Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non đạt quả cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 25 trang )

MỤC LỤC

STT

NỘI DUNG

TRANG

I

PHẦN I : ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Lý do chọn đề tài

1

2

Mục đích nghiên cứu

2

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4



Phương pháp nghiên cứu

2

II

PHẦN II: NỘI DUNG

1

Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm

2
3
4
III

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm
Các giải pháp, kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Hoa Mai
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động
giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường

2
4
5
19


PHẦN III: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ

1

Kết luận

21

2

Kiến nghị

21

Tài liệu tham khảo

23

IV

1


I - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Thời nào cũng vậy, con người muốn hoàn thiện thì phải luôn học hỏi
“Học, học nữa, học mãi”
Từ xa xưa, con người muốn tồn tại, muốn có những kỹ năng cơ bản để
chống chọi với quy luật sinh tồn của tự nhiên đều phải học, học từ những bài
học trải nghiệm đơn giản nhất cho đến những bài học phức tạp. Học từ kinh

nghiệm cá nhân, kinh nghiệm xã hội, và cao hơn nữa là từ những bài giảng được
đúc rút qua hàng nghìn, hàng triệu năm, qua nhiều thế hệ. Và để con người có
được bề dày kinh nghiệm sống như ngày nay thì mỗi thế hệ lại đúc rút ra những
bài học, những kinh nghiệm để truyền lại cho thế hệ kế cận họ. Những bài học
cứ vậy được tích lũy, được các thế hệ “cha ông truyền lại cho con cháu” - truyền
lại cho “thế hệ tương lai của đất nước”.
Trong xã hội ngày nay, khi con người đã có một bước tiến khá dài về công
nghệ khoa học kỹ thuật, về văn hóa lối sống. mọi thứ lại càng như phức tạp hơn,
đòi hỏi con người phải bắt nhịp và thích ứng tốt hơn. Đặc biệt là trẻ em, “những
tờ giấy trắng” thì lại càng nhiều hơn nữa những bài học, những trải nghiệm mới
đang chờ đợi. Học để thích ứng với hoàn cảnh sống đòi hỏi vốn kiến thức rộng
hơn nhiều so với việc học đọc, học viết hay học các con số. Và để giúp trẻ hoàn
thiện từng bước, để trẻ “lớn dần lên” về mọi mặt theo chiều hướng tích cực thì
rất cần sự chung tay của tất cả các “mắt xích” môi trường giáo dục xung quanh
trẻ. Nó là một chuỗi liên hoàn từ bản thân trẻ đến gia đình, trường học và cao
hơn nữa là môi trường xã hội, tất cả đều rất quan trọng.
Đối với trẻ nhỏ, đặc biệt là trẻ mầm non thì đây là giai đoạn đầu tiên trong
quá trình học hỏi, tiếp thu và lĩnh hội những vốn kiến thức, những giá trị văn
hóa, giá trị sống cho bản thân. Trẻ ở giai đoạn này vốn hiểu biết còn rất hạn chế
do trẻ chưa được tiếp xúc nhiều với thế giới xung quanh, chưa có điều kiện đúc
rút kinh nghiệm xã hội, kinh nghiệm lịch sử cho mình như người lớn. Mọi thứ
với trẻ đều rất mới lạ. Trẻ rất non nớt, thậm trí là chưa có khả năng ứng phó với
mọi việc xảy ra xung quanh, không biết cách tự bảo vệ mình trước các tình
huống, đặc biệt là những nguy hiểm ngày càng nhiều trong xã hội đang từng
phút, từng giờ “rình rập” trẻ,….Vì vậy, việc dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần
thiết bởi kỹ năng sống giúp trẻ có nhận thức và hành vi đúng, từ đó biết cách
ứng xử phù hợp với các tình huống xảy ra.
Nắm bắt được sự cần thiết phải trang bị kỹ năng sống cho trẻ, ở Việt Nam
từ năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động phong trào thi đua “Trường
học thân thiện - Học sinh tích cực”. Gần hơn nữa, ở lĩnh vực chuyên môn mầm

non đã đồng bộ thực hiện nguyên tắc “lấy trẻ làm trung tâm” trong tất cả các
hoạt động, nhằm phát huy cao nhất tính tích cực của trẻ. Tất cả các cuộc vận
động, các thay đổi đó là những “hành động” rất trách nhiệm, rất thực tế của
ngành giáo dục Việt Nam ở từng cấp bậc. Những “hành động” đó cần được nhân
lên, được mở rộng thêm, được cụ thể hóa và chi tiết hơn ở tất cả các “mắt xích”
môi trường giáo dục trẻ.
Với vai trò là người giáo viên mầm non, là người đang hàng ngày tiếp xúc
trực tiếp với trẻ, trực tiếp dạy dỗ trẻ. Tôi luôn trăn trở, mong muốn cùng các
2


đồng nghiệp giáo dục trẻ biết ứng xử đúng đắn và tốt nhất ở mọi tình huống, mọi
hoàn cảnh trong cuộc sống mà không để mất đi sự hồn nhiên ngây thơ của trẻ.
Đặc biệt trong thực tế, mặc dù giáo dục kỹ năng sống là vô cùng cần thiết cho
trẻ, nhưng ở bậc học mầm non môn học này hiện tại cũng chỉ mới nhận được sự
quan tâm, áp dụng ở một số trường thuộc các địa điểm trung tâm, và cũng chỉ
mới dừng lại là một bộ môn năng khiếu - môn học tự nguyện, chứ chưa thành
môn học được áp dụng đồng bộ với giáo trình chuẩn. Theo quan sát cá nhân của
tôi và bằng nghiệp vụ chuyên môn mầm non vốn có tôi thấy, việc áp dụng môn
năng khiếu giáo dục kỹ năng sống ở một số trường mới chỉ là giải pháp tình thế,
số lượng những kỹ năng đưa vào giảng dạy rất ít so với yêu cầu thực tế cuộc
sống quanh trẻ, bên cạnh đó số lượng trẻ được tham gia bài học không nhiều so
với số lượng thực tế của trẻ tại trường. Hơn nữa với trẻ mầm non, muốn thiết lập
cho trẻ một kỹ năng lâu bền thì phải có sự lặp đi lặp lại, gợi nhớ và ôn luyện
thường xuyên tùy thuộc vào yêu cầu của từng hoạt động chứ không chỉ dừng lại
ở một tiết học. Tôi thiết nghĩ, nếu cũng những nội dung đó mà được đưa vào
thành môn học chính thức trong kế hoạch giảng dạy thường xuyên ở trường theo
từng độ tuổi từ đơn giản đến phức tạp, đồng thời phối kết hợp với phụ huynh
cho trẻ thực hành luyện tập bài bản thường xuyên thì hiệu quả sẽ cao hơn rất
nhiều. Từ những lý do và trăn trở trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Một số biện

pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Hoa Mai đạt
kết quả cao”
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm phát huy tính tích cực năng động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin trong
mọi hoạt động và mọi hoàn cảnh của trẻ, nhằm củng cố rèn luyện cho trẻ những
kỹ năng sống cơ bản thông qua hoạt động học, chơi, hoạt động ăn, ngủ của trẻ,
nhằm thúc đẩy nâng cao hiệu quả giáo dục trong nhà trường nói riêng và nâng
cao chất lượng đối với giáo dục nói chung.
3. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài nghiên cứu đã chọn, với khả năng và trách nhiệm của mình, tôi
chọn đối tượng nghiên cứu là đưa ra: “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Hoa Mai đạt kết quả cao”
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm của mình lựa trọn, trong quá
trình nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Tìm tòi, tham khảo
tài liệu có liên quan để nghiên cứu xây dựng cơ sở lý luận.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Phục vụ cho
quá trình khảo sát thực trạng trước và sau khi nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê sử lý số liệu: Phục vụ cho quá trình tổng hợp kết
quả thực trạng và kết quả đạt được sau khi nghiên cứu.
II - NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Tôi đã thực sự bị thuyết phục bởi một câu nói vô tình đọc được ở đâu đó
“Gieo hành vi, gặt thói quen”
3


