General principles and applications”; Kachi (2015)
về “Linking Emissions Trading Systems: A Summary of Current
Research”; Schneck (2011) về “Financial Market Reform and the
Implications for Carbon Trading”.
- Thị trường phát thải các-bon được thiết kế theo các mô
hình khác nhau và phát triển theo các cấp độ thị trường khác
nhau. Đã có một số nghiên cứu nổi bật như: Kindleberger (1986)
về “International public goods without international government”;
Gilbert (2014) về “Cap-Setting, Price Uncertainty and Investment
Decisions in Emissions Trading Systems” và Ellerman (2010) về
“Pricing các-bon: the European Union emissions trading scheme”,
báo cáo “An Introduction to Emission Trading Schemes”;

“Emissions Trading Worldwide - ICAP Status Report” của ICAP
(2015, 2016, 2017).
- Việc xây dựng và vận hành thị trường phát thải các-bon
trong thực tế dù có khác nhau giữa các thị trường thì đều đã có đóng
góp cho giảm thiểu phát thải các-bon. Đã có một số nghiên cứu nổi
bật như: Newell (2012) về “Carbon Markets: Past, Present, and
Future. Resources for the Future”; Kopp (2015) về “Allowance
allocation: Assessing U.S. Climate Policy Options”; Lopomo (2011)
về “Carbon Allowance Auction Design: An Assessment of Options
for the U.S”, Scotney (2015) tại công trình “Carbon Markets and
Climate Policy in China”.
- Việc xây dựng thị trường phát thải các-bon cần được phối
hợp với các nhóm công cụ chính sách khác để hạn chế những tác
động không mong muốn và đảm bảo tính hiệu quả trong ứng phó với


6
giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Đã có một số nghiên cứu nổi bật
như: Pizer, W.A. (2008) về “Scope and point of regulation for pricing
policies to reduce fossil fuel CO2 Emissions. Resources for the
Future”; Nordhaus (2001) về “Climate change: Global warming
economics”.
- Cho đến nay, việc xây dựng và vận hành thị trường phát thải
các-bon trên thế giới vẫn chưa xác định được mô hình tối ưu. Đã có
một số nghiên cứu nổi bật như: Laing (2013) về “International
Experience with Emissions Trading. Climate Strategies”; Schneck
(2011) về “Financial Market Reform and the Implications for Carbon
Trading”, Trotignon (2011) về “Combining cap-and-trade with
offsets: Lessons from the CER use in the EU ETS in 2008 and 2009”
Fuessler (2012) về “MRV, Compliance and Registry. Infras, Deuman

and Perspectives”.
B. Tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của
Luận án ở trong nước:
Các nghiên cứu về thị trường phát thải các-bon ở Việt Nam
diễn ra khá chậm so với thế giới. Một số nghiên cứu nổi bật gồm:
Nghiên cứu của Phạm Hương Giang (2011) về “Đánh giá hiện trạng
tham gia thị trường phát thải các-bon thế giới của các doanh nghiệp
ngành Công Thương và xu hướng, tiềm năng thị trường phát thải cácbon thế giới sau khi kết thúc Nghị định thư Kyoto”; Trần Hữu Bưu
(2013), “Đánh giá tiềm năng phát triển các dự án tạo ra tín chỉ cácbon trong các hoạt động xử lý chất thải và đề xuất giải pháp hỗ trợ
phát triển”; Phạm Thị Nga (2014) về “Một số cơ chế mua bán phát
thải các-bon trên thế giới”; Bùi Hoài Nam (2015) về “Một số vấn đề
chung về thị trường phát thải”; Phạm Thị Hiền (2016) về “Các yếu tố
cần thiết để xây dựng thị trường mua bán quyền phát thải khí nhà
kinh trong tương lai”; Vi Thùy Linh (2017) về “Thị trường phát thải
các-bon và triển vọng tại Việt Nam”; Trần Hoàn (2017) về “Kinh
nghiêm quốc tế về phát triển thị trường phát thải các-bon và bài học
cho Việt Nam”.


7
C. Đánh giá về các nghiên cứu có liên quan và xác định hướng
nghiên cứu của Luận án:
Các công trình đã công bố trong và ngoài nước liên quan tới
chủ đề của Luận án có ý nghĩa tham khảo rất tốt với thực hiện Luận
án, tuy nhiên, các công trình này phục vụ cho những chủ đích nghiên
cứu khác nhau và thường chỉ đề cập tới một vấn đề có liên quan đến
toàn bộ nội dung của Luận án. Hơn nữa, những công trình nghiên cứu
này đã hoàn thành nên chưa cập nhật những tình hình mới nhất về bối
cảnh tình hình về thị trường phát thải các-bon và biến đổi khí hậu
trong nước và quốc tế trong thời gian gần đây. Vì vậy, có thể nói việc

thực hiện Luận án “Phát triển thị trường phát thải các-bon ở Việt
Nam” là có tính mới, không trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã
được công bố trong và ngoài nước và có đóng góp mới cả về mặt lý
luận và thực tiễn về phát triển thị trường phát thải các-bon Việt Nam.


