Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

THỰC TRẠNG CẤP NƯỚC HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THUỶ LỢI NAM KHÁNH HOÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.55 KB, 77 trang )

 Luận văn thạc sĩ kinh tế

1

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

CHƯƠNG I
THỰC TRẠNG CẤP NƯỚC HỆ THỐNG CÔNG TRÌNH THUỶ
LỢI NAM KHÁNH HOÀ
1.1. Giới thiệu điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội Khánh Hoà
1.1.1. Vị trí địa lý
Khánh Hoà là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ của nước ta, có phần
lãnh thổ trên đất liền nhô ra xa nhất về phía biển Đông. Phía Bắc giáp tỉnh
Phú Yên, phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh ĐăkLăk và Lâm
Đồng, phía Đông giáp với Biển Đông.
Khánh Hoà nằm ở vị trí thuận tiện về giao thông đường bộ, đường sắt,
đường biển và đường hàng không. Thành phố Nha Trang là trung tâm hành
chính kinh tế, văn hoá của tỉnh Khánh Hoà. Việc giao lưu kinh tế văn hoá
giữa Khánh Hoà và các tỉnh trong Nam, ngoài Bắc rất thuận lợi nhờ hệ thống
giao thông đường sắt xuyên Việt và quốc lộ 1A xuyên suốt chiều dài của tỉnh.
Về đường hàng không Khánh Hoà có cảng hàng không quốc tế Cam Ranh
đặc biệt cảng Cam Ranh còn là một cảng thiên nhiên vào loại tốt nhất trong
nước và trên thế giới.
1.1.2. Khí hậu
Khí hậu Khánh Hoà vừa chịu sự chi phối của khí hậu nhiệt đới gió
mùa, vừa mang tính chất của khí hậu đại dương nên tương đối ôn hoà. Lượng
mưa trung bình trên dưới 2000mm/năm, và được chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa
mưa từ tháng 9 đến tháng 12 tập trung 70 – 80% lượng mưa cả năm. Những
tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2600 giờ nắng. Riêng
tại khu vực thành phố Nha Trang mùa mưa chỉ kéo dài trong 2 tháng còn lại là
nắng ấm, rất thuận lợi cho ngành du lịch biển.


1.1.3. Đặc điểm địa hình

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

2

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

Diện tích tự nhiên của Khánh Hoà, cả trên đất liền và hơn 200 đảo và
quần đảo là 5197km2, xếp trung bình so với cả nước. Địa hình của Khánh Hoà
tương đối thấp dần từ Tây sang Đông với những dạng địa hình núi, đồi, đồng
bằng ven biển và biển khơi. Phần phía Tây là sườn đông dãy Trường Sơn, chủ
yếu là núi thấp và đồi, độ dốc lớn và địa hình bị chia cắt mạnh. Tiếp đến là
dạng địa hình núi thấp, đồi thấp xen kẽ bình nguyên và thung lũng, thỉnh
thoảng có núi đá chạy ra sát biển, chia cắt dải đồng bằng nhỏ hẹp, với chiều
dài khoảng 200 km bờ biển khúc khuỷu có điều kiện thuận lợi để hình thành
các cảng nước sâu, nhiều vùng đất rộng thuận lợi để lập khu chế xuất và khu
công nghiệp tập trung. Những đặc điểm địa hình này của Khánh Hoà không
chỉ tạo ra những cảnh quan phong phú và đa dạng vừa mang tính đặc thù của
mỗi tiểu vùng, mang tính đan xen và hoà nhập mà còn có ý nghĩa chiến lược
về mặt quốc phòng, vì tỉnh Khánh Hòa nằm gần đường hàng hải quốc tế, có
huyện đảo Trường Sa, cảng Cam Ranh và là cửa ngõ của Tây Nguyên thông
ra biển Đông.
1.1.4. Dân số
Theo số liệu thống kê tháng 4/2011, tỉnh Khánh Hòa có 1,156 triệu

người. Với diện tích 5.271km2, mật độ dân số của Khánh Hoà là 222
người/km2, trong đó Nam giới có khoảng 572.412 người (49.48%) và Nữ giới
có khoảng 584.491 người (50.52%) tỷ lệ tăng dân số của tỉnh bình quân từ
năm 1999 - 2011 là 1,3%.
Hiện nay có 32 dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa,
trong đó dân tộc Kinh chiếm 95,3%, dân tộc Raglai chiếm 3,4%, dân tộc Hoa
chiếm 0,86%, dân tộc Cơ-ho chiếm 0,34%, dân tộc Ê-đê chiếm 0,25%...
Ngoài ra, còn có các dân tộc Tày, Nùng, Mường, Chăm... Tại một số địa
phương trong tỉnh như Dốc Gạo, Xóm Cồn, đảo Hòn Tre đã tìm thấy dấu vết
những cư dân đầu tiên sống cách đây khoảng từ 4.500 đến 5.000 năm.
1.1.5. Tài nguyên thiên nhiên
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

3

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

Khánh Hoà có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên
biển, tài nguyên khoáng sản và tài nguyên rừng.
a. Tài nguyên biển
Với cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều danh lam thắng cảnh đẹp, khí
hậu lý tưởng, nhiều di tích lịch sử và công trình văn hoá nên Nha Trang đã trở
thành một trong mười trung tâm du lịch lớn của cả nước, đặc biệt là du lịch
biển với rất nhiều bãi tắm nổi tiếng như như bãi biển Nha Trang, Bãi Tiên,
Dốc Lếch, Đại Lãnh.

Dọc bờ biển còn tập trung nhiều đảo lớn, nhỏ có khả năng tổ chức du
lịch, lặn biển, vui chơi giải trí trên các đảo. Đặc biệt đảo Hòn Tre là đảo lớn,
quanh năm có nhiều bãi tắm đẹp như bãi Trũ, bãi Tre, Bích Đầm, trong đó
khu du lịch Hòn Ngọc Việt (Vinpearl Land) trên đảo Hòn Tre là khu du lịch,
nghỉ mát sang trọng bậc nhất ở Việt Nam.
Về mặt sinh thái, vịnh Nha Trang là một trong những hình mẫu tự
nhiên hiếm có của hệ thống vũng, vịnh trên thế giới bởi nó có hầu hết các hệ
sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển nhiệt đới. Đó là hệ sinh thái đất
ngập nước, rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái cửa sông,
hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi cát ven bờ. Đặc biệt khu vực Hòn Mun
của Vịnh Nha Trang có đa dạng sinh học cao nhất với 350 loài rạn san hô
chiếm 40% san hô trên thế giới.
Trữ lượng hải sản thuộc vùng biển Khánh Hòa ước khoảng 150 nghìn
tấn, trong đó chủ yếu là cá nổi (70%). Khả năng cho phép hàng năm khai thác
khoảng 70.000 tấn. Ngoài các hải sản như cá, mực và các loại ốc, biển Khánh
Hòa còn là nơi trú ngụ của chim yến, hàng năm cho phép khai thác khoảng
2.000 kg yến sào. Đây là một đặc sản quý mà không phải tỉnh nào trong cả
nước cũng có thể có được, là nguồn nguyên liệu quý cho công nghiệp chế
biến dược liệu bổ dưỡng cao cấp.

