Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (915.35 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THU HÀ

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành
Mã số

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trương Quang Vinh

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Tội trộm cắp tài sản trong Luật hình sự
Việt Nam” là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện. Những nội dung trong luận
văn này được thực hiện dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Trương Quang
Vinh. Các kết qủa nghiên cứu là trung thực và chưa từng công bố ở các nghiên
cứu khác. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của
luận văn này.

Hà Nội, ngày 22 tháng 08 năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG



NGƯỜI CAM ĐOAN

DẪN

Phạm Thu Hà

TS. Trương Quang Vinh


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn, trước hết tôi xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo
giảng dạy, giúp đỡ của các thầy cô trong trường Đại học Luật Hà Nội, đặc
biệt là khoa Pháp luật hình sự đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ tôi, trang bị
cho tôi những hiểu biết, kiến thức để nghiên cứu những vấn đề trong luận văn
này trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu tại trường.
Người tôi muốn đặc biệt cảm ơn là thầy giáo hướng dẫn của tôi, TS.
Trương Quang Vinh - trường Đại học Luật Hà Nội đã tận tình hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn thạc sĩ này.
Do kiến thức còn hạn chế nên luận văn sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô và các bạn đọc có
quan tâm đến vấn đề này để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 22 tháng 08 năm 2016
Học viên

Phạm Thu Hà



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

CTTP

: Cấu thành tội phạm

TAND

: Tòa án nhân dân

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


Bảng 1. Số vụ và số người phạm tội trộm cắp tài sản so với số vụ và số người
phạm các tội xâm phạm sở hữu và phạm tội trên cả nước trong giai đoạn 2011
- 2015
Bảng 2. Số vụ và số người phạm tội trộm cắp tài sản so với số vụ và số người
của tội phạm nói chung trên cả nước trong giai đoạn 2011 - 2015
Bảng 3. Số vụ, số người phạm tội trộm cắp tài sản đã bị khởi tố, truy tố, xét
xử trong giai đoạn 2011 – 2015
Bảng 4. Cơ cấu tội trộm cắp tài sản theo loại và mức hình phạt đã tuyên trong
giai đoạn 2010 – 2015


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................... 7
1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản ............................................................... 7
1.2. Lịch sử lập pháp về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự Việt
Nam từ 1945 đến nay ................................................................................... 10
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật hình sự 1985 .......................................................................................... 10
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự 1999 .................................................................................... 16
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 đến trước khi ban hành
Bộ luật hình sự 2015 .................................................................................... 20
1.3. Tội trộm cắp tài sản quy định trong Bộ luật hình sự của một số nước
trên thế giới .................................................................................................. 23
1.3.1. Tội trộm cắp tài sản quy định trong Bộ luật hình sự Liên bang Nga ... 23
1.3.2. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa ............................................................................................................ 25
Chương 2: TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT

HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 .............................................................. 27
2.1. Các dấu hiệu pháp lý cơ bản của tội trộm cắp tài sản ............................. 27
2.1.1. Khách thể của tội trộm cắp tài sản ...................................................... 27
2.1.2. Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản ............................................. 32
2.1.3. Chủ thể của tội trộm cắp tài sản .......................................................... 40
2.1.4. Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản ................................................. 43
2.2.1. Đường lối xử lý đối với các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều
138 Bộ luật Hình sự ..................................................................................... 46


2.2.2. Đường lối xử lý đối với các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều
138 Bộ luật Hình sự ..................................................................................... 54
2.2.3. Đường lối xử lý đối với các trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều
138 Bộ luật Hình sự ..................................................................................... 59
2.2.4. Đường lối xử lý đối với các trường hợp được quy định tại khoản 4 Điều
138 Bộ luật Hình sự ..................................................................................... 61
2.2.5. Hình phạt bổ sung............................................................................... 63
2.3. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm khác trong Bộ luật
hình sự Việt Nam 1999 ................................................................................ 63
2.3.1. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội công nhiên chiếm đoạt tài sản tại
Điều 137 Bộ luật hình sự năm 1999 ............................................................. 63
2.3.2. Phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội sử dụng mạng máy tính, mạng
viễn thông, mạng internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
tại Điều 226b Bộ luật hình sự năm 1999....................................................... 64
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN.......................................................................... 66
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản ..................... 66
3.2. Nguyên nhân của những tồn tại, bất cập trong thực tiễn áp dụng các quy
định của Luật hình sự năm 1999 đối với tội trộm cắp tài sản ........................ 75

3.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản ........................... 77
3.3.2. Một số giải pháp khác......................................................................... 79
KẾT LUẬN.................................................................................................. 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 89