8
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
PHÁT THẢI CÁC-BON
1.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của hình thành thị trường phát
thải các-bon
- Khái niệm và lịch sử hình thành thị trường phát thải các
bon: “Thị trường phát thải các-bon là một thị trường hàng hóa được
thành lập để thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa là phát thải
các-bon”. Đặc trưng của thị trường phát thải các-bon đó chính là tính
chất hàng hóa không nhìn thấy được của phát thải các-bon và không
có giá trị sử dụng như hàng hóa thông thường. Cơ chế vận hành của
ETS đó là Chính phủ sẽ đưa ra một tổng hạn mức phát thải mục
tiêu (cap) trong một hoặc một số ngành của nền kinh tế và sau đó cho
phép các doanh nghiệp mua bán trên thị trường (trade) để có được
lượng phát thải các-bon mong muốn.
Hoạt động của ETS sẽ tạo ra một mức giá chung cho mỗi đơn
vị phát thải các-bon và do đó sẽ là tín hiệu để doanh nghiệp đưa ra
các quyết định đầu tư vào các giải pháp giảm phát thải trong dài hạn
như đầu tư công nghệ, chuyển đổi sang sử dụng năng lượng sạch, cải
tiến quy trình sản xuất nhằm gia tăng hiệu quả năng lượng, phát triển
các sản phẩm sử dụng năng lượng tiết kiệm, ngoài ra, giá phát thải
các-bon sẽ làm gia tăng giá chung của hàng hóa và dịch vụ phát thải
các-bon cao, do vậy, dẫn đến định hướng khách hàng có xu hướng sẽ

sử dụng hàng hóa và dịch vụ thay thế có giá thấp hơn và tạo động lực
cho doanh nghiệp thực hiện hành vi giảm phát thải để giảm chi phí.
Do vậy, Chính phủ sẽ phải xác định mục tiêu giảm phát thải dài hạn
và xây dựng các chính sách hướng nền kinh tế theo hướng các-bon
thấp để củng cố lòng tin của doanh nghiệp thực hiện các hoạt động
giảm phát thải các-bon.
Thị trường phát thải các-bon đầu tiên được xây dựng thành
công để chuyển từ các vấn đề mang tính học thuyết sang thực hành
được thực hiện vào những năm 80 ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thời điểm


9
được cho là tạo ra bước đột phá của phát triển ETS là vào năm 1997
khi Nghị định thư Kyoto được thông qua và đặt ra các mục tiêu về
cắt giảm phát thải nhà kính một cách bắt buộc đối 37 quốc gia đã
công nghiệp hóa thành công để đạt được các cam kết về giảm phát
thải khí nhà kính toàn cầu đã được ký trong Kyoto cho giai đoạn
2008 - 2012. Cho đến cuối năm 2017, ETS đã và đang được vận
hành qua 4 lục địa, 40 quốc gia, 13 bang/tỉnh và 7 thành phố, kể cả
các quốc gia phát triển và đang phát triển với quy mô về GDP chiếm
khoảng 40% toàn cầu, tổng lượng phát thải chiếm khoảng 1/4 phát
thải toàn cầu. Đối với 18 hệ thống ETS đang được vận hành đóng
góp khoảng 1/2 tổng lượng phát thải của các quốc gia tham gia,
tương đương với 7 GtCO2e (15% tổng lượng phát thải toàn cầu), có 5
quốc gia/vùng lãnh thổ đã lên kế hoạch triển khai và 9 quốc gia, vùng
lãnh thổ đang xem xét để thiết lập thị trường, trong đó có Việt Nam.
1.2. Mô hình thiết kế và vận hành thị trường phát thải các-bon
Hiện nay, có hai loại mô hình ETS được các quốc gia xem xét
trong việc xây dựng thị trường phát thải các-bon như sau.
(1) Mô hình đồng nhất: Là mô hình mà việc xác định hạn mức

phát thải các-bon cho phép và hoạt động mua bán được thiết lập và
vận hành ngay từ đầu. Đây là mô hình mà hầu hết các quốc gia/vùng
lãnh thổ trên thế giới hiện nay đang áp dụng như EU-ETS, RGGI,
Trung Quốc-ETS.
(2) Mô hình hai giai đoạn: Đây là mô hình ETS hai giai đoạn,
trong đó, giai đoạn đầu ETS hoạt động như thuế phát thải các-bon với
việc Chính phủ quy định một mức thuế nhất định/đơn vị phát thải
các-bon và sau khi thị trường phát triển ổn định sẽ chuyển sang giai
đoạn thị trường hóa như mô hình đồng nhất.
- Các yếu tố cấu thành thị trường phát thải các-bon: (1)
Thiết lập hạn mức phát thải: Hạn mức phát thải là tổng lượng phát
thải cho phép trên ETS ở trong một ngành, nền kinh tế trong một thời
kỳ nhất định; (2) Lựa chọn phạm vi thị trường, gồm: loại khí thải
ngành tham gia thị trường và doanh nghiệp với quy mô phát thải lớn


10
ở mức nào sẽ tham gia thị trường; (3) Thiết lập cơ chế phân bổ hạn
mức phát thải các-bon: phân bổ miễn phí hoặc thông qua đấu giá,
hoặc kết hợp cả hai; (4) Thiết lập sàn giao dịch phát thải. (5) Lựa
chọn các quy định về tính linh hoạt trong vận hành hoạt động của hệ
thống ETS: Các điều khoản về gửi/mượn ngân hàng về hạn mức phát
thải; Thiết lập giá trần, giá sàn; Cho phép sử dụng tín chỉ phát thải có
được từ bên ngoài hệ thống ETS; (6) Hình thành hệ thống giám sát
và trừng phạt (MRV&E): Các thông tin về phát thải của doanh nghiệp
phải được đo lường một cách chính xác và đồng nhất, được báo cáo
tới các cơ quan có thẩm quyền và phải được xác minh, và trừng phạt
đối khi không thực thi đúng các cam kết; (7) Thiết lập kết nối giữa
các ETS: Các ETS có thể kết nối trực tiếp với nhau nếu hạn mức phát
thải chúng có thể được trao đổi với nhau thông qua cơ chế hợp tác;

