Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện kiên hải, tỉnh kiên giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (878.09 KB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN TIẾN DŨNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN
KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phan Văn Hùng

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân
tôi, các số liệu, kết quả, nội dung nêu trong Luận văn là trung thực
và không trùng lắp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã
được công bố./.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 8 năm 2017
Học viên

Trần Tiến Dũng


LỜI CẢM ƠN!


Qua thời gian nghiên cứu Đề tài về “Giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang”, được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ
Lãnh đạo Huyện ủy; Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải;
Tập thể Phòng Tư pháp huyện Kiên Hải cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của
quý thầy cô trong khoa sau đại học Học viện hành chính Quốc gia.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phan Văn Hùng,
công tác tại Bộ Nội vụ, thầy là người trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành Đề tài.
Một lần nữa, Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện hành
chính Quốc gia; quý thầy cô trong khoa sau đại học; Lãnh đạo Huyện ủy; Hội
đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân huyện Kiên Hải; Phòng Tư pháp huyện Kiên
Hải; các tác giả có tên trong danh mục tài liệu tham khảo được sử dụng viết
Luận văn.
Trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài khoa học, bản thân không tránh
khỏi những hạn chế, thiếu sót. Kính mong quý thầy, cô cho ý kiến đóng góp
những hạn chế, thiếu sót để bản thân tiếp thu và rút kinh nghiệm, nhằm phát
huy giá trị thực tiễn của đề tài vào công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, ngày 21 tháng 8 năm 2017
Học viên

Trần Tiến Dũng


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GDPL:
PHCTPBGDPL:

Giáo dục pháp luật

Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

HĐND:

Hội đồng nhân dân

UBND:

Ủy ban nhân dân

MTTQVN:

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

QPPL:

Quy phạm pháp luật

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA
BÀN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật

8
8

1.2. Vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong giáo dục
pháp luật

20

1.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện
Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

22

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN KIÊN HẢI, TỈNH KIÊN GIANG

28

2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội có ảnh hƣởng đến giáo dục pháp luật
trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

28


2.2. Những kết quả đạt đƣợc trong giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

29

2.3. Những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của giáo dục pháp luật
trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

59

2.4. Kinh nghiệm về giáo dục pháp luật qua thực tiễn tại địa bàn huyện
Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang

65

Chƣơng 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM GIÁO DỤC PHÁP

LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN KIÊN HẢI

68

3.1. Quan điểm bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên
Hải, tỉnh Kiên Giang

68

3.2. Giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên
Hải, tỉnh Kiên Giang
KẾT LUẬN

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

68
80


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục pháp luật (GDPL) luôn giữ vị trí quan trọng trong đời sống xã
hội, là công việc không thể tách rời với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. GDPL là khâu đầu tiên trong hoạt động thực thi pháp luật, là
phương tiện để chuyển tải những đường lối, chủ trương, nghị quyết, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân. Đặc
biệt, trong công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hiện nay, công tác này càng có vai trò
quan trọng về nhiều mặt. Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, Đảng
và Nhà nước ta đã xác định rõ GDPL là một bộ phận của công tác giáo dục
chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, phải được tiến hành
thường xuyên, liên tục và lâu dài với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và
sáng tạo nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân,
góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, giữ vững ổn định tình hình an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã nêu: “Tăng cường giáo dục pháp luật, nâng cao hiểu biết và ý thức
tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm
cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công
bằng"[12, tr.395].
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng lại tiếp tục khẳng định: “Phát
huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản

lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật"[13, tr.438].
Chỉ thị số 32-CT/TW, Ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung
ương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác PBGDPL, nâng cao
ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân.
1


Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI đã xác
định: Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật,
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương.[3, tr 89]. Trước
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng
khóa IX, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cần phải tăng cường thường
xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn.
Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về hoạt động GDPL
được xác định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, đặc biệt là Chỉ thị số 32-CT/TW và Kết luận số 04KL/TW. Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, yêu cầu tăng cường,
phát huy vai trò, hiệu lực của pháp luật theo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
đòi hỏi công tác phổ biến, giáo dục pháp luật phải thực sự có chuyển biến căn
bản, toàn diện. Kết luận số 04-KL/TW ngày 19 tháng 4 năm 2011 của Ban Bí
thư Trung ương Đảng về kết quả thực hiện Chỉ thị số 32-CT/TW (Kết luận số
04-KL/TW) đã chỉ rõ: “Đảng đoàn Quốc hội tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các cơ
quan, tổ chức hữu quan khẩn trương xây dựng, ban hành Luật Phổ biến, giáo
dục pháp luật và các văn bản pháp luật có liên quan, tạo cơ sở pháp lý để triển
khai thực hiện công tác phổ biến, giáo dục pháp luật…”.
Thực tế, qua 30 năm đổi mới đất nước, Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản có liên quan đến GDPL, góp phần cụ thể hóa chủ trương của Đảng