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan
trọng, thiết thân của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của
các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Trong các hình thái xã hội khác
nhau, Nhà nước đều sử dụng các biện pháp để bảo vệ quyền sở hữu tài sản
hợp pháp của con người và hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của con người
đều bị áp dụng những hình thức trách nhiệm pháp lý nhất định như: trách
nhiệm bồi thường, trách nhiệm hoàn trả vật, tài sản trong pháp luật dân sự hay
điều tra, truy tố, xét xử một người khi họ có hành vi xâm phạm quyền sở hữu
ở mức độ nghiêm trọng. Thông qua việc đánh giá coi hành vi xâm phạm
quyền sở hữu của con người là tội phạm và áp dụng hình phạt đối với người
phạm tội, Nhà nước luôn thể hiện thái độ đấu tranh không khoan nhượng đối
với loại hành vi này.
Nghiên cứu diễn biến tội phạm trong những năm vừa qua, trên phạm vi
toàn quốc, có thể thấy rằng nhóm các tội xâm phạm sở hữu thuộc loại tội
phạm có diễn biến phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ở hai điểm: số vụ
liên tục tăng và mức độ nguy hiểm cũng ngày càng nghiêm trọng. Hành vi
phạm tội xâm phạm sở hữu đã gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản của Nhà
nước, của tổ chức và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã
hội. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các tội xâm phạm sở hữu trong những
năm vừa qua cho thấy loại tội trộm cắp tài sản luôn chiếm một lượng đáng kể

trong tổng số các tội phạm hàng năm, trong đó, tội trộm cắp tài sản là tội xâm
phạm sở hữu có mức độ xảy ra nhiều nhất (năm 2015, chiếm 67,54% số vụ và
66,23% số người trên tổng số vụ và số người phạm các tội xâm phạm sở hữu;
chiếm 28,69% số vụ và 23,92% số người trên tổng số vụ và số người phạm tội
nói chung trên phạm vi cả nước). Đây là loại tội diễn biến ngày một gia tăng
với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt.
Tuy nhiên, với tình hình tội trộm cắp tài sản phức tạp như vậy, thực
tiễn cho thấy hiệu quả công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm


2

cắp tài sản còn chưa cao. Công tác phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm
này còn yếu kém, sự phối hợp giữa các lực lượng, các ngành chưa đồng bộ,
chưa chặt chẽ. Ý thức tự bảo vệ tài sản của mình và tham gia bảo vệ tài sản
của người khác trong nhân dân còn yếu. Các cơ quan, xí nghiệp, tổ chức kinh
tế tuy có điều kiện về tài chính nhưng công tác bảo vệ tài sản còn lơ là mất
cảnh giác, ít quan tâm trong việc trang bị các phương tiện khoa học kỹ thuận
để phục vụ cho việc phòng chống tội trộm cắp. Bên cạnh đó, số đối tượng bị
phạt tù sau khi mãn hạn tù để hòa nhập cộng đồng còn chưa được quản lý chặt
chẽ, do đó tỷ lệ tái phạm là rất cao.
Nhận thấy việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản mang tính cấp thiết
không những về lý luận mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay để từ đó đề
ra những biện pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự cũng như
nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội
trộm cắp tài sản. Vì lý do đó, tác giả đã chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ thực trạng về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước cho
đến nay đã có không ít những công trình nghiên cứu khoa học có liên quan

đến đề tài, về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau:
“Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Tập 2” trường Đại học Luật Hà Nội,
Nxb Công an nhân dân năm 2015; “Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam – Phần
các tội phạm” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội năm 2007; “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm, Tập 2” của tác giả Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh năm
2002; “Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản” của tác giả
Cao Thị Oanh (chủ biên), Nxb Tư pháp năm 2015.
Luận án tiến sĩ luật học “Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm sở hữu” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí năm 2000; Luận án tiến sĩ luật
học “Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội này ở Việt Nam” của
tác giả Hoàng Văn Hùng năm 2007; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội trộm cắp


3

tài sản – So sánh giữa Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Hình sự Việt Nam” của
tác giả Vũ Thị Thùy Dung năm 2013.
Bên cạnh đó, còn phải kể đến các công trình nghiên cứu dưới góc độ tội
phạm học về tình hình tội trộm cắp tài sản trên một địa bàn cụ thể như: Luận
văn Thạc sĩ Luật học “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên” của tác giả Đinh Quang Tuyền năm 2015; Luận văn Thạc sĩ Luật
học “Phòng ngừa tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Nghệ An” của tác giả
Đặng Thị Phương Linh năm 2014; Luận văn Thạc sĩ Luật học “Phòng ngừa
tội trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương” của tác giả Nguyễn Thị
Thúy An năm 2013.
Ngoài ra còn một số bài viết của nhiều tác giả đăng trên các tạp chí,
sách, báo khoa học đề cập tới tội trộm cắp tài sản như: “Quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về “tội trộm cắp tài sản” của tác giả Mai Bộ trên tạp chí
TAND số 9 năm 2015; “Phân biệt một số dấu hiệu đặc trưng của tội trộm