- Các điều kiện cơ bản để vận hành thị trường phát thải cácbon: Kết quả tổng kết dựa trên thực tế xây dựng và vận hành hệ
thống ETS toàn cầu và qua các thị trường khác nhau cho đến thời
điểm hiện tại, các điều kiện để vận hành thành công ETS bao gồm:
(1) phải có hệ thống MRV; (2) Phải đảm bảo công bằng trong thực
thi; (3) Gắn kết được chính sách và mục tiêu; (4) Ổn định và có thể
dự đoán; (5) Hiệu quả về mặt chi phí và mức cắt giảm; (6) Đảm bảo
tính thực tế và toàn vẹn về môi trường; (7) Linh hoạt; (8) Phù hợp
với điều kiện của các thị trường cụ thể; (9) Tính tương thích với các
hệ thống khác trong nền kinh tế và (10) Minh bạch rõ ràng trong thiết
kế và thực hiện.
- Trình tự các bước thiết lập thị trường phát thải các-bon:
Kết quả tổng hợp từ các nghiên cứu của các nhà khoa học và thực
tiễn vận hành tại các quốc gia, về cơ bản, việc xây dựng thị trường
phát thải các-bon sẽ phải trải qua 10 bước như sau: Bước 1: Xác định
phạm vi ngành/loại khí thải được đưa vào ETS; Bước 2: Xác định
mục tiêu phát thải; Bước 3: Xác định phương thức phân bổ hạn mức
phát thải cho phép; Bước 4: Xem xét việc sử dụng hạn mức phát thải
bù đắp (offset) được thực hiện từ bên ngoài hệ thống ETS; Bước 5:
Lựa chọn cơ chế vận hành linh hoạt cho ETS; Bước 6: Xử lý vấn đề


11
giá và chi phí của phát thải trên thị trường; Bước 7: Đảm bảo và kiểm
soát các doanh nghiệp thực hiện; Bước 8: Khuyến khích sự tham gia
của các bên liên quan, truyền thông và xây dựng năng lực vận hành
hệ thống; Bước 9: Xem xét việc kết nối với các ETS bên ngoài; và
Bước 10: Thực hiện, đánh giá kết quả và cải tiến;
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xây dựng thị trường phát thải cácbon và bài học cho Việt Nam
- Kinh nghiệm cuả Liên minh châu Âu (EU): Đây là thị
trường phát thải các-bon lớn nhất thứ hai thế giới (sau Trung Quốc)

với 31 quốc gia thành viên EU tham gia và 11.000 doanh nghiệp sử
dụng nhiều năng lượng. Theo Ủy ban Môi trường châu Âu, CO 2 đã
giảm khoảng 19% trong giai đoạn 2005-2013, gần với mục tiêu mà
EU đã đặt ra là 21% vào năm 2020. Một số đặc điểm về xây dựng
vận hành và cải thiện mô hình EU-ETS như sau: (1) Lựa chọn mô
hình thiết kế EU-ETS và xác định hạn mức phát thải: tổng mức phát
thải được thiết theo hướng giảm dần theo từng năm để cho phép các
doanh nghiệp điều chỉnh một cách từ từ hoạt động của mình để đáp
ứng mục tiêu cắt giảm phát thải ngày càng tăng lên của EU; (2) Đấu
giá và cơ chế kiểm soát giá: Hoạt động mua bán có thể diễn ra trực
tiếp giữa người mua với người bán, hoặc thông qua sàn giao dịch,
hoặc thông qua các trung gian trên thị trường phát thải các-bon; (3)
Điều chỉnh hạn mức phát thải trên thị trường: Cho phép thu hồi phát
thải trong trường hợp dư thừa về cung, và cho phép đưa ra thị trường
một lượng hạn ngạch nhất định; (4) Thiết kế hệ thống MRV và kiểm
soát thị trường: Các sàn giao dịch thực hiện quá trình này; (5) Thiết
lập các điều khoản linh hoạt và cơ chế hỗ trợ thực hiện: cho phép
thực hiện các cơ chế về gửi và mượn phát thải; thực hiện thu hồi và
dự trữ hạn mức phát thải, sử dụng tín chỉ phát thải từ bên ngoài để đạt
mục tiêu.
- Kinh nghiệm cuả Hoa Kỳ: ETS của Hoa Kỳ được hình thành
theo các bang và liên bang. RGGI - ETS là một ETS cấp vùng của
Hoa Kỳ được xây dựng từ năm 2009 với sự tham gia của 9 bang ở


12
miền Đông, tập trung vào hoạt động giảm phát thải CO 2 từ ngành sản
xuất điện từ nhiên liệu hóa thạch. Một số đặc điểm về xây dựng vận
hành và cải thiện mô hình của Hoa Kỳ như sau: (1) Đấu giá và cơ
chế xác định giá: Đấu giá được thực hiện với cơ chế đấu giá một

