Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

118 công phá đề 2019 ngữ văn đề 22 file word có lời giải chi tiết image marked

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.55 KB, 7 trang )

ĐỀ SỐ

BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GĐ&ĐT

22

Môn: NGỮ VĂN

Đề thi gồm 02 trang

Thời gian làm bài: 120 phút.

******
I. ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn văn bản sau và trả lời câu hỏi:
CON LỪA GIÀ VÀ NGƯỜI NÔNG DÂN
Một ngày nọ, con lừa của một ông chủ trang trại xảy chân rơi xuống một cái giếng. Con vật kêu la
hàng giờ liền. Người chủ trang trại cố nghĩ xem nên làm gì. Và cuối cùng ông quyết định: con lừa đã già
và cái giếng cũng cần được lấp lại và không ích lợi gì khi cứu con lừa lên cả. Thế là ông nhờ vài người
hàng xóm sang giúp mình.
Họ xúc đất đổ vào giếng, con lừa như hiếu được chuyện gì đang xảy ra và nó kêu la thảm thiết, sau
hồi lâu, con lừa bỗng trở nên im lặng. Sau một vài xẻng đất, ông chủ trang trại nhìn xuống giếng và ông
vô cùng sửng sốt. Mỗi khi bị một xẻng đất đổ lên lưng, lừa lắc mình cho đất rơi xuống và bước chân lên
trên. Cứ như vậy, đất đổ xuống, lừa lại bước chân lên cao hơn. Chỉ một lúc sau, mọi người nhìn thấy chú
lừa xuất hiện trên miệng giếng và lóc cóc chạy ra ngoài.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính của văn bản trên?
Câu 2: Tác giả đặt con lừa vào tình huống bị rơi xuống một cái giếng, theo anh/chị tình huống ấy có ý
nghĩa gì?
Câu 3: Theo anh/chị, vì sao ban đầu con lừa kêu la thảm thiết nhưng sau hồi lâu nó bỗng im lặng?
Câu 4: Sự khác nhau trong quyết định của người nông dân và con lừa là gì?


II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Qua câu truyện được trích ở phần đọc hiểu, anh (chị) hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200 chữ)
bày tỏ suy nghĩ về vấn đề: Con người và những thử thách trong cuộc sống.
Câu 2 (5,0 điểm)
Từ đấy, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của
vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi
cuối đường, nó đã nhìn thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những
vành trăng non. Giáp mặt thành phố ở Cồn Giã Viên, sông Hương uốn một nhánh cung rất nhẹ sang đến
Cồn Hen; đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình
yêu. Và như vậy, giống như sông Xen của Pa - ri, sông Đa - nuýp của Bu - đa - pét; sông Hương nằm
ngay giữa lòng thành phố yêu quý của mình; Huế trong tổng thể vẫn giữ nguyên dạng một đô thị cổ, trải
dọc hai bờ sông. Đầu và cuối ngõ thành phố, những nhánh sông đào mang nước sông Hương tỏa đi khắp
phố thị với những cây đa, cây cừa cổ thụ tỏa vầng lá u sầm xuống những xóm thuyền xúm xít; từ những
nơi ấy, vẫn lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ mà không
một thành phố hiện đại nào còn nhìn thấy được. Những chi lưu ấy cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã
làm giảm hẳn lưu tốc của dòng nước, khiến cho sông Hương khi qua thành phố đã trôi đi chậm, thực
chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh. Tôi đã đến Lê - nin - grát, có lúc đứng nhìn sông Nêva cuốn
Trang 1


trôi những đảm băng lô xô, nhấp nháy trăm màu dưới ánh sáng của mặt trời mùa xuân; moi phiến băng
chở một con hải âu nghịch ngợm đứng co lên một chân, thích thú với chiếc thuyền xinh đẹp của chúng; và
đoàn tàu tốc hành lạ lùng ấy với những hành khách tí hon của nó băng băng lướt qua trước cung điện Pê
- téc - bua cũ đế ra bể Ban - tích. Tôi vừa từ trong khói lửa miền Nam đến đây, lâu năm xa Huế, và chính
Lê - nin - grát đã đánh thức trong tâm hồn tôi giấc mơ lộng lẫy của tuổi dại; ôi, tôi muốn hóa làm một
con chim nhỏ đứng co một chân trên con tàu thủy tinh để đi ra biển. Tôi cuống quýt vẫy tay, nhưng sông
Nê - va đã chảy nhanh quá, không kịp cho lũ hải âu nói một điều gì với người bạn của chúng đang ngẩn
ngơ trông theo. Hai nghìn năm trước, có một người Hi Lạp tên là Hê -ra- clít, đã khóc suốt đời vì những
dòng sông trôi đi quá nhanh, thế vậy! Lúc ấy, tôi nhớ lại con sông Hương của tôi; chợt thấy quý điệu