Trẻ nhỏ nói chung và trẻ mầm non nói riêng giống như những “tờ giấy
trắng”, việc giáo dục đóng vai trò chủ đạo trong việc hình thành nhân cách trẻ,

từ những bài học giáo dục, kết hợp với đặc điểm “ tự thân” và hoàn cảnh sống sẽ
cho ra những “sản phẩm” đặc điểm tính cách không giống nhau. Đặc điểm cá
nhân và hoàn cảnh sống của trẻ thì sẽ không thay đổi theo ý chủ quan của những
nhà giáo dục chúng ta, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tác động gián tiếp, nó sẽ
dần thay đổi nhờ sự định hướng có xuất phát điểm từ những bài học giáo dục mà
chúng ta mang đến cho trẻ. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là quan
trọng và rất cần thiết. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân
cách phát triển toàn diện và bền vững. Có nhiều công trình khoa học đã chứng
minh rằng: Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khoá thành công
cho tương lai của mỗi đứa trẻ.
Trong cuộc sống với vô vàn những khó khăn, thử thách, những tình huống
xảy ra, một cá nhân có đầy đủ kiến thức nhưng lại chưa có kĩ năng sống và chưa
biết sử dụng linh hoạt những kĩ năng này thì không đảm bảo cá nhân đó có thể
đưa ra các quyết định hợp lý, giao tiếp có hiệu quả và có mối quan hệ tốt với
mọi người. Kỹ năng sống chính là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó
với những yêu cầu, thách thức trong cuộc sống hàng ngày.
Theo một nghiên cứu gần đây về sự phát triển trí não của trẻ cho thấy khả
năng giao tiếp, khả năng biết tự kiểm soát, thể hiện các giác quan của mình, biết
cách ứng xử phù hợp và biết cách tự giải quyết vấn đề cơ bản một cách tự lập rất
quan trọng đối với trẻ. Chính vì vậy, việc đi sâu giảng dạy kĩ năng sống cho trẻ
phù hợp với từng độ tuổi từ lứa tuổi mầm non rất cần thiết đối với sự phát triển
của trẻ.
Nói đến giáo dục kỹ năng sống chính là chúng ta nói đến việc giáo dục trẻ
ở các phương diện cơ bản nhằm mục tiêu phát triển, nuôi dưỡng những giá trị
sống nền tảng và hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân
bằng cuộc sống trên các lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ và tinh thần. Để đạt
được mục tiêu đó chúng ta phải giáo dục trẻ ở tất cả các phương diện như: Kỹ
năng khám phá thế giới xung quanh; kỹ năng giải quyết tình huống có vấn đề;
kỹ năng trong giao tiếp; kỹ năng thích nghi với môi trường sống; kỹ năng tự
chăm sóc bản thân; kỹ năng tự bảo vệ; kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ năng

nhận thức; kỹ năng tạo niềm vui….
Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm
trong cuộc sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Nội dung
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ phải hết sức đơn giản và gần gũi với trẻ. Chúng
ta dạy kỹ năng sống cho trẻ chính là chúng ta dạy trẻ biết sự hợp tác, tự kiểm tra,
tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Trẻ học cách có được
những mối liên hệ mật thiết với các bạn khác trong lớp, biết chia sẻ, chăm sóc,
lắng nghe, trình bày và diễn đạt được ý của mình trong nhóm bạn. Và điều quan
trọng mà chúng ta mong muốn sẽ là giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận
các thử thách mới qua việc phát triển các kĩ năng cho trẻ. Nếu chỉ suy ngẫm và
trò chuyện thôi thì chưa đủ, cần có các kĩ năng ứng dụng vào thực tế. Trẻ cần
được trải nghiệm, hiểu kết quả của hành vi ứng xử và muốn chủ động đưa ra
những quyết định có sức ảnh hưởng lớn.
4


Trong thực tế ở độ tuổi 5 - 6 tuổi của lớp Hoa Phượng 3, trẻ thích làm
theo ý muốn nhưng kinh nghiệm và kỹ năng sống của trẻ còn quá ít để trẻ thực
hiện những mong muốn đó. Hơn thế nữa, trong độ tuổi này trẻ thường được cha
mẹ bao bọc, nuông chiều một cách thái quá, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỉ,
không quan tâm đến người khác và các kĩ năng trong cuộc sống rất hạn chế, gây
khó khăn cho trẻ trong việc có tình huống bất ngờ xảy ra. Vì vậy, một số trẻ vẫn
rất hạn chế trong các kỹ năng sống cơ bản hàng ngày. Một số trẻ rất thụ động khi
có những tình huống xảy ra. Chính vì vậy, việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là một
việc làm hết sức cần thiết giúp trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc sống.
Hơn ai hết, người giáo viên có tầm quan trọng rất lớn trong việc rèn kỹ năng
sống cho trẻ, cùng với gia đình giúp trẻ có những kỹ năng cơ bản trong cuộc
sống.
Vì vậy, dạy kĩ năng sống cho trẻ là truyền cho trẻ những kinh nghiệm
sống của người lớn nhằm giúp cho trẻ có những kĩ năng đương đầu với những

khó khăn trong cuộc sống. Trẻ biết vận dụng, biến những kiến thức của mình để
giải quyết những khó khăn trong cuộc sống cho phù hợp. Muốn như vậy, người
lớn phải tạo cho trẻ có môi trường để trải nghiệm, thực hành.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Hiện nay tôi đang làm việc tại trường mầm non Hoa Mai - trường đạt
chuẩn quốc gia đóng trên địa bàn thành phố nên có nhiều các tiêu chí thuận lợi
cho việc áp dụng sáng kiến như cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng các hoạt động của
nhà trường, 100% giáo viên có trình độ đạt chuẩn, trong đó có 79.6% giáo viên
có trình độ trên chuẩn, nhiều giáo viên có bề dày kinh nghiệm, là giáo viên giỏi
các cấp. Ban giám hiệu nhà trường tích cực bồi dưỡng cho giáo viên về chuyên
môn, xây dựng phương pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục mầm
non. Nhà trường quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và bước đầu
đưa vào giảng dạy dưới hình thức là bộ môn năng khiếu.
Theo nhiệm vụ của năm học 2017-2018, tôi được phân công dạy lớp Hoa
Phượng 3 ở độ tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi), với số cháu là 36, trong đó có 16
cháu nam và 20 cháu nữ, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số
kỹ năng cơ bản. Đa số trẻ vô tư, hồn nhiên, ngoan ngoãn, mạnh dạn, đạt yêu cầu
về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã
hội, biết cảm thụ cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
Trong quá trình giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại
trường mầm non Hoa Mai. Tôi gặp những thuận lợi và khó khăn như sau:
2.1. Thuận lợi
Nhà trường đang áp dụng bộ chuẩn đánh giá phát triển trẻ 5 tuổi theo định
hướng của ngành nên việc so sánh kết quả đạt được của trẻ trước và sau khi đưa
kinh nghiệm giáo dục kỹ năng sống của tôi vào giảng dạy trở nên thuận lợi hơn.
Cơ sở vật chất, đồ dùng trang thiết bị dạy học đầy đủ, không gian hoạt
động của trẻ rộng rãi, an toàn, thoáng mát.
Giáo viên có bề dày kinh nghiệm, giúp cho việc tiếp cận, áp dụng những
hoạt động, đưa những cái mới vào chương trình giáo dục trẻ thuận lợi hơn.
Trẻ khỏe mạnh, hào hứng tham gia các hoạt động, lĩnh hội vốn kiến thức

cô giáo truyền đạt.
5


2.2. Khó khăn
Một số giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc rèn kỹ năng sống cho
trẻ, chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non.
Do đặc thù trẻ sinh sống ở trung tâm thành phố nên phụ huynh khá bận
rộn, không có nhiều thời gian dành cho trẻ dẫn đến phụ huynh có quan niệm sai
lầm là bù đắp cho sự thiếu hụt thời gian chăm sóc trẻ bằng cách ra sức bao bọc,
chiều chuộng trẻ, không để trẻ tự trải nghiệm, tự làm bất kì công việc gì, ngay cả
việc vệ sinh cá nhân
Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và
biện pháp dạy trẻ các nội dung kỹ năng sống nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa
tương đương với nhau. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào
các hoạt động, một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự
hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế.
2.3. Kết quả khảo sát ban đầu
Lĩnh vực khảo sát