cũng như xác định đúng vị trí của GDPL trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN.
Từ thực trạng công tác GDPL những năm qua và trước yêu cầu của thời
kỳ phát triển mới của đất nước, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012
được ban hành tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho công tác GDPL, huy
động toàn bộ hệ thống chính trị tham gia công tác GDPL, trong đó, Nhà
2


nước giữ vai trò nòng cốt; xác lập trách nhiệm và cơ chế phối hợp, huy động
các nguồn lực của các cơ quan, tổ chức và xã hội nhằm tạo chuyển biến căn
bản, bền vững về hiệu quả của hoạt động GDPL. Luật phổ biến, giáo dục pháp
luật năm 2012 quy định quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm
hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức GDPL; trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho
công tác GDPL.
GDPL với cán bộ công chức theo từng cấp chính quyền địa phương. Đối
với đối tượng là công dân thì luôn gắn với cơ sở xã, phường, thị trấn. Trong 3
cấp chính quyền địa phương, cấp huyện là cấp trung gian chuyển tải chủ
trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đến với nhân
dân, chính vì vậy nó có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là ở những vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Đối với huyện Kiên Hải, một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Kiên
Giang, trong những năm qua, GDPL nhìn chung đã được cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương quan tâm; đã có những hoạt động phong phú, nội dung,
hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu được một số
kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động GDPL đã góp phần từng bước
nâng cao ý thức pháp luật, hình thành dần thói quen “Sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật" trong cán bộ và nhân dân trên địa bàn huyện, đưa
pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà nước và đời sống xã hội.

Mặc dù vậy, GDPL trên địa bàn huyện vẫn còn bộc lộ không ít khó khăn,
hạn chế như sau:
Thứ nhất, các cấp Ủy, Đảng, chính quyền địa phương chưa có sự quan
tâm chỉ đạo sâu sát đối với công tác GDPL;
Thứ hai, nhận thức của một số cán bộ về nhiệm vụ GDPL trong tình hình
mới chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc;
Thứ ba, nhận thức của người dân về pháp luật cũng như ý thức chấp
hành pháp luật của người dân chưa cao;
3


Thứ tư, nội dung GDPL chưa phong phú, chưa đạt hiệu quả cao; Các
hình thức GDPL còn chậm đổi mới;
Thứ năm, kinh phí và phương tiện phục vụ cho công tác GDPL còn hạn
chế so với nhu cầu thực tế của địa phương;
Thứ sáu, thiếu những quy định về chế tài đối với cán bộ, công chức
trong việc thực hiện công tác GDPL;
Thứ bảy, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính
trị trong công tác GDPL tại địa phương;
Thứ tám, vì cấp huyện là cấp trung gian nên ít được quan tâm, như huyện
Kiên Hải là một huyện vùng xa, hải đảo còn nhiều khó khăn nên những vấn
đề nêu trên cần được giải quyết.
Từ những lý do trên, tôi chọn Đề tài: “Giáo dục pháp luật trên địa bàn
huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang” làm Luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản
lý công.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
GDPL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của mọi
cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề GDPL qua các giai đoạn đã được nhiều
nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ khác nhau,
ở nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: Sách chuyên khảo, đề tài

khoa học… Đáng chú ý có các công trình sau:
- Sách chuyên khảo “Ý thức pháp luật” của PGS. TS. Nguyễn Minh
Đoan (2011) ý thức pháp luật, NXB chính trị Quốc gia;
- Luận án tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Sửu: “Giáo dục pháp luật cho
đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”;
- Nguyễn Thị Thạo, các tiêu chí tiếp cận pháp luật tại cơ sở - những
vướng mắc bất cập và định hướng hoàn thiện, tạp chí dân chủ và pháp luật, số
chuyên đề tháng 01 năm 2015;

4


- Phan Chí Hiếu, vị trí vai trò, ý nghĩa của công tác giáo dục pháp luật
trong nhà trường và quá trình đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, tạp chí
dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số chuyên đề tháng 3 năm 2015;
- Lò Linh Loan, tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật, tạp chí dân chủ và pháp luật của Bộ Tư pháp, số chuyên
đề tháng 5 năm 2016;
Các công trình nêu trên được trình bày rất tổng quan về công tác GDPL,
nhưng phần lớn các công trình này nghiên cứu về công tác GDPL trên địa bàn
cấp huyện là rất ít, Đặc biệt chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác
GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Xuất phát từ tình hình
thực tế nêu trên, bản thân nhận thấy việc nghiên cứu về công tác GDPL trên
địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang là rất cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Nghiên cứu một cách cơ bản những vấn đề lý luận và thực tiễn GDPL
trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong giai đoạn hiện nay. Trên
cơ sở đó rút ra những kết luận, đề xuất những giải pháp nhằm góp phần nâng

cao chất lượng và hiệu quả thực hiện công tác này tại địa phương.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích khái niệm GDPL, cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của công tác
GDPL tại địa phương.
- Đánh giá thực trạng GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên
Giang.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện công tác này tại địa
phương.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về GDPL.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề về
GDPL trên địa bàn đơn vị hành chính cấp huyện và thực trạng, giải pháp đối
5


với GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang với mốc thời gian 10
năm (từ năm 2006 - 2016).
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi
mới của Đảng về Nhà nước và pháp luật trong thời kỳ đổi mới và hội nhập
quốc tế.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu: Tác giả sử dụng phương pháp khảo cứu
tài liệu và phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp khảo cứu tài liệu: đề tài tham khảo tài liệu về GDPL; các
công trình, bày viết được đăng trên các báo, tạp chí, internet liên quan đến
GDPL; tham khảo các văn bản về GDPL của Trung ương, của tỉnh và của
huyện. Tác giả thu thập dữ liệu từ niên giám Chi cục thống kê huyện Kiên
Hải, các báo cáo của Phòng Tư pháp huyện Kiên Hải. Phương pháp này giúp
tác giả tiếp cận vấn đề từ gốc độ lý thuyết đến thực tiễn, kết hợp với phương

pháp nghiên cứu khác để tránh được những quan điểm đánh giá phiến diện và
những giải pháp đề xuất sâu sát với thực tiễn và có tính khả thi.
- Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: phương pháp này dùng để
hệ thống hóa số liệu trong các báo cáo về GDPL trong quá trình nghiên cứu;
phân tích hoạt động GDPL, đồng thời tổng hợp số liệu GDPL phục vụ cho
quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận thực tiễn
Luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan
trọng của GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang, là cơ sở khoa
học và thực tiễn giúp huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang nói riêng và các địa
phương cấp huyện nói chung nâng cao chất lượng GDPL.
Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện
GDPL trên địa bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang trong thời gian tới.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, ban,
6


ngành, tổ chức, cá nhân làm công tác thực tiễn hoặc làm công tác nghiên cứu
để đề xuất những mô hình GDPL hiệu quả, đặc trưng, phù hợp với mỗi địa
phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật trên địa bàn cấp huyện ở
Việt Nam.
Chƣơng 2: Thực trạng giáo dục pháp luật trên địa bàn huyện Kiên Hải,
tỉnh Kiên Giang.
Chƣơng 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm giáo dục pháp luật trên địa
bàn huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang.


7


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
TRÊN ĐỊA BÀN CẤP HUYỆN Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan về giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm về giáo dục pháp luật
Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có
ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người
những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng
tham gia mọi mặt của đời sống xã hội". Từ điển từ và ngữ Việt Nam của tác
giả Nguyễn Lân, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 2000.
Trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta hiện nay, các tác giả
đã khá thống nhất với khái niệm GDPL: “GDPL là hoạt động có định hướng,
có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục
một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình thành ở họ tri
thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp
luật hiện hành”.
1.1.2. Mục đích, nhiệm vụ, vai trò giáo dục pháp luật
1.1.2.1. Mục đích, gồm có 3 mục đích sau
Mục đích thứ nhất (Mục đích nhận thức): Thông qua hoạt động GDPL
giúp cho đối tượng của giáo dục được trang bị những tri thức cơ bản về pháp
luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các chuẩn mực
pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Mục đích thứ hai (Mục đích cảm xúc): GDPL là nhằm hình thành tình
cảm và lòng tin đối với pháp luật, để mọi người hiểu đúng pháp luật, đồng
tình ủng hộ pháp luật. Có như vậy mới hình thành lòng tin, tình cảm đối với
pháp luật của đông đảo nhân dân trong xã hội. Cái mà mục đích cảm xúc của
GDPL hướng tới chính là giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm,

tình cảm không khoan nhượng. Giáo dục tình cảm trách nhiệm, ý thức tuân
thủ pháp luật ở mọi nơi, mọi lúc; phê phán, lên án những biểu hiện coi thường
8


pháp luật, các hành vi vi phạm pháp luật; đồng thời ủng hộ và tích cực tham
gia bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật.
Mục đích thứ ba (Mục đích hành vi): Là phải được thể hiện ở hành vi xử
sự phù hợp pháp luật của các công dân. Tuân thủ các quy phạm pháp luật,
thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của công dân, biết đấu
tranh với các hành vi vi phạm pháp luật; biết vận dụng pháp luật để bảo vệ lợi
ích hợp pháp của cá nhân khi bị xâm phạm.
1.1.2.2. Nhiệm vụ của giáo dục pháp luật
Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ và nhân dân, huy động
mọi nguồn lực tham gia tích cực vào phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
và các hành vi vi phạm pháp luật; phê phán các hành vi tiêu cực xã hội, góp
phần khuyến khích sự tham gia tích cực của công dân vào đời sống pháp luật.
Không chỉ tự mình tuân thủ, không vi phạm pháp luật mà còn tích cực chủ
động tham gia vào các hoạt động phòng, chống tội phạm củng như các hành
vi vi phạm pháp luật khác.
1.1.2.3. Vai trò của giáo dục pháp luật
GDPL nhằm đảm bảo cho các hoạt động quản lý của Nhà nước trên mọi
mặt của đời sống xã hội; bảo vệ trật tự và ổn định xã hội, thiết lập công bằng
xã hội, là phương tiện để định hướng cho các hành vi xử sự hợp quy luật của
con người;
GDPL là khâu đầu tiên trong quá trình triển khai thực hiện pháp luật,
hình thành ý thức pháp luật; góp phần giúp mỗi người nhận ra tính công bằng
của pháp luật, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước, quản
lý xã hội nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
1.1.3. Chủ thể, đối tƣợng giáo dục pháp luật