cắp tài sản khi định tội danh” của tác giả Trần Mạnh Hà trên tạp chí TAND
số 10 năm 2006; “Yếu tố định lượng tài sản đối với tội trộm cắp tài sản” của
tác giả Dương Vân Anh trên tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
số 23 năm 2014.
Các công trình nghiên cứu trên về cơ bản đã đánh giá khái quát được về
nội dung, tình hình và thực trạng của tội trộm cắp tài sản trên phạm vi cả nước
hoặc trên một số địa bàn nhất định, từ đó rút ra các biện pháp phòng ngừa tội
phạm tương ứng. Tuy nhiên, việc nghiên cứu tội trộm cắp tài sản dưới góc
nhìn của Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Luật hình sự vẫn còn quá ít tác giả
đề cập đến. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu đề tài “Tội trộm cắp tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam” cả về phương diện lý luận và thực tiễn là điều
cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản, tìm hiểu thực trạng về tội trộm cắp tài
sản trong những năm gần đây.


4

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi
những vấn đề liên quan đến tội trộm cắp tài sản dưới góc độ luật hình sự, tập
trung vào quy định hiện hành của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp
tài sản.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự về tội trộm cắp tài sản dưới khía cạnh lập pháp hình sự và thực
tiễn áp dụng, từ đó luận văn đưa ra các đề xuất hoàn thiện Bộ luật hình sự về
loại tội phạm này, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản.

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài nghiên cứu phải trả lời được các câu
hỏi sau đây:
- Tội trộm cắp tài sản là gì? Lịch sử lập pháp hình sự của Việt Nam về
loại tội phạm này từ khi Cách mạng tháng 8 thành công đến nay như thế nào?
So sánh với tội trộm cắp tài sản được quy định trong Bộ luật hình sự của một
số nước trên thế giới?
- Dấu hiệu pháp lý hình sự của tội trộm cắp tài sản theo Điều 138 Bộ luật
hình sự năm 1999 và những điểm mới của tội này tại Điều 173 Bộ luật hình
sự năm 2015?
- Phân biệt tội trộm cắp tài sản với một số tội phạm cùng loại hoặc có
liên quan?
- Thực tiễn áp dụng qua các số liệu điều tra, truy tố, xét xử loại tội này
trong thời gian 5 năm như thế nào?
- Các giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về tội trộm
cắp tài sản và các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản?


5

6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các văn bản pháp luật, các
công trình nghiên cứu, các tài liệu khác có liên quan đến tội trộm cắp tài sản
và công tác phòng chống loại tội phạm này.
- Phương pháp thống kê: Thu thập, tổng hợp các tài liệu, số liệu phản
ánh hoạt động phòng chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn cả nước.
- Phương pháp điều tra điển hình: nghiên cứu sâu một số vụ án điểm
hình cho từng loại phương thức, thủ đoạn gây án. Từ đó rút ra những kết luận

phù hợp với mục đích nghiên cứu.
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa
có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng chống tội trộm cắp
tài sản.
- Về mặt lý luận: luận văn đã tổng hợp các quan điểm khoa học về tội
trộm cắp tài sản, nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội trộm cắp
tài sản, qua đó góp phần hoàn thiện nội dung quy định của tội trộm cắp tài sản
được quy định tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Về mặt thực tiễn: những giải pháp đề xuất nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
về tội trộm cắp tài sản.
- Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người
nghiên cứu, cho người làm công tác thực tiễn liên quan đến việc áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trong thực tế. Đồng thời
là nguồn tham khảo cho những cá nhân quan tâm đến pháp luật hình sự nói
chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng.


6

8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Một số vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật
hình sự Việt Nam
Chương II. Tội trộm cắp tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999

Chương III. Thực tiễn áp dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản


7

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
1.1.

Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Trong lịch sử lập pháp Việt nam và các nước trên thế giới tồn tại hai
khuynh hướng khác nhau khi quy định về tội trộm cắp tài sản trong văn bản
pháp luật hình sự. Khuynh hướng thứ nhất không đưa ra định nghĩa pháp lý
của khái niệm tội trộm cắp tài sản mà mặc nhiên thừa nhận nó. Khuynh hướng
thứ hai có quy phạm định nghĩa về khái niệm tội trộm cắp tài sản1. Ở mỗi giai
đoạn lập pháp hình sự, Nhà nước ta đều ban hành các quy định về tội trộm
cắp tài sản và đường lối xử lý người phạm tội, song các văn bản pháp luật của
Nhà nước ta sau Cách mạng tháng 8 đều không đưa ra khái niệm về tội này,
nghĩa là thể hiện theo khuynh hướng thứ nhất, không có quy phạm định nghĩa
của khái niệm tội trộm cắp tài sản, chỉ quy định tội danh một cách đơn giản
được thể hiện trong Điều 132, Điều 155 BLHS năm 1985 và Điều 138 BLHS
năm 1999. Như vậy, cần tìm hiểu thế nào là tội trộm cắp tài sản.
Qua nghiên cứu pháp luật hình sự một số nước trên thế giới cho thấy,
hầu hết các nước như Liên bang Nga, Malaixia, Cộng hòa liên bang Đức,...
đều theo khuynh hướng thứ hai. Cụ thể:
Theo Điều 158 BLHS Liên Bang Nga năm 1996 (có hiệu lực từ
01/07/1997) đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm trộm cắp: “Trộm cắp tài

sản nghĩa là bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác thì bị ....”2. Qua khái
niệm này cho thấy hành vi phạm tội trộm cắp là hành vi chiếm đoạt tài sản, sự
chiếm đoạt tài sản được thực hiện một cách bí mật và tài sản bị chiếm đoạt
phải là tài sản của người khác.
Ngoài ra, BLHS Liên bang Nga còn giải thích thêm “Tội trộm cắp tài
sản theo Điều luật này được hiểu là hành vi lấy đi và (hoặc) sử dụng trái
1
Hoàng Văn Hùng (2007), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.21.
2
Nguyễn Minh Đạo, Phùng Văn Ngân, Vũ Thị Hương Giang, Nguyễn Đức Trung (dịch, 2011), Bộ Luật hình
sự Liên bang Nga, Sách được tài trở bởi Sida, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.254-258.


8

pháp luật không bồi hoàn tài sản của người khác nhằm mục đích trục lợi của
người phạm tội hoặc những người khác gây ra thiệt hại cho chủ sở hữu hoặc
chủ nhân khác tài sản này”. Như vậy, BLHS Liên bang Nga còn làm rõ thêm
mục đích của người phạm tội là trục lợi.
Theo Điều 378 BLHS của Malaixia: “Người nào nhằm mục đích chiếm
đoạt động sản của người khác mà lấy đi tài sản đó thì bị xử là tội trộm cắp”3.
Tương tự như BLHS Malaixia, BLHS Cộng hòa Liên bang Đức cũng quy
định: “Người nào lấy đi một đồ vật không cố định không phải của mình từ
một người khác với chủ định chiếm đoạt trái pháp luật đồ vật cho mình hoặc
cho một người thứ ba thì bị xử phạt với hình phạt....”4. Với cách đưa ra khái
niệm như trên cho thấy, BLHS hai quốc gia này cũng xác định trộm cắp tài
sản là hành vi chiếm đoạt, tài sản bị chiếm đoạt cũng là tài sản của người khác
và đối tượng tác động của loại tội này là động sản (những tài sản có thể di dời
từ nơi này đến nơi khác).

Như vậy, hầu hết các nước trên thế giới đều hiểu trộm cắp tài sản là
hành vi lấy đi tài sản của người khác nhằm mục đích chiếm đoạt, trục lợi một
cách bí mật.
Nhà nước ta tuy không định nghĩa tội trộm cắp tài sản trong luật nhưng
cũng có cách hiểu tương tự. Theo từ điển pháp luật hình sự, định nghĩa trộm
cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý.5
Cách định nghĩa này cũng tương tự với định nghĩa được đưa ra trong Giáo
trình trường Đại học Luật Hà Nội: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút
chiếm đoạt tài sản đang có chủ”.6 Như vậy, tội trộm cắp tài sản là hành vi
chiếm đoạt tài sản, tính chất của hành vi là lén lút, bí mật và đối tượng là tài
sản đang có người quản lý.