Mức độ % trên trẻ
Đạt

Chưa đạt

Số lượng
23

Tỉ lệ %
63.9%


Số lượng
13

Tỉ lệ %
36.1%

Kỹ năng giao tiếp

23

63.9%

13

36.1%

Kỹ năng hợp tác và làm việc
theo nhóm
Kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc
bản thân
Kỹ năng học tập

26

72.2 %

10

27.8 %


22

61.1%

14

38.9%

19

52.8%

17

47.2%

Kỹ năng phòng tránh, thoát khỏi
nguy hiểm

17

47.2%

19

52.8%

Kỹ năng tự tin


Qua kết quả khảo sát ban đầu tôi nhận thấy nhiều trẻ vẫn chưa có kỹ năng
sống cần thiết, từ kết quả này tôi đã tìm hiểu, phân tích và đưa ra các phương án
cụ thể để khắc phục những điểm còn hạn chế cho trẻ.
3. Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi mang
tính khả thi ở trường mầm non Hoa Mai
3.1. Nâng cao nhận thức cho giáo viên về tầm quan trọng của việc dạy
kỹ năng sống cho trẻ
Giáo viên trong trường phần nhiều là đã có gia đình, có con và có thâm
niên công tác lâu năm, có bề dày kinh nghiệm, nên đa số cũng đã nhận thức
được phần nào đó về tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Tuy nhiên sự nhận thức này đôi khi còn chưa rõ ràng, hoặc đã hiểu nhưng vẫn
đang luẩn quẩn trong việc đưa ra cách thức và biện pháp cụ thể. Trong những
năm trước, một số giáo viên cũng đã tự tìm hiểu các kiến thức, phương pháp
6


giáo dục kỹ năng cho trẻ, tuy nhiên vẫn mang tính chất hoạt động cá nhân, riêng
lẻ nên chưa đạt được hiệu quả trong công việc, hoặc nếu có cũng chỉ mới dừng
lại làm bài học cho bản thân. Bên cạnh đó lại có một số giáo viên chưa tích cực
tự bồi dưỡng, do đó hiểu chưa sâu về sự cần thiết phải dạy kỹ năng sống cho trẻ,
chưa biết cần phải có phương pháp nào để kết quả dạy là tốt nhất.
Năm học 2016 – 2017, nhà trường đã kết hợp cùng Công ty New
Generation tổ chức thành công Hội thảo kỹ năng sống cho trẻ mầm non:

3.2. Định hướng, bồi dưỡng cách lồng ghép dạy kỹ năng sống vào
từng môn học cho giáo viên, đồng thời khích lệ các giáo viên đưa ra những
biện pháp mới bổ sung thêm nhằm hoàn thiện phương pháp dạy trẻ
Tôi cung cấp một số trang web và một số chuyên mục có thông tin về giáo
dục kỹ năng sống trên truyền hình cho đồng nghiệp, đề nghị với Ban giám hiệu
nhà trường mua một số tài liệu có nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm

non cho giáo viên. Đồng thời, tôi đã tổ chức thảo luận với giáo viên trong tổ,
trong trường về thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc dạy trẻ các kỹ năng
sống cần thiết, qua đó giúp giáo viên hiểu được rằng chương trình học thường
cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức trong suốt năm học, và thực tế trẻ sẽ học
tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, giáo viên biết cách phát
triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội của trẻ. Vì thế, khi trẻ tiếp thu
được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm
bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học một
cách tốt nhất.
Sau khi giáo viên đã có thời gian tìm hiểu về giáo dục kỹ năng sống ở
nhiều nguồn thông tin khác nhau cũng như những cách thức và biện pháp cụ thể
tôi đưa ra về cách giáo dục dạy kỹ năng sống cho trẻ, tôi đã có tổ chức một buổi

7


thảo luận để thu nhận bổ xung thêm nhằm hoàn chỉnh hơn phương pháp dạy kỹ
năng sống cho trẻ, bởi lẽ:
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
3.3. Cùng xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ theo từng
độ tuổi
Mỗi độ tuổi sẽ có những đặc điểm và mức độ đạt được về kỹ năng sống
không giống nhau. Ở vị trí giáo viên dạy lớp lớn nhưng với mong muốn triển
khai đồng bộ toàn trường trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ nên tôi chủ
động hội ý, lấy ý kiến của các đồng nghiệp, đặc biệt là giáo viên các khối khác
như khối nhà trẻ, khối mẫu giáo bé và khối mẫu giáo nhỡ để cùng xác định và
đưa ra mục tiêu cơ bản cần dạy trẻ ở từng độ tuổi. Tuy nhiên, trong phạm vi
sáng kiến này tôi xin phép chỉ đưa ra số liệu độ tuổi và lớp cụ thể tôi đang giảng
dạy là lớp Hoa Phượng 3 ở độ tuổi 5 - 6 tuổi.

Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp giáo
viên lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ ở lớp mình phụ trách.
Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ
cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ cần được giáo dục
chính là những kỹ năng sống như:
- Kỹ năng tự tin: Mạnh dạn trước mọi người, tự tin thể hiện mọi cảm xúc,
bộc lộ suy nghĩ, đưa ra chính kiến cá nhân,….
- Kỹ năng giao tiếp: Cử chỉ, thái độ giao tiếp phù hợp với bối cảnh, hoàn
cảnh cụ thể, lễ phép trong giao tiếp với người lớn tuổi, …
- Kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm: Kỹ năng tổ chức hoạt động,
làm việc theo nhóm, kỹ năng ra quyết định, giải quyết vấn đề.
- Kỹ năng tự phục vụ và chăm sóc bản thân
- Kỹ năng học tập: Ý thức trách nhiệm, kỹ năng thiết lập và thực hiện mục
tiêu.
- Kỹ năng phòng tránh, thoát khỏi nguy hiểm.
3.4. Cụ thể hóa những biện pháp, những cách thức để giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ.
* Biện pháp: “Hình thành kỹ năng tự tin:
- Theo Samuel Jonhson thì “Tự tin là điều kiện đầu tiên để làm được
những việc lớn lao”. Vì vậy, Phát triển sự tự tin và lòng tự trọng ở trẻ là điều đầu
tiên tôi chú tâm đến. Và để phát triển sự tự tin ở trẻ thì trước tiên ta phải làm trẻ
cảm nhận được giá trị của bản thân mình, trẻ cảm nhận được “mình là ai”, trẻ tự
tin làm theo ý tưởng, tự tin bày tỏ cảm xúc của mình với người khác mà không e
ngại. Kỹ năng sống này giúp trẻ nhanh chóng thực hiện được mong muốn của
mình đồng thời có khả năng hòa nhập với cộng đồng.
- Những biện pháp tôi sử dụng để phát triển sự tự tin ở trẻ là:
+ Luôn tôn trọng trẻ, cổ vũ và khích lệ những khả năng của trẻ mọi lúc
mọi nơi một cách kịp thời:
Ví dụ: Khi dạy trẻ học thơ tôi sẽ khuyến khích các trẻ lên đọc thơ cá nhân,

và ngay từ trẻ đầu tiên xung phong lên tôi đã kịp thời khen trẻ tự tin và cho cả
8