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

4

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng


Biển Khánh Hòa còn có ý nghĩa với việc sản xuất muối do nước biển
có nồng độ muối tương đối cao, thuận lợi cho việc sản xuất muối tập trung và
các sản phẩm sau muối, nhất là muối công nghiệp.
b. Tài nguyên rừng
Diện tích rừng hiện có 186,5 nghìn ha, trữ lượng gỗ 18,5 triệu m3,
trong đó 64,8% là rừng sản xuất, 34% rừng phòng hộ và 1,2% rừng đặc dụng.
Rừng phòng hộ có 34%, song hầu hết là rừng giàu ở khu vực núi cao, đầu
nguồn các huyện Khánh Vĩnh, Khánh Sơn và Ninh Hòa. Độ che phủ của rừng
là 38,5%, lớn nhất là ở huyện Khánh Vĩnh và huyện Khánh Sơn.
c. Tài nguyên khoáng sản
Khánh Hòa có nhiều loại khoáng sản như than bùn, môlíp đen, cao
lanh, sét, vàng sa khoáng, nước khoáng, sét chịu lửa, cát, san hô, đá granite... ,
trong đó, đáng chú ý nhất là cát thuỷ tinh Cam Ranh, đáp ứng yêu cầu của sản
xuất thủy tinh quang học, pha lê... trữ lượng 52,2 triệu m3.
Nước khoáng với tổng lưu lượng khoảng 40l/s, khả năng khai thác
3400 - 3500 m3/ngày. Một số nơi đã đưa vào khai thác công nghiệp như nước
khoáng Đảnh Thạnh (57 triệu lít/năm). Tài nguyên khoáng sản Khánh Hòa là
một trong những loại tài nguyên có thể tái khai thác trong tương lai để phát
triển các sản phẩm cạnh tranh thị trường.
d. Tài nguyên nước mặt
Tài nguyên nước mặt (dòng chảy sông ngòi) của một vùng lãnh thổ hay
một quốc gia là tổng của lượng dòng chảy sông ngòi từ ngoài vùng chảy vào
và lượng dòng chảy được sinh ra trong vùng (dòng chảy nội địa). Ở Khánh
Hoà, từ lâu dòng chảy của con sông Cái Nha Trang đã là nguồn nước chủ yếu
đối với nông nghiệp, lâm nghiệp của các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh, ngoài
ra còn phục vụ cho công nghiệp, du lịch, nuôi trồng thuỷ sản và nước sinh hoạt
của thành phố Nha Trang.

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh


Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

5

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

Lưu vực sông Cái Nha Trang (phần trong tỉnh Khánh Hoà) có tổng lượng
dòng chảy vào khoảng 2,078 tỷ m3/năm. Với dân số trong lưu vực này khoảng
546.124 người (Niên giám thống kê năm 2008) thì bình quân đầu người đạt
khoảng 3.804m3/năm, thấp hơn so với trung bình toàn quốc và mức trung bình
của thế giới. Theo sự phân hạng thế giới, nước nào đạt dưới 4.000m3/người/năm
thuộc loại nghèo về nước, như vậy lưu vực sông Cái Nha Trang của chúng ta
thuộc diện nghèo về nước. Tuy nhiên, vấn đề cần đặt ra là tổng lượng dòng
chảy 4 tháng mùa lũ (tháng 9 - 12) chiếm đến 65 - 66 % lượng dòng chảy cả
năm, còn lượng dòng chảy 8 tháng mùa cạn (tháng 01 - 8) chỉ chiếm từ 34 35% lượng dòng chảy cả năm. So sánh với nhu cầu dùng nước, sự phân phối
dòng chảy giữa hai mùa như trên là không đồng đều, rất bất lợi cho sản xuất.
Bởi lẽ, trong khi nhu cầu dùng nước trong các tháng mùa cạn rất cao thì dòng
chảy trên sông nhỏ, trái lại nhu cầu dùng nước trong các tháng mùa lũ không
cao lắm thì phần lớn nước tập trung trong những tháng này. Dĩ nhiên trong
chuỗi số liệu quan trắc nhiều năm cũng có năm xảy ra mưa lũ tiểu mãn vào
các tháng giữa mùa khô, nên đã góp phần làm giảm tình hình khô hạn, thiếu
nước, song tần suất xảy ra khá thấp, lượng dòng chảy nhỏ, chỉ chiếm 3 - 6%
lượng dòng chảy năm.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và sự gia tăng dân số, nhu cầu
dùng nước cho sinh hoạt, sản xuất công nông nghiệp của Khánh Hòa sẽ tăng
lên mạnh mẽ trong tất cả các vùng. Theo số liệu điều tra năm 2006, tổng

lượng nước dưới đất và nước mặt cung cấp cho các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, sinh hoạt và du lịch trên lưu vực sông Cái Nha Trang khoảng 150 155 triệu m3/năm. Theo kế hoạch của UBND tỉnh Khánh Hòa, đến năm 2010
phấn đấu 100% thành phố, thị xã và 80% ở nông thôn trong tỉnh có nước sạch
và cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế - xã hội của tỉnh thì đến năm
2010 tổng lượng nước ước tính khoảng 238 triệu m3 (Quy hoạch thủy lợi tỉnh
Khánh Hoà năm 2002). Vì vậy, những nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

6

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

tích nước hợp lý trong mùa lũ, vừa đảm bảo phòng chống lũ lụt, vừa để điều
tiết phục vụ nhu cầu dùng nước trong mùa cạn là hết sức cần thiết.
1.2. Thực trạng hệ thống công trình thuỷ lợi thuộc công ty
KTCTTL Nam Khánh Hoà quản lý
Hệ thống công trình thuỷ lợi do công ty KTCTTL Nam Khánh Hoà
quản lý ngoài nhiệm vụ tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn
phía Nam tỉnh Khánh Hoà còn có nhiệm vụ cấp nước sinh hoạt, công nghiệp
và nuôi trồng thuỷ sản và các ngành kinh tế khác. Qua quá trình xây dựng và
phát triển, hệ thống các công tình thuỷ lợi Nam Khánh Hoà được tóm tắt như
sau:
1.2.1. Hồ đập
Công ty quản lý 16 hồ đập (trong đó 7 hồ chứa và 9 đập dâng), tổng
dung tích hữu ích là 63,194 x 106m3, năng lực thiết kế là: phục vụ tưới cho

vụ đông xuân 7.860 ha lúa, 7.600 ha lúa vụ hè thu; nhưng trong quá trình
quản lý khai thác đến nay thực tế chỉ đạt tưới cho vụ đông xuân 2.690 ha lúa,
2.640 ha lúa vụ hè thu và cấp nước sinh hoạt, dân sinh kinh tế khác; (chi tiết
xem trong bảng 1.1).
1.2.2. Trạm bơm
Công ty quản lý 4 trạm bơm tưới, 32 máy loại 1000 m3/h, theo năng
lực thiết kế các trạm bơm đảm bảo tưới cho 3.861 ha đất canh tác; thực tế đến
nay hiệu quả khai thác đạt 1418,2 ha.