3

Bộ Tư pháp (1998), Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế giới, Tạp chí dân chủ và pháp
luật 1998, tr.91.
4
Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn và Trần Hữu Tráng dịch (2011), Bộ Luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức,
Sách được tài trở bởi Sida, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.392.
5
Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển Pháp luật hình sự, NXB Tư pháp. (tr283)
6
Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội, tr.32


9

Xét về phương diện lý luận, tội “Tội trộm cắp tài sản” là một loại tội
phạm có dấu hiệu hành vi khách quan khá đơn giản: “Trộm cắp tài sản là

hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác”.7 Tuy nhiên, các khái niệm
nêu trên vẫn chưa thể hiện rõ được một số dấu hiệu pháp lý khác của tội trộm
cắp tài sản như dấu hiệu về lỗi, dấu hiệu về độ tuổi và năng lực trách nhiệm
hình sự của chủ thể tội phạm.
Theo Tiến sĩ khoa học – Giáo sư Lê Cảm cho rằng để đưa ra được khái
niệm tội trộm cắp tài sản, cần khẳng định tội trộm cắp tài sản phải thỏa mãn
đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, tức là thể hiện ba bình diện với năm đặc
điểm của nó là: a) bình diện khách quan – tội phạm là hành vi nguy hiểm cho
xã hội; b) bình diện pháp lý – tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c)
bình diện chủ quan – tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi.8
Trong nghiên cứu của mình, Tiến sĩ Hoàng Văn Hùng đã đưa ra định
nghĩa về tội trộm cắp tài sản “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài
sản của người khác với mục đích chiếm đoạt, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức
lỗi cố ý, xâm phạm các quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp
luật”.9
Với cách định nghĩa trên, có thể thấy ngoài những đặc điểm về hình
thức chiếm đoạt là lén lút, hành vi phạm tội là hành vi chuyển dịch bất hợp
pháp tài sản của người khác làm tài sản của mình, khái niệm này đã làm rõ
thêm các đặc điểm về lỗi của tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý, người phạm tội
phải đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS (những hành vi lấy tài sản của
người khác khi chưa đủ tuổi chịu TNHS hoặc ở tình trạng không có năng lực
TNHS thì không phải là tội phạm).

7
Đinh Văn Quế (2002), Bình luận khoa học Bộ luật hình sư, Phần các tội phạm Tập 2, Nxb TP.Hồ Chí
Minh,tr.196.
8
Lê Cảm (2001), Giáo trình Luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.105.

9
Hoàng Văn Hùng, tlđd chú thích 1, tr.23.


10

Từ các phân tích trên, tác giả định nghĩa về Tội trộm cắp tài sản như
sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của
người khác, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện với lỗi cố ý”.
1.2.

Lịch sử lập pháp về tội trộm cắp tài sản trong pháp luật hình sự
Việt Nam từ 1945 đến nay
Để giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và toàn diện về quan niệm của

nhà lập pháp trong chế độ xã hội khác nhau về tội phạm và hình phạt, từ đó
nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về bản chất, dấu hiệu pháp lý đặc thù của tội
phạm và chính sách hình sự của nhà nước đối với người phạm tội trộm cắp tài
sản sau đây tác giả lần lượt nghiên cứu các qui định pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản trong lịch sử.
1.2.1. Giai đoạn sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự 1985
Cách mạng tháng 8 thành công, nhận thức được tầm quan trọng của việc
ổn định kỷ cương, pháp luật và đối phó với tình hình thực tế nhà nước ta đã
đặc biệt chú trọng và lần lượt ban hành các văn bản pháp luật hình sự quy
định việc trừng trị tội trộm cắp tài sản như:
Sắc lệnh số 26-SL ngày 25/02/1946 trừng trị tội phá hoại công sản;
Sắc lệnh số 73-SL ngày 17/08/1947 về các tội vi cảnh;
Sắc lệnh số 12-SL ngày 12/03/1949 về tội trộm cắp tài sản quốc phòng

trong thời chiến;
Thông tư 26-BK ngày 09/05/1949 của Bộ tư pháp hướng dẫn đường lối
xử lý hành vi bắt được của rơi mà giữ lấy không trả hoặc không nộp cho nhà
chức trách
Thông tư số 11-BK ngày 14/12/1949 của Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và
Bộ Tư pháp ấn định phương pháp đối phó với các vụ trộm cắp tại nơi có chiến
sự;


11

Nghị định 32-NĐ ngày 06/04/1952 của Bộ Tư pháp qui định đường lối
xét xử của tội trộm cắp, lừa đảo biển thủ tài sản..
Thông tư 442-TTg ngày 19/01/1955 của Thủ tướng tổng kết án lệ và
hướng dẫn công tác xét xử các tội phạm thông thường
Nghiên cứu các văn bản này cho thấy:
Quy định về tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn này đã tạo cơ sở kịp thời
cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản, góp phần vào cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Tuy nhiên, các văn bản qui phạm pháp luật
thời kì này vẫn chưa phân biệt tội trộm cắp tài sản với tội chiếm giữ trái phép
tài sản. Thông tư 16-BK quy định: “Bắt được của cải gì của người ta mà giữ
làm của mình bị coi là ăn cắp... có thể bị phạt tù từ 1 năm đến 05 năm, lại còn
bị phạt tiền nữa”.
Tội trộm cắp tài sản ở giai đoạn này được thể hiện như một quy định đơn
giản với chế tài cụ thể. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, đường lối xét xử
giữa các địa phương không được thống nhất, rõ ràng và có nơi không được
đúng. Chính vì vậy, Thông tư 442-TTg năm 1955 đã quy định thống nhất một
số tội phạm , trong đó tội trộm cắp được quy định ngay tại điểm đầu tiên:
“Trộm cắp phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm; cướp đường hay trộm có tổ chức, có
bạo lực, có dùng vũ khí để dọa nạt thì phạt tù từ 3 đến 10 năm”. Điểm đặc