chảy lặng lờ của nó khi ngang qua thành phố... Đấy là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế, có thể
cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy
từ điện Hòn Chén trôi về, qua Huế bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như
những vấn vương của một nỗi lòng.
Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya. Đã nhiều lần tôi thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu
nhà hát. Quả đúng như vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điến Huế đã được sinh thành trên mặt nước của
dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.
Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu và từ đó những bản đàn
đã đi suốt đời Kiều. Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỷ, một buổi tối
ngồi nghe con gái đọc Kiều, “Trong như tiếng hạc bay qua — Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”... Đến
câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên: “Đó chính là
Tứ đại cảnh!”
(Trích “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - Hoàng Phú Ngọc Tường, Ngữ văn 12, Tập một,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr.199 - 200)
Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn văn trên. Từ đó, liên hệ với vẻ đẹp của
dòng sông trong khổ thơ sau để làm sáng tỏ nhận định của Hoàng Phú Ngọc Tường: dòng sông ấy không
bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận của các nghệ sĩ:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Ngữ văn 11, tập 2, Nxb Giáo dục, 2007, Tr39)
-------------------- HẾT -------------------Thí sinh không được sử dụng tài liệu! Phụ huynh, thầy cô và đồng đội vui lòng không giải thích gì thêm.
Lovebook xin cảm ơn!
CHÚC CÁC EM LÀM BÀI TỐT!

Trang 2



HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
I. ĐỌC-HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1 (0,5 điểm):
Phương thức biểu đạt chính của văn bản: Tự sự/ phương thức tự sự
Câu 2 (1,0 điểm):
CHÚ Ý
Ở câu 2 phần đọc hiểu: các em cẩn thấy rằng tình huống mà con lừa gặp phải trong câu chuyện cũng
là những thử thách, bất trắc trong cuộc sống mà ai cũng có thể phải đối mặt
Ý nghĩa của tình huống con lừa bị rơi xuống giếng:
- Đây là một điều không may mắn với con lừa, cũng là biểu tượng cho những bất trắc, khó khăn, thử
thách mà bất kì ai cũng có thể gặp phải trong cuộc sống
- Tình huống có tính thử thách: chúng ta sẽ ứng xử như thế nào trước những khó khăn đó? Qua đó thể
hiện rõ bản lĩnh sống của mỗi người.
Câu 3 (1,0 điểm):
- Ban đầu con lừa kêu la thảm thiết vì nó sợ hãi, đau đớn, tuyệt vọng khi bị rơi xuống giếng và nhất là

ông chủ (người nó chờ đợi có thể cứu nó lên) lại bỏ mặc, thậm chí còn định lấp đất vùi nó đi cùng với cái
giếng.
- Sau đó, nó im lặng vì nhận ra không thể dựa vào ông chủ, không thể trông chờ vào người khác được.
Nó chỉ có thể dựa vào chính bản thân mình. Và lừa tìm cách thoát khỏi cái giếng!
Câu 4 (0,5 điểm): Sự khác nhau trong quyết định của người nông dân
- Người nông dân nhanh chóng buông xuôi và bỏ cuộc.
- Con lừa khôn ngoan, dùng chính những xẻng đất muốn vùi lấp nó để tự giúp mình lên khỏi giếng.
II. LÀM VĂN (7,0 điểm):
Câu 1 (2,0 điểm):
STUDY TIP
Với câu hỏi này, các em cần định hướng được ngay mình cần triển khai những ý chính sau:
- Những thử thách trong cuộc sống mà con người gặp phải là gì?
- Trước những thử thách ấy ta cán có thái độ và hành động như thế nào?
- Liên hệ, phê phán những người thiếu nghị lực và lòng dũng cảm không dám đối diện với những thử thách ấy.