lớp vỗ tay khen trẻ. Làm như vậy để ngầm nói với các trẻ khác bạn làm như vậy
là thật tuyệt vời, nhằm củng cố và khích lệ sự tự tin nơi tất cả các trẻ. Với những
trẻ nhút nhát hay còn chưa thật sự mạnh dạn, tôi mời trẻ đứng tại chỗ đọc cùng
các bạn rồi dần dần động viên khích lệ trẻ tự tin thể hiện mình trước cả lớp. Tùy
vào từng đối tượng cụ thể chúng ta sẽ áp dụng. Và nguyên tắc áp dụng của tôi là
không được nóng vội đốt cháy giai đoạn, mà phải từng bước khích lệ trẻ.
+ Cho phép trẻ được phép mắc sai lầm: Mỗi khi có trẻ mắc sai lầm tôi
không phê bình hay chê trách trẻ, điều đó sẽ làm trẻ tự ti về bản thân. Ngược lại
tôi lấy một tấm gương của bạn khác và nói cho trẻ biết “Bạn A” cũng từng mắc
sai lầm, và mỗi lần không may làm sai điều gì “bạn ấy” luôn nghĩ cách khắc
phục và sửa sai để không bị sai lỗi đó nữa. Sau đó khen “Bạn A” và khích lệ để
trẻ sửa sai. Đồng thời khen trẻ khi trẻ nhận ra hành vi của trẻ là sai, và ngay khi
trẻ có biểu hiện sửa sai thì phải kịp thời khích lệ trẻ.
+ Tôi luôn nói “con có thể làm được điều đó” mỗi khi cảm nhận thấy trẻ
cần có một lời động viên, khích lệ, hay mỗi khi trẻ bắt đầu làm một việc gì hơi
khó hơn làm trẻ ngần ngại. Niềm tin nơi trẻ sẽ được củng cố thêm khi trẻ có cảm
giác đang có người tin tưởng mình, đồng hành cùng mình.
Ví dụ: Trong giờ thể dục, cô cho trẻ thực hiện bài tập đi trên cầu khỉ, một
số trẻ ngần ngại không bước lên cầu vì sợ ngã, ngay khi đó tôi đến bên xoa đầu
trẻ và nói với trẻ rằng “con có thể làm được” và kết quả thực sự đã làm tôi hài
lòng.
+ Khuyến khích trẻ bộc lộ năng khiếu và từ đó bồi dưỡng thêm cho trẻ:
Bất kì ai cũng vậy khi thực hiện những hoạt động mang tính chất “sở trường” thì
cũng sẽ tự tin ở bản thân hơn. Do vậy, tôi luôn thử và quan sát cá nhân từng trẻ ở
nhiều lĩnh vực để tìm ra sở trường của trẻ từ đó khen ngợi củng cố niềm tin nơi
trẻ. Truyền cho trẻ một tư tưởng rằng mỗi người đều có những điểm mạnh riêng,

ai cũng có sở trường của mình, vấn đề chỉ là trẻ đã tìm ra nó hay chưa thôi, chỉ
cần luôn cố gắng nỗ lực thì sẽ đến lúc tìm được ra sở trường cho mình. Tôi có
thể lấy vài ví dụ điển hình để khích lệ trẻ.
Ví dụ: Với trẻ có giọng nói hay, tôi sẽ hướng trẻ nhiều hơn vào các hoạt
động mà giọng nói chiếm ưu thế như tập cho trẻ đọc thơ, đóng kịch. Hay, cho trẻ
tham gia hoạt động đòi hỏi tố chất và kỹ năng cao hơn như cho trẻ tập làm MC
dẫn chương trình. Chỉ trong nửa đầu năm học 2017-2018 tôi đã hướng dẫn thành
công cho 4 MC nhí của lớp Hoa Phượng 3 tự tin lên dẫn các chương trình văn
nghệ của nhà trường, và theo định hướng của bản thân, tôi dự định cho thêm các
trẻ khác trong lớp có năng khiếu sẽ làm MC trong các chương trình văn nghệ
tiếp theo do nhà trường tổ chức.
Với trẻ có khả năng vẽ đẹp, tôi tạo nhiều cơ hội ở lớp để trẻ được thể hiện
sở trường của mình như vẽ tranh mẫu treo trong “góc nghệ thuật” của lớp, treo
trang trí khu vực cầu thang của trường, cho trẻ trang trí lớp cùng cô... Đồng thời
trao đổi với phụ huynh cho trẻ tham gia các lớp ngoại khóa để nâng cao tài năng
cho trẻ….

9


Hình ảnh trẻ lớp Hoa phượng 3 khi tham gia đóng kịch “Cáo, thỏ, gà trống”
10


Hình ảnh trẻ lớp Hoa Phượng 3 hào hứng chuẩn bị tiết mục văn nghệ
cho chương trình hội diễn kỉ niệm ngày 30/4/2018 sắp tới của nhà trường
+ Một số hoạt động khác khích lệ sự tự tin:
Tôi tổ chức cho trẻ những buổi thuyết trình, thảo luận để trẻ bộc lộ chính
kiến, thể hiện mình trước các bạn.
Ví dụ: Tôi có thể cho trẻ giới thiệu về bản thân mình, hỏi trẻ “Con thích

điều gì nhất, vì sao ?”, “Con thích làm gì nhất, vì sao ?”, “Tại sao con lại thích
làm công việc con vừa chọn mà lại không thích làm công việc giống như bạn
A ?”. Hay, tôi có thể đưa ra một số tình huống và hỏi trẻ “Nếu gặp phải tình
huống như vậy con sẽ làm gì ?”…….
Ở những buổi thảo luận này tôi sẽ đưa ra nhiều câu hỏi, nhiều tình huống
để trẻ thể hiện chính kiến của mình. Hoặc sử dụng những câu hỏi gắn với thực tế
của trẻ như: “Con hãy kể những việc con muốn tự làm”, “Con học cách làm này
như thế nào?”, “Hãy kể những việc con tự làm”, “Khi tự làm con cảm thấy như
thế nào?”. Qua hoạt động trò chuyện đó giúp trẻ hiểu rằng khi trẻ tự tin là khi trẻ
mạnh dạn nói, làm, thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình với mọi người.
Cho trẻ tự làm những việc làm vừa sức trẻ như tự lấy đồ dùng học tập, tự
lấy và cất chăn, gối,…Đôi khi tôi thử trẻ bằng một số việc cao hơn sức trẻ một
chút như bê giá cốc và khuyên trẻ lại nhờ thêm một bạn nữa hỗ trợ để dạy trẻ
cách nhờ sự giúp đỡ của người khác khi cần thiết. Tuy nhiên trước khi thực hiện
chúng ta phải lường trước những khó khăn trẻ gặp phải để đảm bảo tính an toàn
cho trẻ.
* Biện pháp: “Hình thành kỹ năng giao tiếp”
Giao tiếp đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, ngay từ khi
còn nhỏ kỹ năng này đã phải được thiết lập, được nâng cao, rèn rũa từng bước
một. Trẻ phải học cách làm chủ ngôn ngữ, học cách tin vào mình và can đảm để
11


khám phá thế giới rộng lớn xung quanh, học cách nhận biết và điều chỉnh cảm
xúc. Đây là nhiệm vụ khá phức tạp đối với trẻ. Để giáo dục tốt cho trẻ nội dung
này tôi thực hiện 1 số biện pháp như sau:
+ Phát triển ngôn ngữ cho trẻ:
Nếu bạn không biết ngoại ngữ hoặc biết rất ít vốn từ của thứ tiếng đó thì
bạn có đủ tự tin bước ra nói chuyện với người nước ngoài không? Tôi khẳng
định là không. Vậy nên để trẻ tự tin trong giao tiếp việc nên làm đầu tiên của