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

7

Bảng 1.1. Bảng thống kê các trạm bơm do Công ty KTCTTL Nam Khánh
Hòa quản lý

TT

Tên trạm
bơm

1


Vĩnh Phương

2

Vĩnh Ngọc

3
4

Nhiệm
vụ
(tưới,
tiêu,
kết
hợp)
tưới

Lưu
Tổng
lượng
số
máy
máy
(m3/h)

Diện tích tưới thiết
Công
kế (ha)
suất 1
Vụ

máy Vụ
Vụ
đông

(kw)
mùa
xuân thu

Diện tích tưới thực
tế (ha)
Vụ
đông
xuân

Vụ

thu

3

950

33

170

170

tưới


2

950

33

85

40,5

Hòn Tháp

tưới

5

1100

55

Cầu Đôi

tưới

22

950

600


33 3261

600
3261

373,2 373,2
790

790

1.2.3. Hệ thống tiêu
Khu vực Công ty KTCTTL Nam Khánh Hoà phụ trách chỉ tiêu úng
bằng các hệ thống tiêu tự chảy bằng hệ thống kênh dẫn tiêu và các công trình
tiêu đầu mối.
1.2.4. Hệ thống kênh tưới
Hệ thống kênh tưới làm nhiệm vụ chuyển tải và điều tiết nước tưới
phục vụ tưới, cấp nước cho 48 đơn vị dùng nước với tổng diện tích 8.120 ha
tưới được nghiệm thu (năm 2011).

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT

Vụ
mùa


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng


8

Bảng 1.2. Bảng thống kê hiện trạng các hồ đập của hệ thống thuộc Công ty KTCT TL Nam Khánh Hòa quản lý
Th«ng sè hå chøa
Tªn hå, ®Ëp
STT (®Ëp chÝnh, ®Ëp
phô, cèng, trµn)

(1)

(2)

1 Hồ Đồng Bò
- Đập chính

Th«ng sè ®Ëp

DiÖn Dung Dung
ChiÒu
tÝch tÝch h÷u tÝch
Réng
dµi
Ých
chÕt
®Ëp
lưu
®Ëp
(m)
vùc (triÖu (triÖu

(m)
m3)
(km2) m3)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
3

0,7

0,12

ChiÒu
ChiÒu ChiÒu
cao

dµi
réng Lo¹i
®Ëp cöa trµn trµn trµn
(m)
(m)
(m)
(8)

(9)

(10)


(11)

1

43,5

20

(12)
Tự
do

10

TDụn
g

DiÖn tÝch tưới thiÕt
kÕ (ha)

DiÖn tÝch tưới thùc tÕ
(ha)


®«ng
xu©n



thu



mïa


®«ng
xu©n



thu


mïa

(13)

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

50

50


20

500

500

300

300

220

220

330

300

130

130

48

48

129,2

- Đập phụ


119,6

2 Hồ Am Chúa

13,7

4,43

0,268

330

3 Hồ Láng Nhớt
- Đập chính
- Đập phụ

14

2,02

0,3

77,5
77,5
682

- Tràn chính
- Tràn phụ
4 Hồ Cây Sung


Th«ng sè trµn

2

51

6
1
7,3

0,44

- Tràn chính
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

0,025

12

T.Dụ
ng

60

Tự
do

670
10

Lớp: CH17KT

20

T.Dụ
ng


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

Th«ng sè hå chøa
Tªn hå, ®Ëp
STT (®Ëp chÝnh, ®Ëp
phô, cèng, trµn)

(1)

(2)

- Tràn phụ
5 Hồ Suối Dầu

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

9

Th«ng sè ®Ëp

DiÖn Dung Dung
ChiÒu

tÝch tÝch h÷u tÝch
Réng
dµi
Ých
chÕt
®Ëp
lưu
®Ëp
(m)
vùc (triÖu (triÖu
(m)
m3)
(km2) m3)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)

120

28,88

3,9

- Tràn phụ
- Cống Bắc
- Cống Nam

7 Hồ Cam Ranh

- Đập chính
- Đập phụ
- Cống Bắc
- Cống Nam

36,1
59,4

7,334
19,39

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

0,528

ChiÒu
ChiÒu ChiÒu
cao

dµi
réng Lo¹i
®Ëp cöa trµn trµn trµn
(m)
(m)
(m)
(8)

(9)

(10)


(11)

1

40

(12)
Tự
do

3

28

T.Dụ
ng

1

30

Tự
do

1

20

Tự

do

30

T.Dụ
ng

DiÖn tÝch tưới thiÕt
kÕ (ha)

DiÖn tÝch tưới thùc tÕ
(ha)


®«ng
xu©n



thu


mïa


®«ng
xu©n




thu


mïa

(13)

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

3700

370
0

1227

1227

700

700


150

150

2300

230
0

455

455

3345

- Tràn chính

6 Hồ Suối Hành

Th«ng sè trµn

410

2,91

3

45

1734

119,6

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

Th«ng sè hå chøa
Tªn hå, ®Ëp
STT (®Ëp chÝnh, ®Ëp
phô, cèng, trµn)

(1)

(2)
Đập dâng Cầu
8 Dừa

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

10

Th«ng sè ®Ëp

DiÖn Dung Dung
ChiÒu
tÝch tÝch h÷u tÝch
Réng
dµi
Ých

chÕt
®Ëp
lưu
®Ëp
(m)
vùc (triÖu (triÖu
(m)
m3)
(km2) m3)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)

Th«ng sè trµn

ChiÒu
ChiÒu ChiÒu
cao

dµi
réng Lo¹i
®Ëp cöa trµn trµn trµn
(m)
(m)
(m)
(8)

(9)


(10)

(11)

(12)

DiÖn tÝch tưới thiÕt
kÕ (ha)

DiÖn tÝch tưới thùc tÕ
(ha)


®«ng
xu©n



thu


mïa


®«ng
xu©n




thu


mïa

(13)

(14)

(15)

(16)

(17)

(18)

110
50

110
50

2690

2640

56,6

Đập dâng Xuân

9 Đài

18

10 Đập dâng Gò Mè
11 Đập dâng Đập Đá

12
(50)

Đập dâng Bầu
12 Trung

15

(150)

Đập dâng Suối
13 Dầu

(500)

Đập dâng
14 Xương

(200)

Hội

Đập dâng Q.

15 Thắng
16 Đập dâng Giỏ Tá
Tổng cộng

200
60
253,5

63,2

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

8,051

7796

29

140

Lớp: CH17KT

270

7860

760
0



 Luận văn thạc sĩ kinh tế

11

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

1.2.5. Thực trạng cấp nước thô cho nhu cầu sản xuất nước sạch phục
vụ sinh hoạt và công nghiệp
Để tiến hành sản xuất nước sạch phục vụ đời sống và sinh hoạt của cộng
đồng dân cư, cũng như cung cấp cho các hoạt động kinh tế khác của con người,
các nhà máy và hệ thống cấp nước sạch chủ yếu lấy nước từ nguồn nước mặt.
Tuy nhiên, đối với các đô thị vùng ven biển, những vùng nước tự nhiên bị ô
nhiễm hoặc không đảm bảo chất lương và nơi xa nguồn nước mặt tự nhiên, thì
các đơn vị này thường phải lấy nước từ hệ thống công trình thuỷ lợi. Nguồn
nước được nguyên liệu lấy vào cho quá trình sản xuất nước sạch chưa qua xử lý
này được gọi là nước thô. Với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và tốc độ tăng
dân số mạnh mẽ, không những nhu cầu nước thô cho sản xuất nông nghiệp tăng
cao mà lượng nước thô cấp cho quá trình sản xuất nước sạch luôn tăng lên
không ngừng. Nhu cầu nước sạch không những tăng cao vì những nguyên nhân
kể trên, mà còn vì đòi hỏi nâng cao chất lượng cuộc sống của xã hội hiện đại.
a. Nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt
Nước sạch có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của
loài người, nhất là trong việc bảo vệ sức khỏe. Trên thế giới hiện nay có khoảng
1 tỷ người không có nước sạch để sử dụng, do đó hàng năm có khoảng 1,5 triệu
trẻ em chết vì không được sử dụng nước sạch. Tại Việt Nam, hàng năm có
khoảng 250.000 người phải nhập viện vì bị bệnh tiêu chảy – căn bệnh có liên
quan đến vấn đề thiếu nước. Việt Nam không nằm trong số các quốc gia thiếu
nước hay hiếm nước (năm 2010 lượng nước bình quân đầu người ở nước ta dự
tính khoảng 8.500 m3 nước/người/năm).
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2.360 con sông, cung cấp