1.1.3.1. Chủ thể của giáo dục pháp luật
Ý thức pháp luật của các đối tượng trong xã hội được hình thành thông
qua ảnh hưởng của hoàn cảnh khách quan và sự tác động trực tiếp của GDPL.
Sự tác động này được thực hiện nhờ các chủ thể của GDPL.
9


Như đã nêu trên, GDPL là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định
của chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục. Vì vậy, tất cả những
người theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội đã góp phần tham gia
vào việc thực hiện mục tiêu GDPL đều được hiểu là chủ thể GDPL.
Chủ thể GDPL là người thực hiện việc GDPL cho các đối tượng. Theo
quan điểm chung hiện nay, GDPL là nhiệm vụ chung của các cơ quan, tổ chức
và các cá nhân được phân công mà theo cách hiểu truyền thống thường bao
gồm: Những người công tác tại các cơ quan pháp luật; cán bộ tuyên huấn của
các cơ quan, đơn vị; báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; giáo viên
giảng dạy môn pháp luật trong các trường học... Đây là những người trực tiếp
truyền tải những thông tin pháp luật, nội dung, GDPL đến các đối tượng.
Tùy theo nhiệm vụ và nội dung công việc, chủ thể GDPL có thể phân
chia thành các nhóm:
- Nhóm chủ thể chịu trách nhiệm lãnh đạo (Chủ thể tổ chức, quản lý
GDPL): Các tổ chức Đảng, Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật tại các cơ quan, đơn vị.
- Nhóm các chủ thể gián tiếp thực hiện giáo dục pháp luật: Những người
làm các chương trình truyền hình, chương trình phát thanh, chương trình
GDPL trong các nhà trường.
- Nhóm các chủ thể trực tiếp thực hiện giáo dục pháp luật: Các báo cáo
viên pháp luật, giảng viên pháp luật, giáo viên pháp luật, các nhà tư vấn pháp
luật, những người áp dụng pháp luật...
Căn cứ vào mức độ liên quan giữa chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm

pháp lý của các chủ thể và mục đích của GDPL mà chủ thể GDPL cũng có thể
được phân chia thành hai loại:
- Chủ thể chuyên nghiệp: Là những người có chức năng, nhiệm vụ hay
trách nhiệm pháp lý chủ yếu, trực tiếp, thường xuyên thực hiện các mục tiêu
GDPL bao gồm các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở hệ thống các
cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội các cấp; các phóng viên,
10


biên tập viên, phát thanh viên của cơ quan thông tin đại chúng (báo, đài phát
thanh - truyền hình, tạp chí, bản tin, tập san về pháp luật.); các giáo viên dạy
môn giáo dục công dân trong các trường; cán bộ và chuyên gia nghiên cứu,
chỉ đạo GDPL tại cơ quan Nhà nước, tổ chức nghề nghiệp pháp luật, tổ chức
xã hội. Đây chính là những chủ thể quan trọng, chủ yếu có thể gọi là lực
lượng nòng cốt của GDPL.
- Chủ thể không chuyên nghiệp: Là những người tuy chức năng, nhiệm
vụ chính không phải là GDPL nhưng thông qua hoạt động chuyên môn ở các
lĩnh vực khác nhau đã tham gia thực hiện mục tiêu GDPL như đại biểu Quốc
hội, đại biểu HĐND các cấp, cán bộ, công chức các cơ quan hành pháp, cán
bộ là thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội, Đảng, đoàn thể, cán bộ,
nhân viên cơ quan quản lý nhà nước.
Ngoài ra, thông qua hoạt động thực tiễn liên quan đến pháp luật thì mỗi
công dân đều là chủ thể GDPL. Bằng sự tự giáo dục, bằng ý thức trách nhiệm
công dân của mình và bằng sự gương mẫu thực hiện pháp luật của nhà nước,
đường lối chính sách của Đảng mà mỗi công dân đã có tác dụng ảnh hưởng
giáo dục tích cực đến các công dân khác.
1.1.3.2. Đối tượng giáo dục pháp luật
Đối tượng GDPL là một trong những vấn đề lý luận cơ bản của GDPL;
việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức GDPL có phù hợp, hiệu quả
hay không phụ thuộc phần lớn vào việc nghiên cứu, đánh giá một cách đúng

đắn, đầy đủ và toàn diện đối tượng GDPL.
Đối tượng GDPL là các cá nhân công dân, những nhóm cộng đồng xã
hội cụ thể tiếp nhận trực tiếp hay gián tiếp những tác động của các hoạt động
GDPL do các chủ thể GDPL tiến hành nhằm đạt được những mục đích đề ra.
Đối tượng của GDPL rất đa dạng, phong phú về thành phần xã hội, về
trình độ, khả năng nhận thức, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp... Trên cơ sở các
yếu tố như điều kiện, hoàn cảnh tiếp nhận, yếu tố dân tộc, địa lý, đặc điểm