chúng ta là cung cấp cho trẻ một lượng vốn từ đa dạng phong phú, kỹ năng giao
tiếp cơ bản và không gì hơn là chúng ta cho trẻ được cùng đồng hành trong các
bài học trên lớp, cho trẻ được chơi, được khám phá, được trò chuyện, được thảo
luận,…Tất cả các hoạt động đó đều giúp trẻ tích lũy thông tin và phát triển và
hoàn thiện dần ngôn ngữ ở trẻ, đây chính là tiền đề cho mọi kỹ năng kỹ xảo
trong giao tiếp.
Ví dụ: Thường thì cứ 2 hai tuần tôi lại tổ chức một buổi trò chuyện cho trẻ
trong 20 phút với tên gọi “câu chuyện của tôi” để trẻ lên kể về bản thân mình, về
những câu chuyện xảy ra xung quanh trẻ.
+ Đa dạng hóa các hoạt động các môi trường mà trẻ được tham gia: tôi
thường xuyên tổ chức các hoạt động tập thể cho trẻ trong lớp như tổ chức sinh
nhật, biểu diễn văn nghệ tổng hợp cuối chủ đề, hoạt động góc…để các trẻ được
làm việc theo nhóm với nhau. Trong quá trình hoạt động luôn khuyến khích trẻ
giao tiếp thỏa thuận với bạn cùng chơi, biểu lộ mong muốn một cách thích hợp,
biết giúp đỡ bạn trong khi chơi. Vì nếu trẻ tương tác với nhau một cách phù hợp,
trẻ sẽ học được các quy tắc ứng xử trong xã hội.
+ Dạy trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành vi của mình:
Khi bất hòa với bạn khác tôi thường chỉ cho trẻ thấy trẻ chưa đúng ở điểm nào,
điểm nào cần khắc phục và điểm tốt nào cần phát huy. Cho trẻ thấy những mối
bất hòa thường dẫn đến những cảm xúc tiêu cực như tức giận, sợ hãi, còn nếu
chơi đoàn kết với bạn sẽ tạo nên những tình cảm tốt đẹp và tinh thần thoải mái,
vui vẻ…
Ví dụ: Khi hai trẻ tranh giành đồ chơi dẫn đến đánh nhau. Thay vì quát
mắng chê trách trẻ. Tôi gọi hai trẻ lại hỏi lý do để trẻ có cơ hội bộc lộ quan điểm
của mình, lắng nghe trẻ giải thích. Sau đó hỏi trẻ “đánh nhau như vậy xong con
cảm thấy thế nào ? có vui hơn không ? có bớt bực mình không ?” Từ đó giải
thích cho trẻ đánh nhau không giải quyết được vấn đề gì cả mà chỉ thêm bực
mình, bạn cũng đau mà mình cũng đau. Vấn đề còn lại là giải quyết món đồ
chơi. Nói với trẻ rằng cô giáo cho trẻ chơi đồ chơi là để trẻ vui, nhưng chính
món đồ chơi đó lại là nguyên nhân gây cho hai bạn mất vui, mất đoàn kết. Đề

nghị hai trẻ đưa ra cách xử lý phù hợp với món đồ chơi đó. Có nên cất đi
không ? Nếu không thì nên làm gì để cùng chơi vui vẻ?
Tôi thường định hướng và cho trẻ tự tìm ra cách giải quyết, sau đó kết
luận lại cho trẻ hiểu để từ đó trẻ học cách kiểm soát xung đột và điều chỉnh hành
vi của mình.
+ Dạy trẻ cách giải quyết vấn đề: Với mỗi tình huống khó khăn gặp phải
sẽ có tác dụng giúp trẻ lĩnh hội được kinh nghiệm sống thông qua việc tìm cách
giải quyết vấn đề đó. Cho nên với mỗi tình huống xảy ra hàng ngày tôi đều tận
12


dụng cho trẻ quan sát và gợi ý để trẻ tìm ra cách giải quyết một cách nhanh
chóng và hiệu quả nhất.
Ví dụ: khi trẻ làm lăn đồ dùng vào gầm tủ mà tay không với tới được, tôi
gợi ý để trẻ biết dùng gậy để lấy đồ dùng đó ra…
*Biện pháp: “ Hình thành kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm”
Hình thành kỹ năng làm việc theo nhóm ngay từ khi còn nhỏ là vô cùng
quan trọng cho trẻ bởi con người là một hạt nhân của cả một cộng đồng. Khi
cùng hợp tác làm việc theo nhóm trẻ sẽ hiểu được sức mạnh của tập thể, hiểu
được có rất nhiều việc một cá nhân không thể làm được mà khi mọi người cùng
hợp tác, cùng chung sức sẽ hoàn thành tốt công việc, đồng thời khi tham gia như
vậy trẻ có cơ hội hòa đồng cùng bạn bè, cùng chia sẻ, cùng hợp tác… Tạo được
rất nhiều suy nghĩ tích cực ở trẻ. Vì vậy, để giáo dục kỹ năng hợp tác cho trẻ tôi
luôn tạo cơ hội cho trẻ chơi và làm việc theo nhóm với các trẻ khác trong tất cả
các hoạt động.
Ví dụ: Trước khi cho trẻ chơi hoạt động góc, thay vì đến buổi chơi mới
phân vai, tôi chọn một buổi trước đó cho trẻ cùng nhau ngồi thảo luận phân vai
chơi, tự phân tích điểm mạnh, chưa mạnh của cá nhân và của bạn. Từ đó đưa ra
kết luận nhận vai chơi cụ thể. Cô giáo sẽ theo sát buổi thảo luận và có gợi ý,
định hướng nếu trẻ bị vướng mắc hay lung túng. Khi trẻ tham gia hoạt động này,

đòi hỏi trẻ phải vận dụng cùng lúc nhiều kỹ năng, trẻ biết tự thỏa thuận, biết điều
chỉnh cảm xúc khi cần, biết đặt mình vào vị trí một cá nhân đang hoạt động
nhóm….
- Tổ chức nhiều trò chơi, hoạt động mang tính hợp tác, Ví dụ:
+ Trò chơi “chuyển gạch xây nhà”: Cho trẻ tập làm một mô hình nhà bằng
gạch nhựa. Khi trẻ đã biết cách xây nhà bằng gạch. Tổ chức cho trẻ chơi theo
đội. Trẻ sẽ vận chuyển từng viên gạch bằng cách hai bạn đứng sát vào nhau, 1
bạn trong đội đại diện đặt viên gạch đó lên vai hai bạn, nhiệm vụ của hai bạn là
vận chuyển viên gạch đó về vị trí xây nhà để một bạn khác đại diện cho đội xây
thành 1 ngôi nhà hoàn chỉnh. Có thể chia làm 2 hoặc 3 đội chơi. Trẻ tự thỏa
thuận phân vai phù hợp với sở trường. Đội nào xây xong nhà thì sẽ nhận giải
thưởng có tên “Đội chơi đoàn kết”. Cuối buổi chơi tôi giáo dục trẻ về sức mạnh
của sự hợp tác và khi phân công chức năng nhiệm vụ phù hợp sẽ đạt hiệu quả
cao trong công việc, và giúp trẻ hiểu rằng bất kỳ “mắt xích” nào trong nhóm
cũng đều rất quan trọng.
+ Cho trẻ đóng kịch: Lựa chọn nội dung truyện trong chương trình giáo
dục mầm non mang ý nghĩa hợp tác như : “Nhổ củ cải”, “đôi bạn tốt” …
- Sau khi trẻ tham gia chơi tôi thường trò chuyện với trẻ có sử dụng câu
hỏi như “Con và bạn đã cùng nhau làm những việc gì?”, “Trò chơi nào con
thích hơn khi có bạn cùng chơi?”, “Tại sao con phải hợp tác với bạn, một mình
con có làm được việc này không?”, “Điều gì con cảm thấy vui khi hợp
tác?”....Qua việc trò chuyện giúp trẻ hiểu hợp tác là có nhiều người cùng thực
hiện 1 việc gì đó, cùng vui thích khi làm việc.
Sau đây là một số hình ảnh trẻ tham gia các hoạt động tập thể:

13


Hình ảnh các bé trường mầm non Hoa Mai tham gia “hội khỏe bé mầm non”
*Biện pháp: “ Hình thành kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc bản thân”

Tự phục vụ chăm sóc bản thân là một trong những kỹ năng quan trọng,
thúc đẩy trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Kỹ năng tự phục vụ và chăm sóc
bản thân bao gồm cả thể chất và tinh thần, từ những việc làm đơn giản đến phức
tạp, để hình thành những thói quen và lối sống tốt đẹp cho trẻ. Khi trẻ biết tự
phục vụ chăm sóc bản thân, trẻ có thể dễ dàng thích nghi với môi trường sống
xung quanh. Vì vậy, tôi tổ chức những buổi dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ, tôi chia
nhỏ các kỹ năng, mỗi buổi chỉ dạy trẻ 1 đến 2 kỹ năng tùy vào độ khó. Cụ thể,
tôi “dẫn dắt” trẻ về tầm quan trọng của kỹ năng tự phục vụ, chăm sóc bản thân
thông qua các hoạt động để trẻ tự ý thức về bản thân
14


Ví dụ: Hoạt động “soi gương”: Giúp trẻ tự quan sát, cảm nhận về hình
dáng của mình bằng cách cho trẻ tự ngắm mình trong gương với các động tác
như làm điệu, đội mũ, mặc quần áo…Lúc đó tôi có thể hỏi trẻ: “Con thấy ai
trong gương”, “Người trong gương có đáng yêu không?”, “Để có khuôn mặt
sạch sẽ, trang phục ngay ngắn như vậy thì ta làm thế nào ?”
Từ những dẫn dắt đó tôi giúp trẻ hào hứng hơn trong các hoạt động tự
phục vụ chăm sóc bản thân, sau đó tôi dạy trẻ lần lượt từng lĩnh vực như :
- Vệ sinh cá nhân: Quy trình rửa tay, đánh răng, rửa mặt, giới thiệu với trẻ
cách tự gội đầu và tự tắm cho trẻ, chải tóc, tự buộc tóc (bạn nữ)…
- Trang phục : Dạy trẻ cách mặc quần áo, đi tất, đi giày, đội mũ bảo hiểm,
gấp quần áo, cách chọn trang phục mặc phù hợp thời tiết
- Ăn uống : Dạy trẻ các kỹ năng trong ăn uống như biết tự xúc ăn không
làm rơi vãi, biết cách sử dụng đũa
- Một số kỹ năng khác: Cách quét nhà, cách rửa bát (điều này tôi đã ứng
dụng trực tiếp dạy con và thực tế con tôi biết rửa bát từ 5 tuổi và chưa từng làm
vỡ hay làm hỏng nên tư vấn cho bố mẹ động viên khuyến khích con làm ) ……
Ngoài ra, tôi thường lồng ghép giáo dục về tầm quan trọng của việc tự
phục vụ trong các bài học giáo dục của các hoạt động khác có liên quan.

Bên cạnh việc dạy trẻ ở trường, tôi cũng chú trọng đến việc trao đổi với
phụ huynh để cùng phối hợp dạy kỹ năng sống cho trẻ, cho trẻ thực hành một số
kỹ năng mà cô đã dạy nhưng trẻ chưa có điều kiện thực hành tại trường.
Tổ chức những trò chơi, những cuộc thi đua, khích lệ trẻ làm tốt công việc
tự phục vụ chăm sóc bản thân như thi ai đi tất nhanh, ai gấp quần áo nhanh nhất,
người gấp quần áo đẹp nhất...
*Biện pháp: “ Hình thành kỹ năng học tập”
Mặc dù những kiến thức mà trẻ học ở trường mầm non chỉ là sơ đẳng
nhưng có vai trò rất quan trọng, là nền tảng vững chắc cho việc học văn hóa ở
trường phổ thông sau này. Trong mỗi hoạt động tôi đều xác định cụ thể mục tiêu,
hướng dẫn cụ thể nội dung, gợi ý cách thực hiện và cho trẻ trao đổi cách thực
hiện với các bạn để trẻ tìm ra cách thực hiện của riêng mình, đồng thời tôi cũng
khuyến khích và tuyên dương kịp thời sự sáng tạo của trẻ, giúp đỡ những trẻ
thực hiện kém, động viên trẻ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao với tâm
trạng thoải mái và hứng thú nhất.
Ví dụ: Trong hoạt động tạo hình vẽ phương tiện giao thông (tiết đề tài).
Tôi cho trẻ quan sát và nhận xét một số tranh vẽ phương tiện giao thông đã
chuẩn bị trước để gợi ý cách vẽ cho trẻ. Trong quá trình trẻ thực hiện tôi bao
quát để kịp thời tuyên dương những trẻ có sáng tạo như biết vẽ thêm các chi tiết
trang trí cho bức tranh, đồng thời giúp đỡ những trẻ chưa biết cách thực hiện
hoàn thành sản phẩm của mình.
Kết quả là đa số trẻ lớp tôi đã có ý thức trách nhiệm, có kỹ năng thiết lập
và thực hiện mục tiêu trong tất cả các hoạt động, nhất là trong các hoạt động học
có chủ đích.
* Biện pháp: “Hình thành kỹ năng phòng tránh, thoát khỏi nguy hiểm”
Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người nhiều tiện ích, sự
thoải mái nhưng đồng thời tiềm ẩn càng nhiều hơn những mối nguy hiểm, đặc
15



biệt là đối với trẻ. Những trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết cách làm thế
nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới trong phạm vi an
toàn. Trước đây, với những nội dung dạy trẻ nhận biết một số nguy cơ không an
toàn và cách phòng tránh thì giáo viên thường giáo dục trẻ thông qua bài học
giáo dục khi dạy các hoạt động có chủ đích như qua các bài thơ, bài hát, câu
chuyện, nhưng thực tế trong chương trình có rất ít bài có nội dung đó, trong khi
đó nguy hiểm có thể xảy ra với trẻ thì vô cùng nhiều, thậm trí còn khó lường hết
được. Vì vậy ngoài việc áp dụng giáo dục thông qua các tiết học tôi thường đưa
ra các tình huống giả định để dạy trẻ biết cách nhận biết, phòng tránh những
nguy hiểm xảy ra với trẻ như: “Con sẽ làm gì ?” nếu:
- Thấy có đám cháy
- Phát hiện có người lạ vào nhà khi bố mẹ đi vắng
- Bị lạc bố mẹ
- Đang ở nhà một mình mà có người đến gọi mở cửa xin vào
- Người không quen biết cho quà lúc không có bố mẹ ở đó
- Đang đi trên một đoạn đường vắng thì có người tiến lại chặn đường ...
Từ đó phân tích và hướng dẫn cho trẻ cách xử lý phù hợp. Ví dụ như
trong tình huống người lạ cho bé quà, trong thực tế các bé rất thích nhận quà và
không hiểu vì sao lại không được nhận, tôi đặt ra cho bé câu hỏi “Vì sao lại
không được nhận quà ?” để bé suy luận trước. Tiếp đó khi thảo luận tôi sẽ đưa ra
tình huống giả định Nếu đó là người tốt thì sẽ không sao, nhưng nếu không may
là người xấu thì có thể họ đã tẩm thuốc mê vào kẹo hoặc cho kẹo để con cảm
thấy tin tưởng và có điều kiện thực hiện những việc xấu, lúc này trẻ rất dễ bị
trúng mưu kẻ xấu. Trong khi đó việc phát hiện là người tốt hay kẻ xấu là việc rất
khó, hầu như không thể biết được. Vậy nên giáo dục dạy trẻ không nên nhận quà
của người lạ khi không có mặt bố mẹ.
Ngoài ra, do tính chất công việc cũng như điều kiện của mỗi gia đình,
việc tự chơi của trẻ là rất phổ biến. Trong quá trình chơi trẻ gặp phải những
nguy hiểm từ những đồ vật trong gia đình như phích nước, ổ điện, bếp ga, đồ
dùng nhà bếp, cầu thang và những đồ vật nhỏ. Tôi thường dạy để trẻ phân biệt