biệt của Thông tư này là cho phép áp dụng tương tự, có nghĩa là nếu ngoài tội
trộm cắp ra, đối với những tội tương tự với tội trộm cắp, các Tòa án có thể
phạt theo như tội đó. Mặt khác, trong khi xét xử, các Tòa án cần phải thận
trọng, không được máy móc và cũng không nên quá linh động để làm sai lạc
tinh thần chính sách trừng trị của Chính phủ, mà phải tùy nơi tùy lúc có chủ
trương trừng phạt cho đúng trong phạm vi đã quy định trên đây.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Miền Bắc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, sự nghiệp xây dựng kinh tế và văn hóa của Việt Nam nhằm phục vụ lợi
ích của toàn dân. Để góp phần vào việc bảo vệ sự nghiệp này, việc ban hành
sắc lệnh 267-SL năm 1957 là nhằm trừng trị những âm mưu hành động phá


12

hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân
dân, làm cản trợ việc thực hiện chính sách, kế hoạch xây dựng kinh tế và văn
hóa. Điều 2 và Điều 3 của Sắc lệnh 267 – SL có quy định về Tội trộm cắp tài
sản nhưng dùng các thuật ngữ khác nhau: Điều 2 sử dụng thuật ngữ “trộm cắp
tài sản” còn Điều 3 sử dụng thuật ngữ “đánh cắp bí mật Nhà nước”.
“Điều 2. Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng,
hủy hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân sẽ
bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù.
Điều 3. Kẻ nào vì mục đích phá hoại mà tiết lộ, đánh cắp, mua bán, dò
thám bí mật Nhà nước, sẽ bị phạt từ 5 năm đến 20 năm tù”.
Như vậy, trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà
nước ta đã ban hành những văn bản pháp luật hình sự đơn lẻ trong đó có quy
định về tội trộm cắp tài sản. Trong các văn bản đó, pháp luật không quy định
tên tội danh, chỉ quy định về tội phạm trộm cắp với các cách mô tả khác nhau.
Đối tượng tài sản của tội phạm này trong từng thời kỳ lịch sử có chính sách
xử lý cho phù hợp với mục tiêu đấu tranh phòng chống tội phạm và thực hiện

nhiệm vụ chính trị lịch sử của đất nước. Các văn bản pháp luật đơn lẻ đó cùng
với những hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao (Thông tư, Chỉ thị, Báo cáo,
Tổng kết,...) đã góp phần đấu tranh chống tội phạm trộm cắp trong từng giai
đoạn.
Cho đến năm 1970, do yêu cầu khách quan của việc tăng cường pháp
chế XHCN, ngày 21/10/1970, Nhà nước ta đã thông qua 2 Pháp lệnh mới,
trên tinh thần pháp điển hóa các văn bản pháp luật trước đó quy định về Tội
trộm cắp nói riêng và Tội xâm phạm sở hữu nói chung.
- Pháp lệnh thứ nhất là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
XHCN do Lệnh số 149-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công bố.
- Pháp lệnh thứ hai là: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng
của công dân do Lệnh số 150-LCT ngày 23/10/1970 của Chủ tịch nước công
bố.


13

Hai pháp lệnh trên đã thay thế các luật lệ cũ về các tội phạm này vì
không còn thích hợp nữa. Trong đó, tội trộm cắp được quy định tại hai pháp
lệnh với tên tội danh là Tội trộm cắp tài sản XHCN (Điều 7) và Tội trộm cắp
tài sản riêng của công dân (Điều 6) tương ứng với hai hình thức sở hữu được
quy định lúc đó là sở hữu tài sản XHCN và sở hữu tài sản riêng của công dân.
Điều 7 Pháp lệnh trừng trị các Tội xâm phạm tài sản XHCN quy định
Tội trộm cắp tài sản XHCN.
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng
đến 5 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Có móc ngoặc;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
e) Trộm tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
f) Dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ hoặc vào
những việc phạm tội khác;
Thì bị phạt tù từ 3 năm đến 12 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có nhiều
tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì phạt tù
từ 10 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc bị xử tử hình.”
Trong pháp lệnh này, “Tài sản XHCN bao gồm tài sản thuộc quyền sở
hữu của Nhà nước (tức là sở hữu của toàn dân) và tài sản thuộc quyền sở hữu
của hợp tác xã và các tổ chức hợp pháp khác của nhân dân (tức sở hữu tập
thể)”. Tài sản XHCN là thiêng liêng, tuyệt đối không ai được xâm phạm.
Mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản đó. Chính vì giá trị to
lớn đó mà mức hình phạt tối đa của tội này lên đến tử hình.
Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các Tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
quy định Tội trộm cắp tài sản riêng của công dân.