vòng, đấu kín và đưa ra một mức giá chung; (2) Thiết lập hệ thống
MRV và kiểm soát thị trường: Kiểm soát RGGI được thực hiện bởi
một đơn vị độc lập để đảm bảo RGGI hoạt động hiệu quả và minh
bạch; (3) Thiết lập các điều khoản linh hoạt và cơ chế hỗ trợ hoàn
thành mục tiêu: cho phép các doanh nghiệp gửi ngân hàng đối với số
lượng không giới hạn và có quy định giá sàn đối với đấu giá phát thải
các-bon trên thị trường; cho phép các doanh nghiệp sử dụng các tín
chỉ phát thải từ bên ngoài; (4) Sử dụng nguồn thu: Được sử dụng cho
các mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và xử lý các ảnh hưởng do
gia tăng giá điện.
- Kinh nghiệm cuả Trung Quốc: Trung Quốc hiện nay là quốc
gia phát thải khí nhà kính lớn nhất thế giới và là quốc gia đang phát
triển đầu tiên trên thế giới kiểm soát mục tiêu cắt giảm phát thải cácbon thông qua việc xây dựng ETS. Trung Quốc đã thiết lập ETS thí
điểm cho 7 tỉnh/thành phố trên phạm vi toàn quốc và đã chính thức
thành lập ETS quốc gia đối với ngành điện vào cuối năm 2017. Một
số đặc điểm về xây dựng vận hành và cải thiện mô hình của Trung
Quốc gồm: (1) Lựa chọn mô hình thiết kế các ETS thí điểm: Mỗi ETS
được thiết kế khác nhau, tùy thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa
phương và được xây dựng bởi chính quyền địa phương; (2) Thiết lập
hạn mức và phân bổ hạn mức phát thải cho phép: kết hợp phân bổ
hạn ngạch miễn phí với một phần được đưa ra đấu giá cho các doanh
nghiệp dựa trên quá khứ phát thải; (3) Đấu giá và cơ chế kiểm soát
giá: thực hiện tại sàn giao dịch chứng khoán địa phương do Hội đồng
phát triển và cải cách tại mỗi địa phương quản lý; (4) MRV và kiểm
soát thị trường: Doanh nghiệp tự thực hiện và được xác nhận bởi một
bên thứ ba độc lập; (5) Trừng phạt đối với các doanh nghiệp không
hoàn thành mục tiêu: Chủ yếu tập trung vào hình phạt tiền; (6) Thiết
lập các điều khoản linh hoạt và cơ chế hỗ trợ thực hiện: Một số ETS



13
đã cho phép doanh nghiệp sử dụng cơ chế gửi ngân hàng một lượng
phát thải nhất định để sử dụng trong tương lai.
- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: Tử kinh nghiệm của các
quốc gia trong xây dựng và vận hành thị trường phát thải các-bon
như trên, 04 bài học kinh nghiệm cho Việt Nam được rút ra như sau:
(1) Cần phải xây dựng thí điểm ETS trước khi xây dựng thị trường
chính thức và triển khai xây dựng thị trường phát thải các-bon cho
một số ngành nhất định, đặc biệt là một số ngành có mức phát thải
các-bon ca, dễ dàng đo đếm, giám sát về phát thải; (2) Xây dựng hệ
thống MRV là điều kiện tiên quyết để đảm bảo ETS có thể vận hành
một cách minh bạch, rõ ràng. Hệ thống trừng phạt và kiểm soát gian
lận thị trường cũng cần được cân nhắc để đảm bảo sự tin tưởng của
đoanh nghiệp tham gia thị trường; (3) Thiết lập các cơ chế linh hoạt
để điều chỉnh hạn mức phát thải của toàn thị trường để ứng phó với
các rủi ro gây ảnh hưởng đến giao động về giá các-bon và chi phí
giảm phát thải của doanh nghiệp và cân nhắc kết nối ETS với các
ETS của các quốc gia khác để tạo ra các cơ hội cạnh tranh, lựa chọn
tốt hơn cho doanh nghiệp; (4) Cần xây dựng gói chính sách đi kèm
với ETS để đảm bảo thành công trong vận hành, trong đó lưu ý các
vấn đề sau: (1) Đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ phát
triển các nguồn năng lượng thay thế như năng lượng sạch, năng
lượng tái tạo, các loại công nghệ phát thải các-bon thấp; (2) Thiết kế
chương trình hỗ trợ giá điện đối với các hộ gia đình có thu nhập
thấp, các nhóm thu nhập thấp trong xã hội và (3) Đầu tư vào hiện
đại hóa hệ thống ETS như cải tiến công nghệ vận hành, đầu tư vào
các hoạt động MRV để nâng cao hiệu quả và tính chính xác, minh
bạch của hệ thống.



14
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG PHÁT THẢI CÁC-BON Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng và diễn biến về biến đổi khí hậu tại Việt Nam
Tại Việt Nam, trong giai đoạn 1994 - 2010, tổng lượng phát
thải của toàn nền kinh tế (gồm cả sử dụng đất, thay đổi sử dụng
đất và lâm nghiệp - LULUCF) tăng nhanh từ 103,8 triệu tấn CO 2
tương đương lên 246,8 triệu tấn CO 2 tương đương. Năm 2010,
tổng lượng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam là 246,8 triệu tấn
CO2 (bao gồm cả LULUCF) và 266 triệu tấn CO 2 (không bao gồm
LULUCF). Theo Báo cáo cập nhật hai năm một lần (lần thứ nhất)
của Việt Nam vào năm 2014, với tốc độ tăng trưởng và quy mô
nền kinh tế như hiện nay, dự báo phát thải khí nhà kính của Việt
Nam sẽ tiếp tục tăng nhanh với quy mô khoảng 3 lần vào năm
2020 và 5 lần vào năm 2030 so với năm gốc 2010. Phát thải từ
lĩnh vực năng lượng luôn chiếm tỷ trong trên 90% quy mô phát
thải của toàn nền kinh tế, trong đó ngành công nghiệp năng lượng
vẫn là nguồn phát thải chủ yếu và sẽ tiếp tục tăng, trong khi phát
thải từ ngành công nghiệp sản xuất sẽ giảm.
2.2. Thực trạng các chính sách về giảm phát
thải các-bon tại Việt Nam
Để ứng phó với BĐKH và giảm thiểu các tác động tiêu cực
của BĐKH đối với phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam đã rất tích
cực trong việc tham gia và thực hiện các hiệp ước quốc tế nhằm ứng
phó với BĐKH và xây dựng các chính sách trong nước để ưu tiên
ứng phó với BĐKH, năm 2012 được xem là cột mốc quan trọng đánh
giá sự thay đổi khi lần đầu tiên mục tiêu về giảm phát thải quốc gia
của Việt Nam được chính thức được đề cập trong các chính sách phát
triển của quốc gia.