1. Đảm bảo yêu cầu về hình thức đoạn văn (0,25 điểm)
Thí sinh có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp, tổng - phân - hợp, móc xích hoặc song
hành.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận(0,25 điểm):
Con người cần đối diện như thế nào trước những thử thách trong cuộc sống?
3. Triển khai vấn đề nghị luận (1,0 điểm):
Thí sinh lựa chọn các thao tác lập luận phù hợp để triển khai vấn đề cần nghị luận nhưng cần làm rõ
thái độ và cách ứng xử của con người trước những thử thách trong cuộc sống. Có thể theo hướng sau:
- Những khó khăn thử thách trong cuộc sống: những điều không may mắn, bệnh tật hiểm nghèo,
thất bại trong công việc, đổ vỡ trong tình cảm, hôn nhân... là những điều khó tránh khỏi. Chúng ta có thể
gặp phải những thử thách ấy bất cứ lúc nào.
- Điều quan trọng là trước những thử thách ấy chúng ta phải:
Trang 3


+ Dũng cảm đối mặt, không vội buông xuôi, đầu hàng, tìm cách vươn lên. Con người phải biết dựa
vào chính mình, đó là sức mạnh tinh thần giúp con người vượt qua được những giới hạn của cuộc sống.
+ Nhạy bén, sáng tạo, thông minh... để tìm cách vượt qua
- Phê phán những người trông chờ, ỷ nại vào người khác, không dám đối diện với khó khăn thử
thách của cuộc sống.
4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm):
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
5. Sáng tạo (0,25 điểm):
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận.
Câu 2 (5,0 điểm)
STUDY TIP
Với câu hỏi này, các em cần bám sát vào đoạn văn được trích dẫn để phân tích vẻ đẹp của sông Hương.
Sau đó đối sánh với cảm nhận của Hàn Mặc Tử trong đoạn thứ 2 bài Đây thô Vĩ Dạ để thấy được khám
phá riêng của mỗi nghệ sĩ.
1. Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận (0,25 điểm):

Có đủ ba phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Mở bài giới thiệu được vấn đề, Thân bài triển khai được
vấn đề, Kết bài khái quát được vấn đề.
2. Xác định đúng vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
Vẻ đẹp của sông Hương đoạn chảy qua thành phố Huế, liên hệ với đoạn thơ của Hàn Mặc Tử để thấy
được những khám phá riêng của mỗi nhà văn, nhà thơ khi viết về dòng sông xứ Huế.
3. Triển khai vấn đề nghị luận:
Vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp chặt chẽ giữa lí lẽ và dẫn chứng
a. Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận (0,5 điểm):
- Huế, khúc ruột miền Trung của đất nước từ bao đời đã trở thành mảnh đất của thi ca, nhạc họa.

Người dân Huế tự hào vì có những đền đài cổ kính và những miệt vườn xanh mướt vùng ngoại ô Vĩ Dạ...
Nhưng có lẽ, Huế đẹp nhất là bởi vì có sông Hương. Sông Hương đến với Huế như một đặc ân mà tạo
hóa đã ban tặng cho mảnh đất này. Từ cuộc đời, sông Hương đã chảy vào bao áng thơ ca và bắt lên những
giai điệu ngọt ngào, say đắm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” (Hoàng Phú Ngọc Tường) và “Đây thôn Vĩ
Dạ” (Hàn Mặc Tử) là những tác phẩm xuất sắc viết về vẻ đẹp của sông Hương và Huế.
- Tuy nhiên, trong cảm nhận của mỗi tác giả, sông Hương lại hiện lên với một vẻ đẹp riêng. Đoạn
sông Hương chảy giữa lòng thành phố Huế (trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?) và khổ thứ 2 bài “Đây
thôn Vĩ Dạ” đã thể hiện rõ những khám phá riêng ấy.
b. Cảm nhận về vẻ đẹp của sông Hương trong đoạn văn (2,0 điểm)
CHÚ Ý
Vẻ đẹp của sông Hương:
- Mới về đến Huế: vui tươi, háo hức
- Đi giữa lòng thành phố: mang vẻ đẹp tâm hồn đặc trưng của Huế
+ Tinh tứ, nhẹ nhàng (qua lưu tốc của dòng nước)
+ Chất chứa nỗi niềm tâm sự thầm kín (người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya)
- Mới về đến Huế:

+ Sông Hương vui tươi hẳn lên như một người con xa quê đã tìm được đúng đường về. Nếu trước khi
Trang 4



về đến Huế, sông Hương phải đổi dòng một cách liên tục như một cuộc tìm kiếm có ý thức thì giờ đây, khi
đã đi giữa lòng thành phố, dòng sông kéo một nét thẳng thực yên tâm  Câu văn miêu tả dòng chảy của
dòng sông mà gợi lên được cái yên bình của tâm hồn người con gái đã tìm được người tình mà nó hằng
mong đợi.
+ Khi giáp mặt thành phố sông Hương uốn một cánh cung thật nhẹ khiến dòng sông mềm hẳn đi, như
một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. “Vâng” là đã thuận tình nhưng chưa dám nói ra vì ngượng
ngùng, e lệ. Cách so sánh độc đáo này đã biến sông Hương trở thành một cô gái Huế vừa e lệ, kín đáo vừa
dịu dàng, duyên dáng biết bao!
- Đi giữa lòng thành phố thân yêu, sông Hương mang vẻ đẹp đặc trưng của tâm hồn Huế:
+ Lưu tốc chậm chạp như tính cách tình tứ nhẹ nhàng của người con gái Huế: dòng sông trôi đi chậm,
thực chậm, cơ hồ chỉ còn là một mặt hồ yên tĩnh, nhà văn gọi đó là điệu slow tình cảm dành riêng cho
Huế. Nhà văn giải thích điều này từ đặc điểm địa lí của dòng sông (do có hai hòn đảo nhỏ trên sông cùng
rất nhiều chi lưu đã làm chậm lại tốc độ của dòng nước). Nhưng có lẽ, sông Hương trôi đi chậm như vậy
là bởi vì quá yêu mến thành phố Huế xinh đẹp, không nỡ rời xa. Điệu chảy lững lờ ấy đã từng đi vào thơ
Thu Bồn:
Con sông dùng dằng con sông không chảy
Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu
(Tạm biệt)
Ở đây Hoàng Phú Ngọc Tường còn đặt sông Hương bên cạnh dòng sông Nê - va với lưu tốc mạnh mẽ, rồi
dẫn ra cả câu nói nổi tiếng của nhà triết học Hi Lạp cổ đại để càng thấy yêu mến điệu chảy lững lờ của
sông Hương.
+ Dòng sông còn như chất chứa tâm sự thầm kín khi trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya.
++ Nhà văn nhắc đến nền âm nhạc cổ điển Huế và nhấn mạnh: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã
được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Quả thật, giữa mênh mang sông nước, tiếng mái chèo
khua, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền đã như một chiếc hộp cộng hưởng khổng lồ nâng cánh cho những điệu
hò dân gian xứ Huế. Không có sông Hương, cũng không thể có nhã nhạc cung đình Huế ngày nay.
++ Ở đoạn này, tác giả còn liên tưởng đến Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Theo nhà văn,
những bản đàn từng đi suốt đời Kiều cũng được Nguyễn Du lấy cảm hứng từ đây. Không phải ngẫu nhiên
nhà văn lại nhắc đến Truyện Kiều - tập đại thành của văn học Việt Nam. Rõ ràng, sông Hương đã hòa vào

dòng văn hóa của dân tộc, trở thành điệu tâm hồn của biết bao người.
 Như vậy, sông Hương từng là bà mẹ phù sa đem màu mỡ cho đất đai nuôi sống con người, làm người
gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cảnh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, nay sông Hương lại sản sinh ra âm
nhạc để bồi đắp tâm hồn con người. Tình cảm của người gái đẹp sông Hương dành cho Huế thật sâu đậm
biết bao!
c. Liên hệ với đoạn thơ trong Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử để làm sáng tỏ nhận định của
Hoàng Phú Ngọc Tường (1,0 điểm)
- Đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ
+ Dòng Hương thơ mộng như nhuốm màu tâm trạng: hòa vào khung cảnh gió mây chia lìa thì dòng
nước cũng buồn thỉu. Nghệ thuật nhân hóa độc đáo khiến sông Hương mang nỗi buồn của lòng người, nỗi
buồn đến độ héo hon, làm cho con người gần như mất đi cả sự sống. Đây cũng là cách nói đặc trưng của
người dân xứ Huế.
+ Hai câu cuối, dòng sông mang vẻ đẹp huyền ảo, thơ mộng với hai hình ảnh: bến sông trăng và
Trang 5