14

1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng
đến 3 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc
gây hậu quả nghiêm trọng khác.
Thì bị phạt tù từ 2 năm đến 10 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị

phạt tù từ 7 năm đến 15 năm.”
Khác với tài sản XHCN, tài sản riêng của công dân được Nhà nước bảo
hộ gồm có của cải do sức lao động của công dân làm ra, của cải thu nhập một
cách hợp pháp hoặc để dành được, như tiền bạc, lương thực, quần áo, nhà ở,
gia súc, xe cộ, tư trang, văn hóa phẩm và đồ dùng riêng khác. Mức hình phạt
chỉ tối đa là 15 năm.
Về kỹ thuật lập pháp hình sự, hai bản pháp lệnh năm 1970 này đã xây
dựng hoàn chỉnh cấu thành tội phạm về tội trộm cắp tài sản XHCN và tội
trộm cắp tài sản công dân. Các Điều luật này đều bao gồm một cấu thành tội
phạm cơ bản và hai cấu thành tội phạm tăng nặng với các tình tiết tăng nặng
định khung cụ thể, có các khung hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm, góp phần phân hóa TNHS người phạm tội. Ngoài ra,
các nhà lập pháp thời kì này đã có sự phân biệt tội trộm cắp tài sản với các tội
xâm phạm sở hữu khác như tội cướp, tội cưỡng đoạt, tội tham ô, tội lừa đảo
hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,…
Sau ngày 30/04/1975 thống nhất đất nước, Nhà nước ta đã ban hành
thêm một số văn bản pháp luật hình sự mới trừng trị các tội xâm phạm sở hữu.


15

Cụ thể ở miền Nam, Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời ban hành Sắc
luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976 quy định về tội phạm và hình phạt.
Tại điểm b Điều 4 Sắc luật 03-SL/76 quy định về tội xâm phạm đến tài
sản công cộng như sau: “Phạm các tội chiếm đoạt tài sản khác như trộm cắp,
tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị
phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15
năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài sản chiếm đoạt rất lớn
hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng
thì bị phạt tù đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình”.

Điều 8 Sắc luật 03-SL/76 quy định về tội xâm phạm đến tài sản riêng
của công dân như sau:
“Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, lừa đảo, bội tín, cướp giật,
chiếm giữ trái phép thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 3 năm. Trường hợp nghiêm
trọng thì bị phạt tù đến 10 năm.
Phạm tội trộm cắp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến 15 năm.”
Như vậy, ở thời điểm này trên hai miền Nam, Bắc tồn tại hai loại văn
bản pháp luật khác nhau cùng xử lý về một tội trộm cắp tài sản, đó là: Hai
pháp lệnh ngày 21/10/1970 và Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15/03/1976. Nội
dung cơ bản của các văn bản này đều thống nhất về tội danh và đường lối xử
lý. Tuy nhiên, so với các pháp lệnh thì các quy định của Sắc luật chỉ nêu tên
tội danh mà không quy định cụ thể dấu hiệu pháp lý của tội phạm.
Để áp dụng thống nhất các văn bản pháp luật này, Tòa án nhân dân tối
cao đã ban hành Chỉ thị số 54/TATC ngày 06/07/1977 của Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn việc thi hành pháp luật thống nhất thì việc áp dụng pháp
luật đối với hành vi phạm tội trộm cắp tài sản được thống nhất như sau: Ở
miền Bắc vẫn áp dụng hai pháp lệnh ngày 21/10/1970. Ở miền Nam thì áp
dụng Sắc luật 03 là chính, có tham khảo điều khoản tương ứng của Pháp lệnh
ngày 21/10/1970 để nắm rõ hơn dấu hiệu các tội phạm và áp dụng các hình
phạt hợp lý hơn.