15
Khung chính sách liên quan đến các hoạt động phát thải nhà
kính ở Việt Nam

Năm 2012 được xem là năm bước ngoặt của Việt Nam trong
việc thực hiện các hoạt động về giảm phát thải các-bon. Ngày 25
tháng 9 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược
quốc gia về tăng trưởng xanh của Việt Nam” với việc lần đầu tiên
Việt Nam đưa ra mục tiêu về cắt giảm phát thải của quốc gia: giảm
lượng phát thải KNK trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến
20% so với phương án BAU, trong đó mức tự nguyện là 10% và
thêm 10% khi có hỗ trợ quốc tế. Tiếp đó, ngày 22 tháng 4 năm 2017,
Việt Nam cùng hơn 170 quốc gia đã ký kết Hiệp định Paris về biến
đổi khí hậu và chính thức có hiệu lực từ ngày 4 tháng 11 năm 2017
với cam kết đến năm 2030 giảm 8% lượng phát thải khí nhà kính so
với kịch bản phát triển thông thường và 25% nếu nhận được hỗ trợ
quốc tế. Trước đó, ngày 21 tháng 11 năm 2012, Thủ tướng Chính phủ
đã ký phê duyệt Đề án “Quản lý phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính;
quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các-bon ra thị trường thế
giới" và sau đó là phê duyệt Dự án hỗ trợ kỹ thuật “Chuẩn bị sẵn
sàng cho xây dựng thị trường phát thải các-bon tại Việt Nam” do
Ngân hàng Thế giới (WB) tài trợ với các hoạt động tập trung vào xây
dựng thí điểm thị trường phát thải các-bon và lộ trình tham gia thị
trường phát thải các-bon trong lĩnh vực chất thải rắn; sản xuất thép;


16
xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về phát thải khí nhà kính và hệ

thống báo cáo các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính; xây
dựng và triển khai thí điểm NAMA tạo tín chỉ các-bon; tăng cường
năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát và thực hiện các hoạt động về
NAMA và NAMA tạo tín chỉ các-bon. Trước đó Việt Nam đã tham
gia một số cơ chế tài chính quốc tế như CDM, REDD+, JDM thông
qua xây dựng các dự án về giảm phát thải để cung cấp tín chỉ phát
thải cho các thị trường quốc tế trong khuôn khổ Nghị định thư Kyoto.
2.3. Đánh giá tiềm năng và các điều kiện hình thành thị trường
phát thải các-bon tại Việt Nam
Phương pháp đánh giá được lựa chọn là phương pháp phân tích
SWOT. Đây là một công cụ phân tích đơn giản, linh hoạt và có hiệu
quả và đưa ra được các đánh giá mang tính toàn diện của một vấn đề
khi so sánh với các công cụ phân tích khác và đặc biệt là rất hiệu quả
trong bối cảnh có nhiều hay ít thông tin để ra quyết định. Phân tích
SWOT đặc biệt phù hợp đối với việc phân tích, đánh giá một sự việc
chưa xảy ra, do vậy, việc sử dụng phân tích SWOT đối với xem xét
đánh giá tiềm năng về xây dựng thị trường phát thải các-bon tại Việt
Nam là một sự lựa chọn phù hợp.
Kết quả phân tích SWOT đối với đánh giá tiềm năng xây
dựng thị trường phát thải các-bon ở Việt Nam
Điểm mạnh

Cơ hội

- Chính phủ Việt Nam đã thiết lập
mục tiêu về giảm phát thải, đặc
biệt là trong các ngành sử dụng
nhiều năng lượng.

- Việt Nam có cơ hội gia tăng cạnh

tranh xuất khẩu vào các thị trường đã
xây dựng ETS như EU, Hàn Quốc,
Hoa Kỳ...

- Việt Nam đã có kinh nghiệm
trong việc tham gia thị trường
phát thải các-bon như CDM,
REDD+, JDM…

- Một số các ngành công nghiệp mới
và các cơ hội việc làm mới sẽ được
tạo ra trong lĩnh vực năng lượng mới,
tiết kiệm năng lượng.

- Việt Nam đã phát triển các sàn
giao dịch chứng khoán và thị
trường chứng khoán, do đó, hạ

- Việt Nam có cơ hội tham gia ETS
quốc tế, và do đó, sẽ có cơ hội giảm


17
tầng cơ bản để thực hiện đấu giá
phát thải đã có sẵn.
- Việt Nam đã và đang nhận được
nhiều sự hỗ trợ cả kỹ thuật lẫn
tài chính từ các tổ chức quốc tế
để xây dựng ETS.
- Giá năng lượng của Việt Nam

hiện nằm trong nhóm các quốc
gia có mức giá thấp nhất thế
giới, do vậy, việc tăng giá năng
lượng từ thị trường ETS sẽ có ít
tác động so với các quốc gia có
giá năng lượng cao.