thuyền chở trăng. Cảnh đẹp nhưng lại ẩn chứa bi kịch lỡ dở bởi hai câu hỏi tu từ khắc khoải: Thuyền ai?
Có... kịp? Thuyền ai phiếm chỉ gợi lên bao ngỡ ngàng bâng khuâng, tưởng như quen mà lạ, gần đó mà xa
xôi. Con thuyền đơn côi nằm trên bến đợi sông trăng là một nét vẽ thơ mộng và độc đáo. Con thuyền
không chở người (vì người xa cách chia li) mà chỉ chở trăng về. Phải về kịp tối nay vì đã cách xa và mong
đợi sau nhiều năm tháng. Con thuyền tình của ước vọng nhưng đã thành vô vọng! Bến sông trăng trở nên
vắng lặng vì "thuyền ai" phiếm chỉ, như có, như không.
- Những khám phá riêng của mỗi nghệ sĩ khi viết về sông Hương: Lời khẳng định đầy tự hào của
Hoàng Phú Ngọc Tường dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận của các nghệ sĩ cho
thấy sông Hương có vẻ đẹp tiềm ẩn, phong phú khiến mỗi nghệ sĩ khi tìm đến lại khám phá thấy một vẻ
đẹp mới.
+ Đây thôn Vĩ Dạ: Chọn điểm nhìn cảm xúc ở một không gian hẹp, thu nhỏ, đồng thời đó là cái nhìn
được gợi hứng từ bức ảnh, cái nhìn của kí ức nên Hàn Mặc Tử đã làm nổi bật vẻ đẹp của xứ Huế qua
những nét đặc trưng rất bình dị, gần gũi, quen thuộc và đầy chất lãng mạn: Đó là cảnh sông nước, con
người xứ Huế trong vẻ đẹp sâu đậm của cảm xúc về tình đời, tình người. Cảm hứng chủ đạo của tác giả

khi tái hiện hình tượng sông Hương là bâng khuâng, tha thiết nhưng cũng hoài nghi, tuyệt vọng.
+ Ai đã đặt tên cho dòng sông? Chọn điểm nhìn là sông Hương giữa lòng thành phố Huế. Đặt trong
một không gian phóng khoáng, rộng lớn hơn, Hoàng Phú Ngọc Tường có cái nhìn bao quát, trải dài từ
quá khứ cho đến hiện tại, từ dòng sông cho đến văn hóa Huế. Vì thế, vẻ đẹp của sông Hương hiện lên
toàn diện hơn, chân thực hơn với dòng chảy lững lờ, với những đêm trình diễn nhã nhạc cung đình...
Dưới ngòi bút của Hoàng Phú Ngọc Tường sông Hương chính là linh hồn của Huế, là nơi tích tụ những
trầm tích văn hóa lâu đời của mảnh đất kinh thành cổ xưa. Cảm hứng chủ đạo của nhà văn khi viết về
sông Hương ở đoạn này là vui tươi, say mê, tự hào.
Có những khám phá riêng như thế là do:
+ Hoàn cảnh sáng tác và phong cách văn chương khác nhau.
+ Do đặc điểm thể loại của thơ và bút kí. Thơ chủ yếu nghiêng về cảm xúc, bút kí đòi hỏi không chỉ
cảm xúc mà ít nhiều còn có tính xác thực và khách quan của hiện thực phản ánh.
4. Chính tả, dùng từ, đặt câu (0,25 điểm)
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ nghĩa, ngữ pháp tiếng Việt.
5. Sáng tạo (0,5 điểm)
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận

Trang 6


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần II - Câu 1:
- Đoạn văn tham khảo:
Alexander Graham Bell từng nói: “Thành công sẽ đến với những ai biết rõ mình muốn gì và không
bao giờ bỏ cuộc cho đến khi đạt được điều đó”, thử thách là một phần quan trọng của cuộc sống và phải
sử dụng nó ta mới có được thành công. Nếu muốn bản thân sinh ra đã hoàn hảo, giỏi giang ngay từ đầu
thì là điều không thể. Những khó khăn, thử thách trong cuộc sống như: điều không may mắn, bệnh tật
hiểm nghèo, thất bại trong công việc, đổ vỡ trong tình cảm, hôn nhân... có thể ập đến với ta bất cứ lúc
nào. Điều quan trọng là trước những thử thách ấy chúng ta phải dũng cảm đối mặt, không vội buông xuôi,
đầu hàng mà phải tìm cách vươn lên. Chúng ta cũng không nên trông chờ, dựa dẫm vào người khác mà

nên dựa vào chính mình, nhạy bén, sáng tạo, thông minh để tìm thấy giải pháp trong mọi hoàn cảnh.
Những ai trông chờ, ỷ nại vào người khác, không dám đối diện với khó khăn thử thách của cuộc sống mãi
mãi không thể đạt được ước mơ, khát vọng của chính mình.

Trang 7



×