một nguồn nước dự trữ dồi dào khoảng 255 tỷ m3/năm. Bên cạnh đó, tài nguyên
nước dưới lòng đất có tiềm năng khai thác được ước tính khoảng 60 tỷ m3 mỗi
năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây do sự gia tăng dân số, sự phát triển
công nghiệp và đô thị, đặc biệt do công tác quản lý của chúng ta đối với nguồn
tài nguyên quý giá này vẫn còn nhiều bất cập, nên tình trạng ô nhiễm nước mặt,
nước dưới đất và các vùng nước ven bờ của Việt Nam ngày càng trở nên rõ rệt
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

12

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

hơn. Mặt khác, môi trường thiên nhiên Việt Nam rất dễ bị tổn thương trước
thiên tai do các điều kiện địa lý, địa hình của đất nước và vấn đề ô nhiễm xuyên
biên giới. Mặc dù chất lượng nước ở các vùng thượng lưu còn khá tốt, nhưng
các đoạn sông hạ lưu của các con sông chính của nước ta thì chất lượng lại kém.
Hầu hết các hồ, ao, kênh mương trong các khu đô thị đang nhanh chóng trở
thành các bể chứa nước thải. Nước dưới đất cũng đã có hiện tượng ô nhiễm và
nhiễm mặn ở một số nơi. Theo một số nghiên cứu, hiện nay, chỉ khoảng 60%
dân số Việt Nam được cung cấp nước sạch dùng cho sinh hoạt.
Hệ thống lưu vực của một số sông chịu tác động mạnh mẽ và trực tiếp của
các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là các khu công nghiệp, khu khai thác và
chế biến khoáng sản, các đô thị và các điểm dân cư … Chất lượng nước thuộc
lưu vực các sông ngày càng xấu đi, nhiều đoạn sông đã bị ô nhiễm tới mức báo
động. Trong khi đó, vấn đề quản lý, bảo vệ môi trường các lưu vực sông còn

nhiều hạn chế, như hệ thống chính sách, quy định, quy chế liên quan đến bảo vệ
môi trường lưu vực sông còn thiếu và chưa đồng bộ; sự phân công trách nhiệm
giữa các bộ, ngành, giữa Trung ương và địa phương cũng chưa cụ thể. Hiện nay,
các bộ, ngành, địa phương có liên quan đang tập trung xây dựng các biện pháp
xử lý cụ thể, hoàn thiện thể chế quản lý môi trường lưu vực sông theo hướng
quản lý tổng hợp (bao gồm các biện pháp quản lý, công nghệ phù hợp cho từng
khu vực, cho từng thành phần môi trường)… Đặc biệt là việc chỉ đạo việc xử lý
ô nhiễm môi trường do các cơ sở nằm trên các lưu vực sông gây ra theo “Kế
hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng” (được ban
hành kèm theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003 của Thủ tướng
Chính phủ). Tuy nhiên việc quản lý lưu vực sông là công việc không đơn giản
do tính đa dạng, sự khác biệt giữa các khu vực, giữa các tỉnh với nhau về điều
kiện tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, sự chênh lệch về nhận thức
bảo vệ môi trường của cộng đồng, năng lực quản lý của các cơ quan nhà nước
về bảo vệ môi trường không đồng đều.
Thời gian trước, chính sách môi trường thường mang tính kêu gọi, khuyến
khích và đôi khi hệ thống chính sách, pháp luật về môi trường vừa thiếu, vừa
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

13

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

không đồng bộ, có nhiều điểm không còn phù hợp với tình hình thực tế hiện
nay. Do trước đây, vấn đề môi trường ở nước ta chưa phải là vấn đề bức xúc cần

ưu tiên giải quyết. Nhưng hiện nay do yêu cầu phát triển và đặc biệt do quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để khắc phục vấn đề này chính phủ đã sửa đổi,
bổ sung và đổi mới quy trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để nâng
cao tính đồng bộ, tính khả thi, khắc phục được bệnh quan liêu trong việc xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
b. Nước sạch ở nông thôn Việt Nam
Nước sạch ở nông thôn là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô tận và do tự
nhiên ban tặng nên được sử dụng miễn phí. Cách hiểu này đã ăn sâu vào tiềm
thức của người dân và được củng cố qua nhiều thế hệ. Lý do của sự hiểu này là
do người dân nông thôn có thể sử dụng nhiều nguồn nước khác nhau cho ăn
uống, sinh hoạt mà không cần qua xử lý và cũng không chịu sự quản lý của ai.
Với họ không ai làm ra nước và vì thế không có sự mua và bán nước như các
loại hàng hóa khác. Thêm vào đó người dân nông thôn cũng chưa có một khái
niệm đúng và đủ nghĩa về “nước sạch”. Thông thường, người dân đánh giá mức
độ sạch của nước chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và cảm quan của mình chứ chưa
dựa vào các xét nghiệm mang tính khoa học, chính vì thế không ít người cho
rằng cứ nước mưa, nước giếng, nước suối, hồ … trong, không có vẩn đục là sạch
và có thể sử dụng. Cách hiểu nước là miễn phí đã theo những lý do đó mà tồn tại
từ hàng nghìn năm nay.
Khác với khu vực đô thị, các công trình cấp nước sạch ở nông thôn là
công trình nhỏ lẻ, các hệ thống cấp nước công cộng bằng đường ống dùng chung
cho nhiều hộ chưa phổ biến. Trong truyền thống, việc sử dụng nước giếng, nước
mưa, nước suối,… đã trở thành thói quen và hình thành nên những đặc trưng
văn hóa riêng của người dân nông thông với biểu tượng “cây đa – bến nước –
sân đình”. Bên cạnh đó, do điều kiện sống còn thấp và nguồn nước cho sinh hoạt
khá dồi dào nên người dân nông thôn chỉ quan tâm đến việc sử dụng nước chứ ít
quan tâm đến việc tích trữ nước. Chỉ từ sau năm 1945, khi Chính phủ phát động
các phong trào về vệ sinh môi trường thì người dân mới quen dần và có ý thức
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh


Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

14

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

hơn với khái niệm “trữ nước”. Tuy nhiên theo báo cáo của Văn phòng chương
trình mục tiêu quốc gia NS&VSMTNT thì đến năm 2008 khu vực nông thôn vẫn
còn hơn 50% số hộ nông thôn dùng nước giếng đào, 25% dùng nước sông, suối,
ao, hồ và hơn 10% dùng nước mưa. Bộ phận còn lại dùng nước giếng khoan và
nước cấp bằng hệ thống đường ống.
Một đặc trưng khác nữa, là dân cư nông thôn sống phân tán, mật độ dân
cư trên cùng một địa bàn thường thấp hơn nhiều so với khu vực đô thị nên làm
cho việc đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung và chi phí vận hành,
quản lý thường tốn kém hơn; Thêm vào đó, khả năng đầu tư xây dựng và chi trả
phí sử dụng nước của người dân nông thôn có hạn, mức sống của người dân
nông thôn nói chung còn rất thấp, tỷ lệ đói nghèo còn cao do đó khả năng huy
động vốn đóng góp của dân và khả năng chi trả cho “phí sử dụng nước” là rất
hạn chế.
Tuy nhiên bên cạnh những đặc thù trên, cũng phải thừa nhận, thị trường
nước sạch nông thôn ở Việt Nam là rất có tiềm năng để phát triển. Và khác với
quá khứ, mức độ đòi hỏi về chất lượng nước của người dân nông thôn ngày càng
cao hơn và những người có thu nhập cao sẵn sàng chi trả cho việc được sử dụng
nước sạch ngày càng nhiều. Những thống kê mới đây cho thấy nhiều địa phương
trong cả nước đã bước đầu có thể tự trang trải các chi phí cho việc cấp nước
sạch thông qua việc thí điểm kinh doanh nước nông thôn. Hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật đã được ban hành cũng đã và đang tạo điều kiện để phát

triển thị trường nước sạch nông thôn.
c. Tình hình cấp nước tại các đô thị ở Việt Nam
Trong thời gian qua, hệ thống cấp nước đô thị ở Việt Nam đã được Chính
Phủ quan tâm ưu tiên đầu tư cải tạo xây dựng và nâng cấp, nhờ vậy tình hình cấp
nước đã được cải thiện một cách đáng kể. Nhiều dự án với vốn đầu tư trong
nước, vốn tài trợ của các Chỉnh phủ, các tổ chức Quốc tế đã và đang được triển
khai.
Hiện nay trong cả nước đã có các dự án cấp nước ở các mức độ khác
nhau. Tổng công suất thiết kế đạt khoảng 3,5 triệu m3/ngày đêm. Nhiều các nhà
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

15

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

máy được xây dựng trong thời gian gần đây có dây chuyền công nghệ xử lý và
thiết bị hiện đại. Tuy vậy, tình hình cấp nước đô thị còn rất nhiều bất cập: Tỷ lệ
cấp nước còn thấp (trung bình dạt 45% tổng dân số đô thị được cấp nước, trong
đó đô thị loại I và II đạt tỷ lệ 67%, các đô thị loại IV và loại V chỉ đạt 10 đến
15%); Công suất thiết kế của một số nơi chưa phù hợp với thực tế (nhiều nơi
thiếu nước, nhưng cũng có những nơi thừa nước, không khai thác hết công suất,
cá biệt tại một số thị xã chỉ khai thác khoảng 15 đến 20% công suất thiết kế); Tỷ
lệ thất thoát thất thu nước còn cao (tỷ lệ thất thu cao không chỉ chứng tỏ sự yếu
kém về mặt năng lực quản lý mà còn thể hiện kết quả của quá trình đầu tư không
đồng bộ giữa việc tăng công suất với công tác phát triển mạng lưới đường ống;

Chất lượng nước tại một số nhà máy chưa đạt tiêu chuẩn.
1.3. Tình hình xây dựng và áp dụng định mức cấp nước thô trong
công tác quản lý khai thác công trình thuỷ lợi ở Việt Nam
1.3.1. Những nghiên cứu về chi phí cấp nước ở Việt Nam
Hiện nay, ở Việt Nam có hơn 600 đô thị. Bộ Xây dựng có chức năng quản
lý nhà nước về việc cung cấp nước đô thị, và hiện đang quản lý hơn 70 công ty
cấp nước với trên 250 hệ thống cấp nước để phục vụ sinh hoạt và công nghiệp
của các thành phố, thị xã tỉnh lị và thị xã trực thuộc tỉnh. Tổng công suất thiết kế
của các nhà máy trên khoảng 3.5 triệu m3/ngày đêm. Đối với các đô thị nhỏ, thị
trấn huyện lị mới chỉ có khoảng gần 25% các hệ thống cung cấp nước tập trung
với tổng công suất cấp nước đạt khoảng 450.000 m3/ngày đêm. Tuy nhiên tất cả
các đô thị đều dược cấp nước nhưng không những tỷ lệ dân số được cấp còn
thấp (60-70)% mà tiêu chuẩn định lượng cũng chỉ đạt 40-50% theo tiêu chuẩn
thiết kế.
Hầu hết hiện nay, việc cung cấp nước sinh hoạt được thực hiện bởi các
doanh nghiệp Nhà nước với cơ sở hạ tầng của ngành được Nhà nước đầu tư xây
dựng. Công tác quản lí vận hành, bảo dưỡng hệ thống này được giao cho các xí
nghiệp hoặc công ty cấp nước ở các tỉnh, thành phố đảm nhiệm. Tỷ lệ cấp nước
bình quân tại các đô thị mới chỉ đáp ứng khoảng 60% nhu cầu cấp nước cho
nhân dân với tiêu chuẩn bình quân 70 lít/người/ngày.
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

16

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng


Giá nước sạch do UBND tỉnh, thành phố trực tiếp quyết định vì vậy khác
nhau ở mỗi tỉnh và thường dao động từ 1200 đồng/m3 - 2800 đồng/m3. Doanh
thu về nước sạch hiện không đủ bù đắp chi phí sản xuất. Do vậy, hầu hết các
doanh nghiệp cấp nước chưa có khả năng tự chủ về tài chính trong sản xuất kinh
doanh, hàng năm Nhà nước vẫn phải phải bù lỗ. Để giải quyết tình trạng này
Chính phủ dự định ban hành khung giá nước sạch cho toàn quốc để làm cơ sở
cho các doanh nghiệp cấp nước tự chủ về tài chính để phát triển sản xuất, kinh
doanh.
Quan điểm nước là tài nguyên, nước là hàng hóa chưa được thể chế hóa
thành cơ chế, chính sách, nhất là các chính sách kinh tế, tài chính một cách đầy
đủ để tạo nội lực và động lực phát triển bền vững, bảo đảm khai thác nước hợp
lý, cung ứng nước thỏa mãn các nhu cầu của xã hội, tạo cơ sở để sử dụng nước
tiết kiệm, có hiệu quả và bảo vệ tốt tài nguyên nước.
Các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các quy định về quyền và nghĩa
vụ tài chính trong khai thác tài nguyên nước, cung ứng và sử dụng dịch vụ nước
theo Luật Tài nguyên nước chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Ngân sách Nhà nước
vẫn phải gánh chịu hầu hết các khoản vốn đầu tư phát triển và chi phí vận hành
các công trình cấp, thoát nước.
Trong suốt thời gian dài, giá tiêu thụ nước sạch bị chi phối quá lớn bởi
các yếu tố xã hội, công ích, ít quan tâm đến ảnh hưởng của nó đối với đơn vị
hoạt động cấp nước trong việc bảo đảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, nhất là
sau khi cổ phần hoá, bảo đảm tích luỹ để đầu tư. Giá tiêu thụ nước sạch hiện tại
đối với số đông khách hàng sử dụng nước sạch cho nhu cầu sinh hoạt chỉ mới
bằng 60% giá bán bình quân. Chính điều này khiến các doanh nghiệp không
đảm bảo được tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phần lớn còn
phụ thuộc vào nguồn ngân sách cấp phát để phục vụ nhu cầu nước cho người
dân.
Các nhà máy và hệ thống cấp nước chủ yếu lấy nước từ nguồn nước mặt.
Tuy nhiên, đối với các đô thị vùng ven biển, những vùng nước tự nhiên bị ô


Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

17

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

nhiễm hoặc không đảm bảo chất lương và nơi xa nguồn nước mặt tự nhiên, thì
các đơn vị này thường phải lấy nước từ hệ thống công trình thuỷ lợi.
Trước đây, nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thuỷ lợi là phục vụ sản
xuất nông nghiệp và dân sinh. Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước trong tình hình mới, thực hiện chương trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
trong điều kiện không có các công trình chuyên phục vụ cấp nước thô cho công
nghiệp và sinh hoạt, nên hệ thống công trình thuỷ lợi phục vụ tưới tiêu hiện có
đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm nhiệm vụ chiến lược mới này. Như
vậy, việc quản lý, vận hành các công trình thuỷ lợi của Công ty sẽ phức tạp,
thường xuyên, chính xác hơn. Công tác kiểm định, đánh giá, giám sát chất lượng
nước và xử lý ô nhiễm nguồn nước ngặt nghèo và chuẩn mực hơn so với chỉ có
một nhiệm vụ phục vụ tưới tiêu, và vì vậy, chi phí cho dịch vụ cấp nước từ hệ
thống cũng ngày một tăng cao.
Để tài nguyên nước được phát triển bền vững, việc khai thác, sử dụng tiết
kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu nguồn tài nguyên này, cần phải coi sản
phẩm nước là hàng hoá, sớm xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện xã hội hoá các
hoạt động bảo vệ, phát triển nguồn nước và cung ứng dịch vụ nước. Xây dụng
và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, tiêu chuẩn, định mức trong lĩnh

vực tài nguyên nước và phát triển các dịch vụ về nước nhằm quản lý chặt chẽ tài
nguyên nước, tạo động lực phát triển bền vững ngành kinh tế nước nhiều thành
phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Để xoá bỏ bao cấp trong các dịch vụ cung ứng nước, bảo đảm giá của
dịch vụ cung ứng nước được tính đúng, tính đủ. Thực hiện chính sách chia sẻ lợi
ích và trách nhiệm tài chính giữa các tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài
nguyên nước, đảm bảo nguồn tài chính bổ sung cho việc vận hành công trình
thuỷ lợi đáp ứng nhiệm vụ mới, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, phấn
đấu giảm chi phí, giảm thất thoát nước, đồng thời khuyến khích khách hàng sử
dụng tiết kiệm nước và để có cơ sở pháp lý thanh toán giữa công ty và các tổ
chức dịch vụ nói trên, cần thiết phải xây dựng được các định mức chi phí các
công tác cấp nước thô theo đúng chế độ chính sách của Nhà nước.
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

18

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

1.3.2. Đánh giá chung về các nghiên cứu
Các nghiên cứu của các nước và nhiều tác giả đã khẳng định, nước ngọt là
tài nguyên có hạn dễ bị xâm hại và đóng vai trò thiết yếu đối với cuộc sống. Một
nửa dân số trên thế giới nằm trong số những người có nguy cơ không có điều
kiện để tiếp cận nguồn nước sạch và dịch vụ nước sạch. Để đảm bảo duy trì,
quản lý bảo tồn, khai thác, phân phối và sử dụng nguồn tài nguyên này công
bằng, hợp lý và tiết kiệm, đòi hỏi phải dựa trên cách tiếp cận coi nước là hàng

hoá có giá trị trong mọi sử dụng cạnh tranh.
Ở Việt Nam, chúng ta cũng đã và đang nhận thức ngày một rõ hơn tầm
quan trọng của việc tính toán đầy đủ và rõ ràng giá cấp nước cho các đối tượng
sử dụng nước từ các hệ thống thuỷ lợi. Là hệ thống phục vụ công ích là chính,
nhưng công trình thuỷ lợi cần phải có nguồn kinh phí để duy trì các hoạt động
sản xuất của mình, ngoài ra nó cũng cần một khoản kinh phí không nhỏ để duy
tu, bảo dưỡng, cải tạo nâng cấp, mở rộng quy mô và chất lượng phục vụ. Đáp
ứng ngày một tốt hơn xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, Thoả
mãn ngày một cao hơn chất lượng cuộc sống của người dân, giảm dần gánh
nặng bao cấp của Nhà nước.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mở cửa, để giúp các đơn vị kinh tế
của ngành thuỷ lợi (trong một thời gian dài được bao cấp) bước vào hội nhập,
Nhà nước cần phải tạo điều kiện từ chủ trương, chính sách đến các hành lang
pháp lý, để các đơn vị sớm tính toán xác định được năng lực thực sự, khả năng
cạnh tranh của mình. Việc các doanh nghiệp cần phải thực hiện trước hết là xây
dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật làm căn cứ để xác định giá dịch vụ cấp
nước từ các hệ thống hiện có.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Định mức chi phí cấp nước thô là một trong những công cụ quan trọng và
rất cần thiết trong tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh
nghiệp quản lý khai thác công trình thủy lợi. Tuy nhiên, khác với các loại hình
doanh nghiệp công nghiệp, định mức chi phí cấp nước thô của mỗi hệ thống
công trình là không giống nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Giá cả thị
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế


19

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

trường, loại hình công trình, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội,… vì vậy, để các
chỉ tiêu định mức phù hợp và có thể áp dụng vào thực tiễn cần phải tính toán
riêng cho từng hệ thống công trình, không thể lấy định mức của hệ thống này để
áp dụng cho hệ thống khác. Trong thời gian qua, chúng ta đã có nhiều cố gắng
trong việc xây dựng và áp dụng hệ thống định mức chi phí cấp nước tại các hệ
thống quản lý khai thác công trình thuỷ lợi. Bên cạnh những thành công, những
kết quả đạt được, công tác này cũng còn có những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu bổ sung hoàn thiện và đẩy mạnh hơn nữa.
Trong tình hình mới, nền kinh tế phát triển, nhất là vấn đề biến đổi khí
hậu và suy kiệt nguồn nước, hoạt động sản xuất kinh doanh cung cấp dịch vụ
của các hệ thống công trình thuỷ lợi được mở rộng theo hướng cung cấp nước
thô phục vụ công nghiệp và sinh hoạt. Đã đến lúc chúng ta phải bắt tay ngay vào
việc xây dựng hệ thống định mức cấp nước thô đầy đủ và đồng bộ cho các hệ
thống, trong đó có việc quan tâm xây dựng định mức chi phí cấp nước thô từ hệ
thống công trình thuỷ lợi cho các hệ thống có dịch vụ này.