11


tâm lý, yếu tố học vấn, địa vị xã hội... của mỗi công dân mà đối tượng GDPL
được xác định bao gồm các nhóm sau:
- Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước: Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của mình các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước tham gia vào
các quan hệ pháp luật với tư cách là đại diện cho nhà nước để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ cụ thể. Thái độ và hành vi xử sự đúng pháp luật hay không
của họ là tấm gương phản chiếu tính pháp chế trong tổ chức, hoạt động của bộ
máy nhà nước.
- Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước trong mối quan hệ với pháp
luật vừa là đối tượng của GDPL vừa là chủ thể giáo dục; Vì vậy một mặt họ
phải được tiếp cận GDPL gắn liền với giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
trong các nhà trường đến bồi dưỡng nâng cao thường xuyên trong quá
trình làm việc, mặt khác phải được trang bị các kiến thức và kỹ năng trong
việc GDPL. Thực tiễn hiện nay, GDPL cho đối tượng này vừa là vấn đề cấp
bách vừa là vấn đề lâu dài, phải thường xuyên, liên tục mới có thể đáp ứng
được yêu cầu quản lý nhà nước bằng pháp luật.
- Học sinh, sinh viên: Thế hệ công dân trẻ tuổi hôm nay là những người
chủ đất nước trong tương lai, GDPL phải được tiến hành ngay trong trường
học từ phổ thông đến đại học.

- Chủ doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp: GDPL là
đòi hỏi từ nhu cầu thiết thực của các nhà kinh doanh và yêu cầu quản lý kinh
tế của nhà nước. Vì vậy, phải giúp họ có được những kiến thức cơ bản về
pháp luật liên quan đến lĩnh vực kinh doanh, tạo thói quen kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật, tránh tình trạng vi phạm pháp luật. Với người lao động
trong các doanh nghiệp, sự hiểu biết pháp luật là hết sức cần thiết để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chấp hành nghĩa vụ đối với Nhà nước, cũng như yếu
tố để góp phần đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật.
- Các tầng lớp nhân dân (phụ nữ, nông dân, thanh niên, trẻ em, đồng bào
dân tộc thiểu số...): Đây là các lực lượng chiếm đa số trong xã hội, họ ít có
12


điều kiện được học tập, nghiên cứu tìm hiểu pháp luật. Vì vậy, cần phải
GDPL để họ nhận thức được trách nhiệm và nghĩa vụ, quyền lợi của công dân
đối với nhà nước và xã hội.
Việc xác định chủ thể, đối tượng của hoạt động GDPL có ý nghĩa quan
trọng trong lý luận và thực tiễn; trên cơ sở mối quan hệ, sự tác động qua lại
lẫn nhau giữa chủ thể và đối tượng trong quá trình GDPL. Trong đó, chủ yếu
là sự tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của người GDPL lên người
được GDPL. Điều đó tạo cho chủ thể xác định các nội dung, hình thức,
phương tiện, biện pháp phù hợp để tiếp cận với đối tượng GDPL một cách có
hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, điều cần lưu ý là việc phân biệt chủ thể và đối tượng GDPL
chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và mang tính chất tương đối. Bởi như C.Mác đã
từng nói: “Người đi giáo dục cần phải được giáo dục”, thực tiễn pháp lý luôn
có xu hướng và buộc các chủ thể phải thường xuyên đóng vai trò của đối
tượng GDPL và cùng với mục đích đạt được của GDPL sẽ kéo theo sự vươn
lên của đối tượng trở thành chủ thể của GDPL.
1.1.4. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật

1.1.4.1. Nội dung giáo dục pháp luật
Nội dung GDPL là yếu tố quan trọng của GDPL. Xác định đúng nội
dung GDPL là đảm bảo cần thiết để GDPL có hiệu quả thiết thực. Nội dung
chính là yếu tố để phân biệt GDPL với các hoạt động giáo dục khác.
Trong lý luận về GDPL cần làm rõ một số vấn đề liên quan đến nội dung
GDPL như: Phạm vi, đặc điểm, những yếu tố chủ yếu của nội dung GDPL.
Xuất phát từ mục đích của GDPL là trang bị tri thức; bồi dưỡng tình
cảm, lòng tin pháp luật; hình thành thói quen xử sự tích cực theo pháp luật;
nội dung GDPL theo quan điểm chung hiện nay được xác định bao gồm phạm
vi tương đối rộng, đó là:
- Các thông tin về pháp luật, gồm cả kiến thức cơ bản và văn bản pháp
luật thực định.
13