được đâu là đồ chơi, đâu là đồ dùng trong gia đình, đâu là đồ vật an toàn và đồ
vật không an toàn.
3.5. Một số hoạt động lễ hội nhằm phát triển kỹ năng sống cho trẻ ở
trường mầm non Hoa Mai
Hiểu được tầm quan trọng của việc được tham gia các trò chơi các ngày
hội đối với sự phát triển kỹ năng sống cho trẻ nên trong năm qua nhà trường đã
liên tục tổ chức những ngày hội mang lại thành quả rất lớn trong việc giáo dục lễ
giáo và kỹ năng cho trẻ. Điển hình như:
- Tổ chức “Hội chợ xuân”
Trẻ được trực tiếp tham gia các hoạt động của lễ hội như được chơi các
trò chơi dân gian, được trực tiếp tham gia đóng vai làm người mua và người bán
hàng, được tham gia làm đồ dùng đồ chơi, làm những sản phẩm, tặng phẩm nhỏ
cùng cô giáo, được tham gia tập gói bánh trưng, làm bánh nhãn, …. Và rất nhiều
hoạt động nữa giúp trẻ tăng thêm vốn kinh nghiệm về bài học kỹ năng cho mình.
16


Sau đây là một số hình ảnh trẻ háo hứng tham gia các hoạt động tại “Hội
chợ xuân”:

- Tổ chức “ngày hội xanh” với vô cùng nhiều những hoạt động giáo dục
trẻ bảo vệ môi trường như vệ sinh trường lớp, tham gia hát, kể chuyện, trò chơi
và đóng các vở kịch mang nội dung tuyên truyền về rác thải và vấn đề ô nhiễm
môi trường, ngoài ra trẻ còn được trực tiếp tham gia làm các đồ dùng và trang
phục thời trang đẹp mắt từ nguyên vật liệu phế thải.

Cô và trẻ tham gia trình diễn trang phục làm từ nguyên vật liệu phế thải
- Tổ chức ngày hội “ Hoa Mai chung sức đua tài”:
17



Chương trình đã huy động được hơn 200 trẻ lên sân khấu biểu diễn các
tiết mục vô cùng chuyên nghiệp ở tất cả các lĩnh vực năng khiếu như múa, đàn,
hát, khiêu vũ, dẫn chương trình…

Một số hình ảnh cô và cháu trường MN Hoa Mai tham dự
lễ hội “Hoa Mai chung sức đua tài”- chào mừng ngày 8/3
Nhà trường đã mời toàn bộ phụ huynh học sinh cùng tham gia các chương
trình, đồng thời lồng ghép cung cấp thêm thông tin cần thiết và bổ ích cho các
18


bậc làm cha làm mẹ. Điều này đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ đông
đảo phụ huynh nhà trường. Từ đó tuyên truyền đến phụ huynh và phối hợp để
cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.

Hình ảnh các bậc phụ huynh tham dự hoạt động lễ hội cùng cô và cháu
trường mầm non Hoa Mai
3.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ:
Để trẻ hứng thú khi học kỹ năng sống tôi đã sử dụng công nghệ thông tin
để cuốn hút trẻ. Cụ thể:
Tải những nguồn thông tin cần thiết trên mạng về phục vụ cho bài giảng
về kỹ năng sống như những hình ảnh, những đoạn video, những bài hát, bài thơ
có liên quan đến giáo dục kỹ năng sống. Hiện nay đã có một số video clip rất
hay dạy kỹ năng sống cho trẻ đã có đăng tải trên mạng, tôi đã sử dụng những
video này trong việc dạy một số kỹ năng bằng cách tôi đưa ra những câu hỏi tình
huống cho trẻ tự tìm cách giải quyết, sau đó cho trẻ xem video, đồng thời tôi
giảng giải thêm để trẻ hiểu sâu hơn và có những phương án bổ sung thêm hướng
giải quyết vấn đề nếu cảm thấy phù hợp. Đây cũng chính là cách tôi đa dạng hóa

hình thức dạy trẻ, tạo hứng thú cho trẻ đồng thời tiết kiệm được thời gian chuẩn
bị bài giảng, để dành thời gian đó chuẩn bị những bài giảng kỹ năng khác.
Sử dụng kỹ năng làm Powerpoint để làm cho bài giảng thêm sinh động
19


3.7. Tuyên truyền, phối hợp với phụ huynh cùng dạy kỹ năng sống
cho trẻ ở môi trường gia đình
Là những nhà giáo dục, được đào tạo chuyên ngành một cách bài bản nên
giáo viên hiểu rõ về đặc điểm tâm lý của trẻ do vậy sẽ thuận lợi trong việc giáo
dục trẻ. Tuy nhiên với phụ huynh, mỗi người làm một công việc, một vị trí, một
sự quan tâm khác nhau đến trẻ thì sự thấu hiểu của họ đến tâm lý trẻ là không
giống nhau. Do vậy, để đạt hiệu quả giáo dục cao nhất, ta phải tuyên truyền để
phụ huynh nắm được một số đặc điểm tâm lý, những loại kỹ năng cơ bản cần
dạy trẻ cũng như cách thức giáo dục kỹ năng sống cho trẻ . Điều này sẽ giúp phụ
huynh thuận lợi hơn trong việc cùng kết hợp với nhà trường giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ. Ví dụ như giáo viên phải làm rõ để phụ huynh hiểu và cùng thực
hiện theo một số nguyên tắc sau:
Do đặc thù lứa tuổi, trẻ học chủ đạo thông qua việc bắt chước hành vi. Vì
vậy, để đạt hiệu quả giáo dục tốt nhất không gì hơn là người lớn xung quanh trẻ
phải “làm gương”, phải luôn gương mẫu, yêu thương và tôn trọng trẻ. Ví dụ:
Nếu muốn trẻ gọn gàng ngăn nắp, thay vì chỉ nhắc nhở trẻ, người lớn phải làm
gương sáng cho trẻ, khuyến khích trẻ để trẻ học hỏi và bắt chước theo. Đặc biệt,
không nên làm hộ con, phải dạy trẻ tính tự lập, trẻ càng được hướng dẫn sớm về
cách đối mặt với khó khăn, cách xử lý tình huống để vượt qua khó khăn thì sẽ
càng vững vàng hơn.
Dù bận đến mấy thì vẫn phải cố gắng sắp xếp thời gian dành cho trẻ, vui
chơi, trò chuyện,.. cùng trẻ, để hiểu trẻ và tạo sự kết nối giữa trẻ với bố mẹ. Từ
đó sẽ thuận lợi hơn trong việc giáo dục trẻ.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi về không gian, thời gian cho trẻ được hoạt