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

20

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng


CHƯƠNG II
CƠ SỞ XÂY DỰNG ĐỊNH MỨC CẤP NƯỚC THÔ
PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP VÀ SINH HOẠT
2.1. Khái niệm về nước thô từ hệ thống công trình thủy lợi phục vụ
công nghiệp và sinh hoạt
Từ trước tới nay, nhiệm vụ chủ yếu của các công trình thuỷ lợi là phục vụ
sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, hoạt động sản xuất của của các hệ thống công
trình thuỷ lợi đa dạng và mang tính tổng hợp hơn. Nhiều hệ thống phục vụ tưới
tiêu hiện có đang được đầu tư, nâng cấp để đảm nhiệm nhiệm vụ chiến lược mới
như cấp nguồn nước phục vụ cho các nhà máy nước sạch phục vụ công nghiệp
và dân sinh; cấp nước cho nuôi trồng thuỷ sản, du lịch,... Nguồn nước cấp từ
công trình thuỷ lợi, từ hệ thống sông ngòi tự nhiên cho các nhà máy và công
trình sản xuất cấp nước sạch cho công nghiệp và sinh hoạt gọi là nước thô. Như
vậy, nước thô là nguồn nước tự nhiên, chưa qua công đoạn làm sạch.
Trong điều kiện hiện nay, ở Khánh Hòa, Định mức chi phí cấp nước thô là
cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương giám sát quá
trình quản lý vận hành công trình thuỷ lợi, đảm bảo chất lượng nước thô theo
thoả thuận và thanh quyết toán chi phí cho doanh nghiệp theo sản lượng nước
thô cấp cho các nhà máy sử dụng nước. Ngoài ra, Định mức này cũng là căn cứ
để các công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi quản lý vận hành công trình
theo đúng quy trình, quy phạm, quy định; Bố trí, sắp xếp và sử dụng lao động
hợp lý trong hệ thống, nâng cao năng suất lao động; chủ động trong việc lập kế
hoạch sản xuất, tài chính và chi phí sản xuất hàng năm; có quyền được thanh
quyết toán các khoản mục chi phí theo kết quả sản xuất đã đạt được.
Hệ thống công trình thuỷ lợi Nam Khánh Hoà đang ngày càng được hoàn
thiện, nhưng đến nay cơ chế, chính sách cho việc quản lý khai thác công trình vẫn
còn nhiều bất cập, đặc biệt là thiếu hệ thống các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật
đã ban hành kèm theo Quyết định số 3098/QĐ-UBND ngày 17/12/2008 của
UBND tỉnh Khánh Hòa về việc ban hành định mức kinh tế kỹ thuật trong công

tác quản lý khai thác công trình thủy lợi do Công ty khai thác công trình thủy lợi
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

21

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

Nam Khánh Hòa quản lý nhưng chưa ban hành định mức cấp nước thô làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả phục vụ tưới tiêu cũng như tuổi thọ của công
trình.
Định mức chi phí cấp nước thô phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt
là nhằm xác định các mức hao phí cần thiết cho các công việc quản lý vận hành
hệ thống công trình thủy lợi nhằm đảm bảo điều tiết, đưa dẫn nước đến vị trí lấy
nước của các nhà máy công nghiệp và sinh hoạt.
Định mức chi phí cấp nước thô là thước đo các chi phí sản xuất, nó có tác
dụng nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân, giáo dục công nhân tiết kiệm
nâng cao trình độ quản lý ở các cơ sở sản xuất.
Định mức chi phí cấp nước thô được xây dựng đảm bảo các yêu cầu chủ
yếu sau:
- Có luận chứng khoa học về kinh tế kỹ thuật đảm bảo xác định đúng đắn
các hao phí cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của công trình.
- Tính đến các yếu tố khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm đồng thời xét
đến khả năng thực tế có thể thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật của các đơn
vị sản xuất trong điều kiện thời tiết bình thường.
- Định mức chi phí cấp nước thô được xây dựng trên cơ sở hiện trạng hệ

thống công trình thuỷ lợi thuộc Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Nam
Khánh Hoà quản lý và các điều kiện khí tượng thuỷ văn, địa hình, địa chất, cây
trồng, ... trong vùng, theo đầy đủ nội dung công việc phù hợp với quy trình, quy
phạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
2.2. Khái niệm và vai trò của định mức chi phí cấp nước thô
2.2.1. Khái niệm và vai trò của định mức nói chung
Mức (ngôn ngữ phổ thông thường gọi là định mức) được hiểu là tiêu
chuẩn, quy định (cho phép) tối đa về nguồn lực: Lao động, vật tư, tiền vốn, thời
gian lao động, ... để hoàn thành một công việc, nhiệm vụ, chức năng, một khối
lượng sản phẩm nhất định trong điều kiện tổ chức sản xuất cụ thể.
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

22

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

Như vậy chúng ta có thể coi mức lao động như một thước đo để tính toán,
định liệu, tổ chức, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất nói chung.
Nhiệm vụ của công tác định mức kinh tế - kỹ thuật là dùng phương pháp
khoa học, tiên tiến để nghiên cứu, tính toán xác định quan hệ giữa số lượng sản
phẩm với sự tiêu hao cần thiết về nhân lực và vật lực, định ra một tiêu chuẩn
hợp lý trong sản xuất xây dựng, phát hiện và sử dụng một cách đầy đủ nhất mọi
khả năng tiềm tàng trong quá trình sản xuất để ngày càng hoàn thiện và phát
triển nền sản xuất xã hội, không ngừng tăng năng suất lao động và giảm giá
thành xây dựng.

Định mức là một hoạt động thực tiễn trong việc xây dựng các mức kinh
tế - kỹ thuật nói chung. Định mức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, từ các doanh
nghiệp tư nhân, các công ty, nhà máy, công ty, xí nghiệp cho đến các cơ quan
quản lý nhà nước, từ lĩnh vực kinh doanh cho đến hoạt động sản xuất, nghiên
cứu, quản lý, ... Mỗi lĩnh vực hoạt động đều đã xây dựng cho mình những định
mức riêng, đồng thời cũng áp dụng các định mức chung do nhà nước quy định
để dễ dàng hơn trong công việc tính toán chi phí (như chi phí nhân công, chi phí
nguyên vật liệu, chi phí nguồn lực khác…), giúp nhà nước quản lý tốt hơn sự
hoạt động của các doanh nghiệp, cũng như giúp các doanh nghiệp quản lý tiết
kiệm, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình; giúp các nhà đầu tư
trong việc so sánh, đánh giá để từ đó quyết định phương hướng đầu tư, …
Tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản
phẩm là điều kiện chủ yếu và quyết định để một doanh nghiệp phát triển. Muốn
sản xuất phát triển thì nhất thiết doanh nghiệp phải hoàn thiện về tổ chức sản
xuất, tổ chức lao động, phương thức quản lý, chiến lược kinh doanh đáp ứng
mọi nhu cầu cho xã hội trong nền kinh tế thị trường, ... Bộ phận chính để thực
hiện tổ chức lao động hợp lý là phải hoàn thiện công tác định mức kinh tế - kỹ
thuật.
Định mức kinh tế - kỹ thuật là tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn do Nhà nước,
địa phương, doanh nghiệp hoặc bộ phận sản xuất quy định, nó phản ánh trình độ
và điều kiện sản xuất của tổ chức sản xuất trong từng giai đoạn nhất định. Định
mức kinh tế - kỹ thuật dùng để khống chế việc sử dụng tiền vốn, vật tư, thiết bị,
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