- Các thông tin về việc thực hiện pháp luật, về tình hình vi phạm pháp
luật và tội phạm, về việc điều tra, xử lý các vi phạm pháp luật.
- Các thông tin liên quan đến kết quả nghiên cứu, điều tra xã hội học, áp
dụng pháp luật; về vị trí, tác động của từng văn bản pháp luật đối với đời sống
kinh tế xã hội, đối với từng đối tượng; phản ánh những nhu cầu, nguyện vọng,
ý kiến, đề xuất của nhân dân, của các chuyên gia pháp luật và các ngành khác
trong việc xây dựng, thực hiện và hoàn thiện pháp luật.
- Các thông tin hướng dẫn hành vi pháp luật cụ thể của công dân như:
Quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, các quy trình, thủ tục để bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp...
Tuy nhiên, chủ thể GDPL cũng cần lưu ý và nhận thức đầy đủ các thông
tin trong nội dung GDPL. Đây là cơ sở để người GDPL lựa chọn phương pháp
tiếp cận tới nội dung GDPL phù hợp cho từng đối tượng nhất định, giúp họ có
cách nhìn nhận đúng đắn về các thông tin là nội dung GDPL. Bằng việc cung
cấp, trang bị những loại thông tin trên, người được GDPL sẽ có một hệ thống

những tri thức cần thiết về pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật, có
khả năng sử dụng những tri thức đó để phân tích, lý giải một cách khoa học,
có căn cứ về những vấn đề thực tế mà họ gặp hay chứng kiến; từ đó, định
hướng cho hành vi của mình. Đương nhiên, đó là một quá trình tác động rất
lâu dài, từ nhiều phía và bằng các hình thức khác nhau của chủ thể GDPL;
cũng như quá trình tự chọn lọc, tiếp thu theo nhu cầu, điều kiện của đối tượng
GDPL.
Những nội dung chủ yếu của GDPL, trên cơ sở lý luận và thực tiễn được
xác định theo những cấp độ khác nhau tùy thuộc từng loại đối tượng phù hợp
với những nhu cầu, đặc điểm của đối tượng mà hoạt động GDPL hướng tới,
bao gồm:
Thứ nhất, yêu cầu tối thiểu về nội dung GDPL cho mọi công dân. Sống
trong một xã hội được quản lý bằng pháp luật thì mỗi công dân phải có những
hiểu biết tối thiểu về pháp luật và có những kỹ năng tối thiểu để sử dụng pháp
14


luật nhằm thực hiện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và thực hiện nghĩa
vụ của mình.
Thứ hai, yêu cầu riêng về GDPL theo nhu cầu ngành nghề của các công
dân hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, văn hóa, xã hội. Họ cần
những hiểu biết và kỹ năng sử dụng pháp luật ở mức độ cao hơn, mang tính
định hướng nghề nghiệp rõ hơn thì ngoài những khái niệm pháp lý cơ bản
thường gặp trong thực tiễn, nội dung GDPL theo ngành nghề còn bao gồm
một số luật thực định, liên quan trực tiếp đến lĩnh vực hoạt động của đối
tượng. Các quyền và nghĩa vụ của công dân trong lĩnh vực hoạt động và các
trình tự giải quyết các tranh chấp phổ biến liên quan trong lĩnh vực nghề
nghiệp.
Thứ ba, nội dung của hoạt động GDPL được căn cứ vào đối tượng mà
hoạt động này hướng tới, có thể phân chia thành hai nhóm lớn sau:

* Nhóm cán bộ và công chức: Trong quá trình dân chủ hóa đời sống xã
hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, GDPL để nâng cao nhận thức
về pháp luật cho cán bộ, công chức Nhà nước có đóng góp rất lớn. Bởi họ là
những người thường xuyên tiếp xúc, giải quyết những vấn đề có liên quan
trực tiếp đến quyền lợi nhiều mặt trên mọi lĩnh vực của nhân dân, đặc biệt là
dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, chính trị. Để thực hiện được quá trình dân chủ
hóa này đòi hỏi cán bộ, công chức nhà nước phải hiểu biết về pháp luật, tâm
lý pháp luật phải kiên định vững vàng, có kiến thức pháp luật rộng, công minh
chính trực và có tinh thần trách nhiệm trước nhiệm vụ được giao. Việc đảm
bảo quyền lợi chính đáng, hợp pháp, công bằng qua các vụ việc cụ thể trong
mối quan hệ giữa Nhà nước, công dân, giữa các bộ phận, các cá nhân khác
nhau trong xã hội chính là sự thể hiện công bằng, dân chủ, văn minh và tiến
bộ xã hội; thái độ, tác phong, ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước sẽ tạo cho nhân dân tin tưởng hơn vào sự công
bằng, dân chủ pháp luật. Từ đó thúc đẩy họ tham gia vào quá trình xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tâm lý pháp luật của công chức hành
15


chính có ảnh hưởng rất lớn trong việc giải quyết các vấn đề cụ thể, nếu họ
giải quyết một cách hợp tình, hợp lý, đúng với quy định của pháp luật thì họ
sẽ tạo thêm niềm tin đối với nhân dân; và ngược lại, vì trình độ hiểu biết pháp
luật còn thấp hoặc có thái độ coi thường pháp luật mà họ giải quyết không
minh bạch sẽ ảnh hưởng tới tính hiệu quả của pháp luật Nhà nước cũng như
không đảm bảo được tính khách quan, dân chủ.
Đối với những cán bộ trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, tâm lý pháp
luật của họ tác động rất lớn đến việc xử lý từng trường hợp cụ thể. Nếu họ xét
xử công minh, xử lý đúng người, đúng tội thì người dân sẽ có cảm tình với
pháp luật, yên tâm tin vào pháp luật. Ngược lại nếu việc xét xử không đúng
người, đúng tội thì người dân dễ có thái độ coi thường pháp luật. Thực tế