16

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự
năm 1985 có hiệu lực, pháp luật hình sự đã có quy định về loại tội phạm có
hành vi trộm cắp để chiếm đoạt tài sản, tuy nhiên do có nhiều loại văn bản
được ban hành và áp dụng ở hai miền Nam, Bắc khác nhau nên không tránh
khỏi những bất cập nhất định, nguyên tắc pháp chế khó được thực hiện. Vì
vậy, cần phải pháp điển hóa các quy định trong các văn bản pháp luật này để

đảm bảo tính thống nhất. Bộ luật hình sự 1985, có hiệu lực từ ngày
01/01/1986 đã ra đời và đáp ứng được yêu cầu đó.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 đến trước khi ban
hành Bộ luật hình sự 1999
Ngày 27/06/1985 Bộ luật hình sự đã được Quốc hội khóa VI ban hành
và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/1986 đã khắc phục được tình trạng
các văn bản pháp luật chồng chéo, không thống nhất trước đó. Tăng cường
được tính pháp chế, đồng thời bảo vệ được quyền tài sản của công dân. Sự ra
đời của BLHS là sự pháp điển hóa các quy định về tội phạm và hình phạt từ
năm 1945 đến năm 1985.
Theo quy định của BLHS 1985 thì tội xâm phạm sở hữu có kế thừa và
phát triển các văn bản pháp luật trước đó, đặc biệt là hai Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản XHCN và công dân ngày 21/10/1970. Do đề cao sở
hữu Nhà nước và tập thể, chưa thật sự coi trọng đến sở hữu tư nhân nên trong
giai đoạn này hành vi xâm phạm tài sản Nhà nước luôn được coi là nghiêm
trọng hơn xâm hại sở hữu tư nhân nên được các nhà lập pháp lúc bấy giờ quy
định ở hai chương khác nhau và mức hình phạt cao nhất đối với tội trộm cắp
XHCN là tử hình còn tội trộm cắp tài sản công dân là 20 năm. Cụ thể:
Chương IV là các tội xâm phạm sở hữu XHCN và chương V là các tội xâm
phạm sở hữu công dân. Có sự quy định như vậy là vì BLHS 1985 ra đời trong
bối cảnh nền kinh tế nước ta lúc đó chỉ có hai thành phần kinh tế chủ yếu là
kinh tế quốc doanh và hợp tác xã được quản lý và điều hành theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, thống nhất từ trung ương đến cơ sở. Trên cơ sở kế thừa
quy định của hai pháp lệnh ngày 21/10/1970 thì BLHS 1985 vẫn quy định là


17

hai tội: “Tội trộm cắp tài sản XHCN” và “Tội trộm cắp tài sản riêng của công
dân” cụ thể như sau:

“Điều 132. Tội trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa.
1- Người nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt cải tạo không giam
giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba năm
đến mười hai năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Hành hung để tẩu thoát;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn;
đ) Tái phạm nguy hiểm.
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười
năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 155. Tội trộm cắp tài sản của công dân.
1Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2- Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ hai năm
đến mười năm;
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát;


18

c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác;
d) Tái phạm nguy hiểm
3- Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm
đến hai mươi năm.”
Theo quy định tại các Điều luật này, tội trộm cắp tài sản vẫn được cấu
tạo bởi một CTTP cơ bản và hai CTTP tăng nặng và kế thừa các tình tiết tăng
nặng định khung là: “phạm tội có tổ chức”; “phạm tội có tính chất chuyên

nghiệp”; “chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn”; “tái phạm nguy hiểm và gây
hậu quả nghiêm trọng khác”. BLHS 1985 cũng loại bỏ các tình tiết tăng nặng
không còn phù hợp với thực tiễn như “có móc ngoặc”; “tài sản có giá trị đặc
biệt”; “dùng tài sản trộm cắp vào việc kinh doanh, bóc lột đầu cơ hoặc
những việc phạm tội khác”; “gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của
người bị thiệt hại hoặc gây hậu quả nghiêm trọng khác” và bổ sung tình tiết
tăng nặng mới “hành hung để tẩu thoát”. Tình tiết này là trường hợp người
phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản nhưng
bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ mà có hành vi chống trả
người bắt giữ, người bao vây bắt giữ như đánh, xô ngã,... nhằm tẩu thoát.
Giai đoạn này, định lượng tài sản chưa được quy định tại điều luật
nhưng thực tiễn xét xử có hướng dẫn áp dụng để xác định TNHS đối với
nhóm tội này. Tại Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/04/1989 Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn tình tiết “tài sản có giá trị lớn”,
“gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” như sau:
“Tại Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29-11-1986 Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn rằng thiệt hại tài sản dưới 100.000
đồng là “thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản”, thiệt hại về tài sản từ 100.000
đồng trở lên là “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” của tội vi phạm các quy
định về an toàn giao thông vận tải gây hậu quả nghiêm trọng; số tiền bị
chiếm đoạt khoảng từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng được “coi là lớn”…


×