Điểm yếu
- Việt Nam chưa có hệ thống
MRV và vẫn đang trong quá
trình thiết kế xây dựng.
- Các doanh nghiệp chưa có
nhiều phương án lựa chọn giảm
phát thải các-bon.
- Chưa có lộ trình giảm phát thải
cho các ngành nên chưa tạo
lòng tin cho doanh nghiệp để ra
quyết định trong dài hạn.

phát thải với chi phí thấp hơn.
- Cung cấp cho doanh nghiệp các lựa
chọn để giảm phát thải với chi phí
thấp nhất.
- Việt Nam có cơ hội cải tiến công
nghệ, nâng cao năng suất và năng lực
cạnh tranh của các ngành sử dụng
năng lượng.
- Việt Nam cơ hội trong việc thúc đẩy
doanh nghiệp cải tiến công nghệ sử
dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu

quả.
- Có nguồn thu để tái sử dụng để hỗ trợ
các doanh nghiệp giảm phát thải các
các đối tượng bị ảnh hưởng từ tăng
giá các sản phẩm có liên quan đến
năng lượng.
Thách thức
- Xuất khẩu của Việt Nam sẽ bị ảnh
hưởng do giá sản phẩm xuất khẩu
tăng, do đó, sẽ hạn chế cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
- Giá năng lượng của Việt Nam hiện
nay chưa hoàn toàn hoạt động theo
cơ chế thị trường, nên sẽ gây khó
khăn cho việc thiết lập ETS hình
thành dựa trên quan hệ cung cầu, tác
động đến nhóm thu nhập thấp.
- Các ngành phát thải các-bon cao
tham gia ETS hầu hết đều là các lĩnh
vực kinh tế đóng vai trò then chốt đối
với tăng trưởng kinh tế, do đó, sẽ
việc tăng giá sẽ có ảnh hướng đến
toàn nền kinh tế.


18
Với kết quả sử dụng phương pháp phân tích SWOT để đánh
giá các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với việc xây
dựng thị trường phát thải các-bon tại Việt Nam như ở trên, một số kết
luận được đưa ra như sau:

1. Việt Nam đã có hội tụ được nhiều điều kiện để
thiết lập thị trường phát thải các-bon như đã có kinh
nghiệp tham gia thị trường này, đã có các mục tiêu về
cắt giảm phát thải khí nhà kính, thị trường chứng khóa
đã phát triển tốt, việc xây dựng thị trường cũng là cơ
hội để Chính phủ có thêm nguồn thu để hỗ trợ các hoạt
động giảm phát thải. Tuy nhiên cần phải xây dựng thí
điểm ETS cho một số ngành nhất định, đặc biệt là một
số ngành phát thải các-bon cao, dễ dàng đo đếm, giám
sát về phát thải trước khi xây dựng thị trường chính thức
2. Để triển khai xây dựng thành công thị trường, Việt Nam
cần xây dựng các gói chính sách tổng thể để có thể giải quyết một
cách toàn diện các vấn đề, đặc biệt là các chính sách hướng về phát
triển năng lượng phát thải các-bon thấp, tiết kiệm năng lượng để
cung cấp cho doanh nghiệp các lựa chọn tối ưu cho giảm phát thải;
đồng thời đây cũng là cơ hội để phát triển các ngành
công nghiệp mới, góp phần tạo việc làm và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Các chính sách cũng cần phải tập
trung giải quyết các tác động ảnh hưởng của việc giá cả
hàng hóa sẽ tăng và ảnh hưởng đến người nghèo và
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp xuất khẩu, hoàn thiện hệ thống MRV để
đảm bảo khả năng kiểm soát việc thực thi của các
doanh nghiệp và vận hành thi trường.


19
CHƯƠNG 3:
ĐỀ XUẤT LỰA CHỌN MÔ HÌNH VÀ THIẾT KẾ
THỊ TRƯỜNG PHÁT THẢI CÁC-BON PHÙ HỢP VỚI ĐIỀU

KIỆN CỦA VIỆT NAM
3.1. Xu hướng phát triển thị trường phát thải các-bon trong thời
gian tới
Sau hơn một năm Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu chính
thức có hiệu lực, đã có 21 ETS đang vận hành trên toàn cầu với các
cấp độ khác nhau so với 8 ETS từ năm 2010 cho thấy các quốc gia
khác đã và đang gia tăng việc sử dụng ETS như là một công cụ chính
sách quan trọng để thực hiện cam kết về cắt giảm phát thải các-bon.
Các ETS đang vận hành hiện nay đang có những tái cấu trúc quan
trọng về mô hình vận hành, mức độ tham vọng, quy mô thị trường,
phạm vi hoạt động để đảm bảo ETS có thể thực hiện các mục tiêu
tham vọng hơn về giảm phát thải giai đoạn sau 2020, qua đó đã mang
đến tín hiệu tốt cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực các-bon thấp và
làm gia tăng giá của phát thải các-bon.
3.2. Đề xuất lựa chọn mô hình và thiết kế thị trường phát thải
các-bon tại Việt Nam
- Về lựa chọn mô hình: Một số đề xuất về lựa chọn mô hình
thiết kế thị trường phát thải tại Việt Nam như sau: (1) Việt Nam nên
xem xét lựa chọn mô hình thị trường phát thải các-bon hai giai đoạn,
trong đó giai đoạn đầu sẽ vận hành theo hướng thuế các-bon và khi
thị trường bắt đầu đi vào ổn định sẽ chuyển sang mô hình “cap và
trade”; (2) Việt Nam cần có lộ trình xây dựng thị trường phát thải
các-bon, trong đó, cần phải có giai đoạn thí điểm trước khi xây dựng
thị trường chính thức như kinh nghiệm của EU; (3) Việt Nam cần cân
nhắc lựa chọn xây dựng ETS trước cho một số ngành nhất định như
kinh nghiệm của tất cả các ETS trên toàn cầu; và (4) Cần thiết phải
kêu gọi sự tham gia của các bên liên quan trong việc xây dựng ETS
tại Việt Nam.