nhiều năm qua đã cho thấy, một số cán bộ có chức, có quyền đã vi phạm các
điều cấm trong pháp luật Việt Nam. Vì tư lợi, họ đã lợi dụng chức quyền, bất
chấp pháp luật, coi thường pháp luật, họ không tự điều chỉnh được hành vi
của mình, hành vi mà pháp luật không cho phép làm thì họ lại làm dù họ là
người hiểu biết rõ về pháp luật. Như vậy, hoạt động GDPL có vai trò rất lớn,
nó giúp con người tự điều chỉnh hành vi của bản thân và hành vi của người
khác trong xã hội.
Mặt khác, cán bộ, công chức cũng là những người trực tiếp có tác động
rất mạnh đến hiểu biết, nhận thức, thái độ, tình cảm của nhân dân đối với
pháp luật. Với tư cách này, cán bộ, công chức phải được trang bị các kiến
thức và kỹ năng trong việc áp dụng pháp luật và trước tiên họ phải có ý thức
đầy đủ về trách nhiệm chủ thể GDPL của mình trong khi tiến hành các hoạt
động chuyên môn nghiệp vụ.
* Nhóm quảng đại quần chúng nhân dân: Đảng và Nhà nước ta đang
hướng đến mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân và vì dân. Để nhân dân có thể hưởng các quyền tự do, dân chủ và thể
hiện nghĩa vụ công dân của mình thì họ phải có một trình độ hiểu biết, một
thái độ đúng đắn và một khả năng nhất định khi sử dụng pháp luật. Sự kết hợp
16


nhận thức pháp luật và tình cảm pháp luật thể hiện ở trình độ ý thức pháp luật,
tâm lý pháp luật của người đó. Song nhận thức về pháp luật của mỗi người là
khác nhau, do vậy sự hưởng thụ các quyền tự do, dân chủ và thực hiện nghĩa
vụ của mình cũng có phần khác nhau. Trên thực tế, do trình độ nhận thức về
pháp luật có hạn, một số đối tượng không hiểu rõ về pháp luật, thậm chí hiểu
sai pháp luật, do đó có thái độ chống đối pháp luật. Đối với đồng bào các dân
tộc thiểu số, trình độ văn hóa thấp, văn hóa pháp lý hạn chế, họ hiểu biết rất ít
về pháp luật, thậm chí không cần quan tâm tới pháp luật, họ xem thường pháp
luật, lảng tránh pháp luật. Trong các hành vi của mình, họ không chú ý tới

pháp luật, nhiều hành vi vi phạm pháp luật mà họ vẫn không biết. Điều này
không phải do họ cố ý mà nhiều khi do không hiểu biết các quy định của pháp
luật, không có tình cảm đối với pháp luật, một phần do họ quen sống và xử sự
theo phong tục tập quán làng xã “lệ làng”.
Nâng cao hoạt động GDPL góp phần điều chỉnh mọi hành vi, mọi mối
quan hệ của con người. Nếu GDPL tốt thì đa số hành vi của con người diễn ra
thuận chiều với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại,
hoạt động GDPL yếu kém thì sẽ góp phần cản trở sự phát triển của quá trình
xây dựng lên nền dân chủ đó.
Quá trình đổi mới đất nước, xây dựng “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa” và một “xã hội công dân” đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội,
xây dựng một xã hội trong đó mọi người đều có ý thức tôn trọng pháp luật, tự
nguyện tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có tinh thần bảo vệ
pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Để thực hiện mục tiêu này, song
song với việc xây dựng và không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, một
trong những vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là phải đẩy mạnh và nâng cao
hiệu quả công tác GDPL; mà trước hết chính là việc xác định đúng nội dung
của GDPL.
1.1.4.2. Hình thức giáo dục pháp luật
17


Nội dung của hoạt động GDPL không thể tự thân đi vào nhận thức, tình
cảm của người được giáo dục mà phải qua những kênh chuyển tải thông tin, là
các dạng hoạt động cụ thể để tổ chức quá trình GDPL, thể hiện nội dung
GDPL. Các dạng hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của
đối tượng. Nhờ đó, mục đích của GDPL mới đạt được. Do vậy, hiệu quả của
hoạt động GDPL không chỉ phụ thuộc vào việc xác định đúng mục đích và nội
dung GDPL mà còn phụ thuộc vào việc xác định đúng hình thức GDPL.