động, được khám phá. Nhất là trong môi trường hoạt động của trẻ nên có bạn
bè, giúp trẻ có điều kiện tương tác, được học nhiều hơn những bài học về kỹ
năng sống, vì “Học thầy không tày học bạn”.
4. Hiệu quả của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Từ khi áp dụng những sáng kiến kinh nghiệm trên, cùng với sự cố gắng
nỗ lực của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của tập thể sư phạm và sự ủng hộ
tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy
trẻ lớp mình các kỹ năng sống cơ bản như sau:
4.1. Kết quả trên trẻ:
Sau quá trình tác động đồng bộ các biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ,
kết quả cho thấy có sự khác biệt ý nghĩa về mức độ phát triển kỹ năng sống của
trẻ. Ví dụ: Đa số trẻ trở nên tự tin khi nói về khả năng và sở thích của mình,
mạnh dạn hơn nhiều khi nói về bản thân và gia đình, đề xuất những trò chơi, hay
diễn đạt về những sự hiểu biết của mình một cách thoải mái, tự nhiên, lưu loát
hơn; về mặt thực hiện các thao tác trẻ cũng biểu lộ sự thoải mái, nhanh nhẹn,
gọn gàng hơn; Trẻ có kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc của
mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày. Điều
20


này chứng tỏ tính tích cực và hiệu quả của các biện pháp rèn luyện kỹ năng sống
cho trẻ mầm non tôi đã thử nghiệm.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRÊN TRẺ SAU KHI ÁP DỤNG SKKN
Lĩnh vực
khảo sát

Trước khi áp dụng
Trẻ chưa
Trẻ đạt
đạt


Sau khi áp dụng
Trẻ chưa
Trẻ đạt
đạt

So
sánh

Kỹ năng tự tin

23 = 63.9%

13 = 36.1%

32 = 88.9%

4 = 11.1%

25%

Kỹ năng giao tiếp

23 = 63.9%

13 = 36.1%

31 = 86.1%

5 = 13.9%


22.2
%

26 = 72.2 %

10 = 27.8 %

33 = 91.7%

3 = 8.3%

19.5
%

22 = 61.1%

14 = 38.9 %

32 = 88.9%

4 = 11.1%

27.8
%

19 = 52.8%

17 = 47.2 %


31 = 86.1%

5 = 13.9%

33.3
%

Kỹ năng hợp tác
và làm việc theo
nhóm
Kỹ năng tự phục
vụ và chăm sóc
bản thân
Kỹ năng học tập

Kỹ năng phòng
33.4
tránh và thoát khỏi 17 = 47.2% 19 = 52.8% 29 = 80.6% 7 = 19.4 %
%
nguy hiểm
(Lưu ý: Tỷ lệ phần trăm ở cột so sánh chính là tỷ lệ phần trăm tăng lên sau khi
áp dụng so với trước khi áp dụng)
4.2. Kết quả từ phía các bậc cha mẹ và giáo viên
* Về phía các bậc cha mẹ
Có nhiều sự chuyển biến tích cực từ phía phụ huynh như : Phụ huynh
quan tâm chăm sóc giáo dục trẻ hơn trước; tin tưởng vào kết quả giáo dục của
nhà trường; thông cảm và chia sẻ những khó khăn của cô giáo; đồng thời tích
cực tham gia các hoạt động của nhà trường.
Phối hợp chặt chẽ với cô giáo để cùng chăm sóc và giáo dục trẻ, đặc biệt
là trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ.

* Về phía giáo viên
Cô giáo chịu khó trò chuyện với trẻ, trả lời những câu hỏi vụn vặt của trẻ,
không la mắng, giải quyết hợp lý, công bằng những tình huống xảy ra giữa các
trẻ trong lớp.
Trong giảng dạy, chú ý đến hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm nhiều
hơn.
Phối hợp chặt chẽ, trao đổi thường xuyên với cha mẹ trẻ.
21


Bản thân chủ động trong việc xây dựng và thực hiện đúng kế hoạch, thực
hiện nghiêm túc, có hiệu qủa công việc được giao.
III - KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Kĩ năng sống thực sự cần thiết với trẻ, giáo dục kĩ năng sống cho trẻ
nhằm giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết những điều nên làm và
không nên làm, góp phần giáo dục toàn diện nhân cách của trẻ. Để làm tốt nội
dung giáo dục kĩ năng sống cho trẻ, đòi hỏi giáo viên phải có lòng yêu nghề,
mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt phải có vốn kiến
thức, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh hoạt những phương pháp,
biện pháp, thủ thuật đề ra. Để hình thành tốt kỹ năng sống cho trẻ phải có một
quá trình nghiên cứu và tác động sư phạm lâu dài, bởi vì cho dù ở đâu, từ thành
phố đến nông thôn, miền núi hay hải đảo xa xôi. Trẻ em khi sinh ra đều như tờ
giấy trắng, nó chỉ có thể trở thành con người hoàn thiện khi người lớn hướng
dẫn, tác động vào nó một cách toàn diện. Người lớn phải tạo điều kiện cho trẻ
tiếp xúc với thế giới xung quanh, tắm mình trong thế giới đó, để rồi từ đó trẻ có
những hiểu biết nhất định về kĩ năng sống.
Qua việc nghiên cứu “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ mẫu
giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Hoa Mai đạt kết quả cao”, tôi nhận thấy rằng trẻ
rất thích, hứng thú, và có khả năng giao tiếp tự tin. Từ đó có thể đề ra và vận

dụng những biện pháp phù hợp với khả năng hình thành kỹ sống của trẻ. Xuất
phát từ quan điểm đổi mới giáo dục “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”, cô giáo khuyến khích trẻ tò mò, sáng tạo trong mọi hoạt động. Mỗi
giờ hoạt động tổ chức sao cho nhiều trẻ được tham gia. Cô giáo là người khơi
gợi, truyền đạt kĩ năng sống đến cho trẻ. Điều cần làm là người lớn phải là tấm
gương sáng, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an toàn
cho trẻ; Việc học của trẻ nếu luôn đựơc người lớn khuyến khích, chia sẻ thì trẻ
sẽ tự tin vào năng lực của bản thân và chúng thường hy vọng vào tương lai
nhiều hơn.
Nhân cách, ý chí, tình cảm của trẻ được hình thành thông qua chơi, chơi
để “lớn lên”. Vì thế, ngừơi lớn cần tạo cơ hội để trẻ chơi, từ đó giúp trẻ tìm ra
nhiều cách học khác nhau, những kinh nghiệm trẻ nhận được trong các trò chơi
là nền tảng tạo nên sự hăng hái học tập lâu dài ở trẻ, bởi trẻ nhận ra rằng, học
vừa vui mà vừa có ý nghĩa. Đồng thời, khi trẻ tham gia vào trò chơi, trẻ cần biết
lập kế hoạch chơi, sáng tạo với các cách chơi và cố gắng đạt mục đích đây chính
là những kỹ năng cơ bản để trẻ sống và làm việc sau này.
2. Kiến nghị
Tôi mong rằng việc tổ chức bồi dưỡng cho cán bộ giáo viên hiểu hơn về
giáo dục rèn kĩ năng sống và tầm quan trọng khi hình thành kĩ năng sống cho trẻ
sẽ tiếp tục được duy trì và càng ngày càng được chú trọng hơn nữa.

22


Triển khai đưa tiết dạy giáo dục kỹ năng sống thành tiết dạy độc lập trong kế
hoạch giảng dạy và mang tính đồng bộ ở phạm vi rộng, chứ không chỉ là một bộ
môn năng khiếu, giảng dạy mang tính chất lồng ghép và nhỏ lẻ cá nhân nữa.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân về “giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ mầm non”. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo và
các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Lê Thị Toàn

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác.
Người viết

Lê Thị Xuân

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Tài liệu tâm lý học trẻ em
- Chương trình giáo dục trẻ mầm non
- Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ từ 5 - 6tuổi.
- Bồi dưỡng thường xuyên
- Tạp chí giáo dục mầm non
- Sách “Bí quyết làm trỗi dậy tài năng trong con bạn” của tác giả Adam
Khoo Gary Lee
- Phương pháp giáo dục con của người Do Thái của tác giả Trần Hân
- Các trang web

24



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP DẠY KỸ NĂNG SỐNG CHO
TRẺ MẪU GIÁO 5 - 6 TUỔI TRƯỜNG MẦM NON
HOA MAI ĐẠT KẾT QUẢ CAO

Người thực hiện: Lê Thị Xuân
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Hoa Mai
Thành phố Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018
25


×