20
Không thành công

Không thành công
Điều chỉnh mức
thuế

Điều chỉnh

Giai đoạn khởi động:
Thuế các-bon cho 1 số
ngành (2-3 năm)

Giai đoạn 1: Thị trường
phát thải các bon cho một
số ngành (2-3 năm)
Thành
công

Giai đoạn 2: Mở rộng thị
trường phát thải các bon
cho các ngành
Thành
công

Sơ đồ: Đề xuất mô hình phân kỳ thiết kế thị trường phát thải các
bon của Việt Nam
Nguồn: Tác giả
- Về lựa chọn thiết kế thị trường phát thải các-bon ở Việt
Nam: (1) Thiết lập mục tiêu giảm phát thải cho thị trường phát thải

các-bon: Việt Nam cần thiết lập mục tiêu giảm phát thải dài hạn, ít
nhất là trong 10 năm và các chính sách về biến đổi khí hậu cũng
cần có sự nhất quán và mang tính dài hạn để tạo ra lòng tin đối với
doanh nghiệp, trong đó, hạn mức phát thải: nên kết hợp việc thiết
lập hạn mức tuyệt đối với một số cơ chế linh hoạt để hỗ trợ việc bổ
sung hoặc giảm thiểu mức dư thừa hạn mức phát thải trên thị
trường; (2) Xác định phạm vi thị trường phát thải các-bon: Một số
ngành có thể tham gia ETS của Việt Nam có thể là ngành sản xuất
điện, giao thông, các ngành công nghiệp chế biến chế tạo sử dụng
nhiều năng lượng (sắt thép, hóa chất, xi măng…), chất thải; (3) Lựa
chọn phương phân bổ hạn mức phát thải cho phép: Việt Nam nên
lựa chọn phương thức phân bổ thông qua đấu giá khi mà việc phân
bổ miễn phí thông qua số liệu của quá khứ sẽ không đảm bảo được
tính chính xác và đầy đủ do hệ thống cơ sở dữ liệu thiếu hụt; (4)
Lựa chọn các cơ chế linh hoạt cho thị trường: Cần cân nhắc cho
phép sử dụng lại tín chỉ bên ngoài và thiết lập cơ chế cho vay/mượn
ngân hàng phát thải, cho phép doanh nghiệp gửi ngân hàng phát
thải để sử dụng trong tương lai hoặc quy định giá sàn để ứng phó
với trường hợp giá phát thải các-bon rơi ở mức quá thấp; áp dụng
mức giá trần và giá sàn để đảm bảo giá phát thải các-bon sẽ giao


21
động trong phạm vi có thể kiểm soát được; (5) Cân nhắc liên kết
với các ETS khác: Đây sẽ là một lợi thế lớn của Việt Nam khi mà
giá phát thải các-bon trên thị trường của Việt Nam sẽ rẻ hơn rất
nhiều so với các thị trường quốc tế do chi phí cải tiến công nghệ
hay sử dụng các nguồn năng lượng thay thế của Việt Nam sẽ thấp
hơn nhiều so với các quốc gia phát triển; và (6) Xây dựng hệ thống
MRV: Hệ thống MRV của Việt Nam hiện vẫn đang trong quá trình

xây dựng và hoàn thiện do đó, Việt Nam sẽ phải đảm bảo xây dựng
được hệ thống MRV trước khi tiến hành xây dựng ETS.
- Về xác định cơ quan tham gia: (1) Bộ Tài nguyên và Môi
trường: Sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm về xây dựng thị trường phát
thải các-bon tại Việt Nam, chịu trách nhiệm về xác định, lựa chọn các
ngành tham gia, mô hình tổ chức thị trường; tổ chức các hoạt động về
MRV; (2) Bộ Tài chính: Sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm về việc xây
dựng cơ chế vận hành đấu giá phát thải các-bon, chịu trách nhiệm về
xây dựng quy trình, xác định cách thức đấu giá và thực hiện MRV đối
với các hoạt động này; (3) Các Bộ quản lý ngành: chịu trách nhiệm
về quản lý ngành, phối hợp với Bộ Tài nguyên và Moi trường, Bộ Tài
chính để triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao; (4) Các Bộ
ngành như Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Công an,
Bộ Tư pháp: Chịu trách nhiệm đối với các nội dung liên quan đến
hướng dẫn đảm bảo công tác triển khai vận hành thị trường và tuân
thủ các quy định về thanh tra, kiểm toán, kiểm tra và tuân thủ pháp lý
của các doanh nghiệp tham gia thị trường.
3.3. Một số giải pháp để đảm bảo tính khả thi của hình thành thị
trường phát thải các-bon tại Việt Nam
- Xây dựng đồng bộ các nhóm chính sách về giảm phát thải:
Cần phải kết hợp các công cụ thị trường này với các công cụ hành
chính – mệnh lệnh cũng như công cụ giáo dục và các khuyến khích
tài chính như thuế, phí, trợ cấp để giải quyết đồng bộ các vấn đề như:
sự khan hiếm về cung chỉ được hình thành khi mà Chính phủ áp dụng
công cụ cắt giảm tuyệt đối đối với khí thải các-bon đối với mỗi doanh