Theo từ điển tiếng Việt thì hình thức là cái chứa đựng hoặc biểu hiện nội
dung; là cách thể hiện, cách điều hành một hoạt động. Trong giáo dục học,
khái niệm hình thức giáo dục được hiểu là các cách thức tổ chức hoạt động
phối hợp giữa người giáo dục và người được giáo dục. Xuất phát từ các ý kiến
của các nhà nghiên cứu luật học, khái niệm hình thức GDPL được hiểu là các
hình thức tổ chức hoạt động phối hợp giữa những người GDPL và người được
giáo dục nhằm chiếm lĩnh nội dung phổ biến và đạt mục đích GDPL Trên cơ
sở của khái niệm này, hình thức của hoạt động GDPL được coi là các dạng cụ
thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể GDPL và đối tượng GDPL để thể hiện
nội dung GDPL và đạt được mục đích GDPL.
Căn cứ vào tính đa dạng đặc thù của nội dung, mục đích, đối tượng
GDPL, các nhà nghiên cứu đã xác định hình thức GDPL bao gồm hai nhóm
chính sau:
Thứ nhất, nhóm hình thức giáo dục có tính phổ biến và truyền thống
được sử dụng trong nhiều loại hình giáo dục.
Đề cập đến nhóm này, trước hết phải nói đến hình thức GDPL trong các
nhà trường; chính là hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trực tiếp giữa chủ
thể giáo dục chuyên nghiệp là giáo viên và đối tượng xác định là học sinh
trong khuôn khổ nhà trường. Các cấp độ nội dung của hình thức GDPL này
thể hiện: Dạy và học các nội dung pháp luật tối thiểu trong các trường phổ
thông; dạy và học các nội dung pháp luật gắn với yêu cầu ngành nghề tại các
trường đại học, trung học chuyên nghiệp (không chuyên luật), các trường
18


Đảng, đoàn thể và cuối cùng là đào tạo các chuyên gia về luật tại các cơ sở
đào tạo chuyên luật.
Ngoài ra, nhóm hình thức này còn bao gồm các hình thức tổ chức hoạt
động GDPL do các chủ thể chuyên và không chuyên nghiệp tiến hành trong
hoạt động GDPL truyền thống, phổ cập đối với các đối tượng khác nhau trong

phạm vi không gian, thời gian xác định như: Nói chuyện, mở hội nghị phổ
biến, sinh hoạt câu lạc bộ, tọa đàm, kết hợp phổ biến pháp luật trong các buổi
sinh hoạt cộng đồng dân cư... (giao tiếp trực tiếp); hoặc không xác định cụ thể
(giao tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin cổ động, các loại
hình văn hóa nghệ thuật.).
Thứ hai, nhóm các hình thức GDPL đặc thù, chính là việc định hướng
GDPL trong các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền (Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân). Hình thức giáo dục này chủ yếu do công chức nhà nước thực
hiện với vai trò chủ đạo của các luật gia đang công tác tại các cơ quan pháp
luật của Nhà nước. Nó thường gắn liền với việc áp dụng các điều luật cụ thể
hay thực hiện một quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể của người được giáo dục; vì
vậy, có tác động trực tiếp, sâu sắc lên ý thức, tình cảm, hành vi của người
được giáo dục.
GDPL qua các hoạt động mang tính đặc trưng của các tổ chức xã hội, tổ
chức nghề nghiệp (văn phòng luật sư, công ty luật.), tổ chức quần chúng (tổ
hòa giải, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý). Việc thừa nhận các hình thức
GDPL đặc thù là một vấn đề lý luận quan trọng, góp phần tạo nên sự đổi mới.
Trên cơ sở các nhóm hình thức GDPL trên, có thể xác định một số hình
thức GDPL cụ thể, đang được áp dụng khá phổ biến trong thực tế gồm:
- Họp báo, thông qua báo chí;
- GDPL trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung cấp thông
tin, tài liệu pháp luật;
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,
19


internet, pa-nô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải thông tin pháp luật trên
trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu
dân cư;

- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật;
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp
công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa
giải ở cơ sở;
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức
chính trị và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa
khác ở cơ sở;
- Thông qua chương trình GDPL trong các cơ sở giáo dục của hệ thống
giáo dục quốc dân;
- Các hình thức GDPL khác phù hợp với từng đối tượng cụ thể mà các
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo đảm cho công
tác GDPL đem lại hiệu quả.
- Trong các hình thức GDPL trên, có những hình thức Nhà nước, xã hội
thực hiện trách nhiệm chủ động GDPL cho công dân, đáp ứng quyền của công
dân được thông tin về pháp luật, nhưng cũng có những hình thức để người
dân thực hiện quyền yêu cầu nhà nước cung cấp thông tin pháp luật, chủ động
tìm hiểu các vấn đề pháp luật cụ thể. Nhà nước, xã hội có trách nhiệm đáp
ứng các yêu cầu này của cá nhân (như hướng dẫn tìm hiểu pháp luật, cung cấp
thông tin, tài liệu pháp luật…).
1.2. Vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng trong giáo dục

pháp luật ở địa phƣơng
1.2.1. Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng nhân dân huyện
- Quyết định các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả GDPL; phân bổ dự
toán ngân sách địa phương cho công tác GDPL;

20



×