23


GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

máy móc, nhân lực một cách hợp lý. Trong hoạt động quản lý vận hành các hệ
thống thuỷ lợi, thì định mức kỹ thuật là tiêu chuẩn biểu thị mối quan hệ giữa sự
tiêu dùng nguồn tài nguyên (nhân lực, vật liệu, máy móc thiết bị xây dựng ) với
số lượng sản phẩm có chất lượng, hợp quy cách trong điều kiện tổ chức sản xuất
cụ thể.
2.2.2. Khái niệm và vai trò của định mức chi phí cấp nước thô
a. Khái niệm về định mức chi phí cấp nước thô
Định mức chi phí cấp nước thô phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt
từ hệ thống công trình thuỷ lợi (gọi tắt là Định mức chi phí cấp nước thô) là chi
phí tối đa cần thiết, bình quân mà một Doanh nghiệp quản lý khai thác công
trình thuỷ lợi cần phải bỏ ra trong một chu kỳ sản xuất (thường là một năm), ứng
với điều kiện năm sản xuất bình thường, mặt bằng giá cả nhất định, phù hợp với
những quy định của hệ thống văn bản pháp luật hiện hành, để Doanh nghiệp
hoàn thành việc cung cấp một khối lượng nước thô đảm bảo chất lượng thoả
thuận đến vị trí lấy nước của các công trình cấp nước của các đơn vị dùng nước
trên hệ thống.
Trong điều kiện hiện nay, ở Khánh Hòa, Định mức chi phí cấp nước thô là
cơ sở quan trọng để các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa phương giám sát quá
trình quản lý vận hành công trình thuỷ lợi, đảm bảo chất lượng nước thô theo
thoả thuận và thanh quyết toán chi phí cho doanh nghiệp theo sản lượng nước
thô cấp cho các nhà máy sử dụng nước. Ngoài ra, Định mức này cũng là căn cứ
để Công ty quản lý khai thác công trình thuỷ lợi quản lý vận hành công trình
theo đúng quy trình, quy phạm, quy định; Bố trí, sắp xếp và sử dụng lao động
hợp lý trong hệ thống, nâng cao năng suất lao động; chủ động trong việc lập kế
hoạch sản xuất, tài chính và chi phí sản xuất hàng năm; có quyền được thanh
quyết toán các khoản mục chi phí theo kết quả sản xuất đã đạt được.
Hệ thống công trình thuỷ lợi Nam Khánh Hoà đang ngày càng được hoàn

thiện, nhưng đến nay cơ chế, chính sách cho việc quản lý khai thác công trình vẫn
còn nhiều bất cập, đặc biệt là thiếu hệ thống các chỉ tiêu định mức kinh tế kỹ thuật
đã ban hành kèm theo Quyết định số 3098/QĐ-UBND ngày 17/12/2008 của
Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

24

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

UBND tỉnh Khánh Hòa về việc ban hành định mức kinh tế kỹ thuật trong công
tác quản lý khai thác công trình thủy lợi do Công ty khai thác công trình thủy lợi
Nam Khánh Hòa quản lý nhưng chưa ban hành định mức cấp nước thô làm ảnh
hưởng không nhỏ đến hiệu quả phục vụ tưới tiêu cũng như tuổi thọ của công
trình.
Định mức chi phí cấp nước thô phục vụ sản xuất công nghiệp và sinh hoạt
là nhằm xác định các mức hao phí cần thiết cho các công việc quản lý vận hành
hệ thống công trình thủy lợi nhằm đảm bảo điều tiết, đưa dẫn nước đến vị trí lấy
nước của các nhà máy công nghiệp và sinh hoạt.
Định mức chi phí cấp nước thô là thước đo các chi phí sản xuất, nó có tác
dụng nâng cao trình độ kỹ thuật cho công nhân, giáo dục công nhân tiết kiệm
nâng cao trình độ quản lý ở các cơ sở sản xuất.
Định mức chi phí cấp nước thô được xây dựng đảm bảo các yêu cầu chủ
yếu sau:
- Có luận chứng khoa học về kinh tế kỹ thuật đảm bảo xác định đúng đắn
các hao phí cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của công trình.

- Tính đến các yếu tố khoa học kỹ thuật, các kinh nghiệm đồng thời xét
đến khả năng thực tế có thể thực hiện các định mức kinh tế kỹ thuật của các đơn
vị sản xuất trong điều kiện thời tiết bình thường.
- Định mức chi phí cấp nước thô được xây dựng trên cơ sở hiện trạng hệ
thống công trình thuỷ lợi thuộc Công ty khai thác công trình thuỷ lợi Nam
Khánh Hoà quản lý và các điều kiện khí tượng thuỷ văn, địa hình, địa chất, cây
trồng, ... trong vùng, theo đầy đủ nội dung công việc phù hợp với quy trình, quy
phạm quản lý khai thác công trình thuỷ lợi.
Hệ thống định mức chi phí cấp nước thô cho công tác quản lý khai thác
công trình thuỷ lợi làm cơ sở giúp cho doanh nghiệp:

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


 Luận văn thạc sĩ kinh tế

25

GVHD: PGS.TS. Phạm Hùng

- Bố trí sắp xếp và sử dụng lao động hợp lý, nâng cao năng suất lao động.
Quản lý vận hành công trình theo đúng quy trình, quy phạm, nâng cao hiệu quả,
đảm bảo chất lượng nước.
- Giao khoán cho các cụm, trạm thuỷ nông, gắn chế độ lương, thưởng với
trách nhiệm, kết quả sản xuất của người lao động.
- Lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch tài chính hàng năm.
- Thanh quyết toán các khoản mục chi phí theo kết quả sản xuất.
Đồng thời, đây là cơ sở để giúp cơ quan quản lý Nhà nước duyệt kế hoạch

sản xuất và sử dụng lao động, thanh quyết toán chi phí, xác định mức cấp bù cho
doanh nghiệp công ích theo chế độ quy định của Nhà nước.
b. Vai trò của công tác xây dựng định mức
Định mức là một trong những nội dung quan trọng mà hầu hết Chính phủ
của các nước thường hay áp dụng. Ở Việt Nam công tác lập và xây dựng nhiều
loại định mức khác nhau và được Chính phủ công bố thực hiện nhằm hướng dẫn
hoặc kiểm soát nhiều hoạt động kinh tế.
Phương pháp quản lý có vai trò hết sức quan trọng đến sự thành công
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong lĩnh vực quản lý thì
định mức thể hiện vai trò quan trọng nhằm mục đích cho công tác quản lý được
dễ hơn, đem lại những kết quả cao hơn và đảm bảo hiệu quả về lợi ích chi phí
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hiện nay, vấn đề thâm hụt tài chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh
ở các hệ thống thủy lợi đang là vấn đề chưa có lời giải. Nguồn kinh phí thu được
của các hệ thống công trình thủy lợi từ cấp nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông
nghiệp và các ngành tham gia hưởng lợi không đủ để trang trải cho duy tu bảo
dưỡng và vận hành công trình của hệ thống. Do thiếu kinh phí trong hoạt động
vận hành và duy tu cải tạo, nên các hệ thống thủy lợi hiện nay ngày càng bị
xuống cấp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng gặp
nhiều khó khăn. Từ thực tế cho thấy việc xây dựng và áp dụng định mức chi phí

Học viên : Nguyễn Tuấn Anh

Lớp: CH17KT


×