22
nghiệp; công cụ mềm như nhãn các-bon thấp hay nhãn sản phẩm tiết
kiệm năng lượng cũng sẽ góp phần giúp khách hàng nhận dạng sản

phẩm của doanh nghiệp trên thị trường do áp dụng các giải pháp
giảm thiểu các-bon từ áp lực của thị trường phát thải các-bon…
- Phối hợp việc xây dựng thị trường phát thải các-bon với
gói các chính sách đi kèm: ETS chỉ là công cụ gián tiếp để giảm
phát thải, do vậy, các hoạt động giảm phát thải trực tiếp sẽ phụ thuộc
vào công nghệ, năng lượng và việc tổ chức lại quy trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp để giảm sử dụng năng lượng, sử dụng năng
lượng tiết kiệm và hiệu quả, chuyển đổi sử dụng năng lượng được
sản xuất từ nguyên liệu hóa thạch sang các dạng năng lượng sạch như
năng lượng tái tạo, năng lượng sinh học… ngoài ra, việc xây dựng thị
trường phát thải các-bon sẽ có những tác động đến thị trường lao
động, thị trường công nghệ… Do vậy, cần phải xây dựng đồng bộ với
các gói chính sách về năng lượng, lao động, công nghệ…
- Xây dựng các phương án sử dụng nguồn thu từ thị trường
phát thải các-bon: ETS sẽ mang đến nguồn thu lớn cho Chính phủ từ
hoạt động mua bán trên thị trường và tạo điều kiện cho Chính phủ
trong việc sử dụng nguồn thu để tái đầu tư cho phát triển các năng
lượng thay thế, hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ và trợ giúp cho
các nhóm xã hội bị tác động bởi sự tăng giá năng lượng và các hàng
hóa có liên quan như đầu tư vào nghiên cứu, phát triển công nghệ
phát triển các nguồn năng lượng thay thế, thiết kế chương trình hỗ trợ
giá điện đối với các hộ gia đình có thu nhập thấp, các nhóm thu nhập
thấp trong xã hội, đầu tư vào hiện đại hóa hệ thống ETS để nâng cao
hiệu quả và tính chính xác, minh bạch của hệ thống.
- Kết nối thị trường phát thải các-bon với hệ thống ngân
hàng và sàn chứng khoán: Việc xây dựng một hệ thống mới hoạt
đông riêng lẻ sẽ không khả thi bởi các vấn đề về chi phí. Bên cạnh
đó, các hoạt động như ngân hàng hay mượn ngân hàng hạn mức phát
thải cũng sẽ yêu cầu sự tham gia của các ngân hàng. Việc kêu gọi các
ngân hàng thương mại tham gia sẽ là cần thiết. Tuy nhiên trong giai



23
đoạn đầu, ngân hàng nhà nước hoặc các tổ chức tài chính của nhà
nước sẽ phải tham gia với vai trò đầu tàu.
- Xây dựng phương án hỗ trợ các nhóm trong xã hội chịu
ảnh hưởng bởi sự tăng giá do thị trường phát thải các-bon gây ra:
Việc tăng giá chung của toàn nền kinh tế và các ngành trực tiếp tham
gia vào ETS là điều không tránh khỏi. Đặc biệt là giá năng lượng như
điện, xăng dầu sẽ tăng tương ứng với giá phát thải các-bon được hình
thành trên thị trường ETS. Các nhóm chịu ảnh hưởng lớn nhất đó là
những người có thu nhập thấp phải trả tiền nhiều hơn cho tiêu dùng
năng lượng. Do vậy, việc thiết kế các gói chính sách hỗ trợ các nhóm
yếu thế này phải được tính đến khi thiết kế xây dựng ETS.


24
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phát triển thị trường phát thải các-bon nhằm hướng tới mục
tiêu giảm thiểu khí thải nhà kính đã hình thành và cho thấy xu hướng
ngày càng mở rộng, với sự tham gia của các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, trong bối cảnh chính sách quốc tế về
BDKH đã thay đổi và Việt Nam cần xem xét xây dựng thị trường
phát thải các-bon nhằm tạo hố trợ các doanh nghiệp phải giảm phát
thải với chi phí thấp nhất, thực hiện các cam kết quốc tế cũng như cơ
hội tham gia vào thị trường phát thải các-bon toàn cầu. Một số kết
quả đạt được của việc thực hiện Luận án Tiến sỹ với Đề tài “Phát
triển thị trường phát thải các-bon ở Việt Nam” như sau:
1. Kết quả thực hiện Luận án đã có được 03 đóng góp như
sau: Thứ nhất, đã hệ thống hóa cơ sở khoa học của việc hình thành

thị trường phát thải các-bon; mô hình và cách thức thiết kế, vận hành
thị trường phát thải các-bon, kinh nghiệm quốc tế và bài học cho Việt
Nam; Thứ hai, đã rà soát, đánh giá thực trạng về biến đổi khí hậu, các
chính sách về biến đổi khí hậu và quá trình tham gia vào thị trường
phát thải các bọn của Việt Nam; Đã đưa ra được các phân tích, đánh
giá tiềm năng và điều kiện phát triển thị trường phát thải các-bon tại
Việt Nam; và Thứ ba đã đưa ra được các phân tích, đánh giá về xu
hướng phát triển thị trường phát thải các-bon trong tương lai; đề xuất
mô hình thiết kế, giải pháp và các kiến nghị để thiết lập và vận hành
thị trường phát thải các-bon tại Việt Nam.
2. Từ nghiên cứu này, tác giả Luận án đưa ra 03 kết luận như
sau: Một là, thị trường phát thải các-bon đã được xây dựng và triển khai
ở nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, tuy nhiên, không có mô
hình nào phù hợp với tất cả các quốc gia, vùng lãnh thổ. Hai là, trên cơ
sở các căn cứ về lý thuyết, thực tiễn và điều kiện, hoàn cảnh của đất
nước, thì việc xây dựng thị trường phát thải các-bon của Việt Nam là có
khả thi. Ba là, để đảm bảo thành công của việc xây dựng thị trường phát
thải các-bon tại Việt Nam, Việt Nam nên lựa chọn mô hình thị trường
phát thải các-bon hỗn hợp với các cơ chế linh hoạt, trong đó giai đoạn
đầu thị trường sẽ vận hành dưới mô hình thuế các-bon và sau khi thị
trường ổn định sẽ chuyển sang thị trường “cap và trade./.



×