Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số giải pháp giúp học sinh giải tốt toán chuyển động đều lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.76 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HỌC SINH
GIẢI TỐT TOÁN CHUYỂN ĐỘNG ĐỀU LỚP 5

Người thực hiện: Lê Thị Duyên
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Đông Cương
SKKN thuộc lĩnh mực (môn): Toán

THANH HOÁ NĂM 2018
1


Mục lục
Trang
1.Mở đầu
1.1.Lí do chọn đề tài
1.2.Mục đích nghiên cứu
1.3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm.
2.2.1. Thực trạng dạy của giáo viên
2.2.2. Thực trạng học của học sinh


2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Cho học sinh nhận biết các yếu tố của bài toán
2.3.2. Giải pháp 2: Phân loại bài toán chuyển động đều
2.3.3. Giải pháp 3: Hình thành và phát triển các năng lực quan
sát, ghi nhớ, tưởng tượng, tư duy cho học sinh thông qua các
bài toán
2.3.4. Giải pháp 4: Giúp học sinh nắm được quy trình thực
hiện khi giải toán dạng chuyển động đều
2.3.5. Giải pháp 5: Hướng dẫn cụ thể cách giải bài toán ở
dạng toán chuyển động đều
2.3.6. Giải pháp 6: Dự kiến những sai lầm học sinh thường
mắc phải
2.4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận:
3.2. Kiến nghị:

1
1
2
2
2
2
2
3
3
3
4
4
5


5
7
10
14
17
18
18
18

2


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết, giải toán có lời văn (trong đó có dạng toán chuyển
động đều) có vai trò rất quan trọng đối với cuộc sống thực tiễn. Đó cũng là công
cụ cần thiết cho các môn học khác và để giúp cho học sinh nhận thức thế giới
xung quanh, để hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực.
Mặt khác, qua giải toán có lời văn nói chung và giải toán dạng chuyển
động đều nói riêng có khả năng giáo dục nhiều mặt như phát triển tư duy, trí tuệ,
có vai trò quan trọng trong việc rèn luyện tính suy luận, tính khoa học toàn diện,
chính xác, tư duy độc lập sáng tạo, linh hoạt, góp phần giáo dục tính nhẫn nại, ý
chí vượt khó khăn.
Từ vị trí và nhiệm vụ vô cùng quan trọng trên, vấn đề đặt ra cho người
thầy là làm thế nào để giờ dạy toán có hiệu quả cao, học sinh phát triển tính tích
cực, chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức toán học.
Song trong thực tiễn, năng lực tư duy của học sinh tiểu học có sự khác
biệt ở cùng một lứa tuổi, cùng học một chương trình như nhau nhưng hoạt động
tư duy có những nét riêng đối với từng em, sự phát triển nhận thức của học sinh

cùng lứa tuổi không đồng đều, lĩnh hội kiến thức trước đó thiếu vững chắc. Các
em gặp khó khăn khi chuyển hình thức thao tác tư duy này sang hình thức thao
tác tư duy khác. Suy luận của các em thường máy móc hay dựa vào bài tương tự.
Căn cứ vào các dấu hiệu bên ngoài suy luận thường là những khẳng định không
căn cứ. Trong một chừng mực nào đó, các em có thể giải được một bài toán
bằng “ bắt chước” theo các mẫu đã có nhưng mơ hồ, thường hay sai lầm khi lập
luận tính toán. Khi giải các bài tập mới, các em thường lao vào giải bằng cách
tái hiện, máy móc, có khi không đầy đủ, khi hỏi về lí lẽ các em không giải thích
được. Đa số còn lúng túng khi trình bày lời giải. Diễn đạt bằng ngôn ngữ khó
khăn, chưa gọn ghẽ, sử dụng thuật ngữ toán học lúng túng, nhiều chỗ lẫn lộn.
Hình thức trình bày bài giải toán chưa khoa học, chưa đạt yêu cầu. Xác định
chưa đúng dạng toán dẫn đến giải sai hoặc nhầm lẫn cách giải dạng toán điển
hình này thành dạng toán điển hình khác. Vận dụng còn nhầm lẫn công thức.
Chính vì thế, để giúp học sinh hiểu và tránh được khó khăn, sai sót trong
khi giải toán có lời văn nói chung và giải các bài toán dạng chuyển động đều nói
riêng, chúng ta cần giúp học sinh nắm được từng dạng toán trong chương trình
cũng như các công thức cần sử dụng để giải quyết. Trong những năm qua, khi
giải toán dạng chuyển động đều ở lớp 5 tôi đã suy nghĩ và đưa ra những biện
pháp khắc phục ở lớp mình chủ nhiệm và với những kinh nghiệm của bản thân
đã trải nghiệm trong quá trình dạy học giúp học sinh giải toán có lời văn nói
chung, các bài toán chuyển động đều nói riêng đã mang lại nhiều khả thi.
3


Vì những lí do trên, tôi chọn đề tài “ Một số giải pháp giúp học
sinh
giải tốt toán chuyển động đều lớp 5” để các thầy cô giáo đồng nghiệp cùng
tham khảo.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Với việc vận dụng giải pháp này sẽ tạo cho các em lòng say mê tìm tòi, nghiên

cứu trong học tập, tích cực khám phá. Từ đó giúp các em lĩnh hội nội dung kiến
thức một cách tích cực, tự giác, không gò bó, áp đặt, giúp học sinh nhớ lâu, nhớ
kỹ và vận dụng linh hoạt vốn hiểu biết của mình trong cuộc sống, học tập.
- Góp phần đổi mới phương pháp dạy học môn Toán bậc Tiểu học, phát huy tính
chủ động, sáng tạo của học sinh.
1.3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu trên đối tượng học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đông
Cương.
- Đề tài được tiến hành nghiên cứu và vận dụng trong phạm vi môn Toán lớp 5.
- Nghiên cứu một số giải pháp hướng dẫn học sinh giải bài toán chuyển động
đều.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn
Toán ở bậc Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với
nội dung của số học và số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ bản và
các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải toán có lời
văn có một vị trí quan trọng trong việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy
và những đức tính tốt của con người lao động mới. Khi giải một bài toán, tư duy
của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần phân biệt cái gì đã
cho và cái gì cần tìm, thiết lập các mối liên hệ giữa các dữ kiện giữa cái đã cho
và cái phải tìm; suy luận, nêu ra những phán đoán, rút ra những kết luận, thực
hiện những phép tính cần thiết để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ

có trong việc giải toán góp phần giáo dục cho các em ý trí vượt khó khăn, đức
tính cẩn thận, chu đáo làm việc có kế hoạch, thói quen xem xét có căn cứ,
4


thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, óc
sáng tạo v.v...
Trong chương trình toán lớp 5, toán chuyển động đều được đưa vào
chính
thức là 9 tiết, trong đó có 1 tiết cung cấp khái niệm ban đầu về vận tốc, đơn vị
đo vận tốc, biết tính vận tốc của một chuyển động đều, 1 tiết giúp học sinh biết
tính quãng đường đi được của một chuyển động đều và 1 tiết giúp học sinh biết
tính thời gian của một chuyển động đều, 6 tiết luyện tập và luyện tập chung giúp
học sinh biết tính vận tốc, thời gian, quãng đường, kết hợp với việc cung cấp và
giúp học sinh giải toán chuyển động ngược chiều, toán chuyển động cùng chiều.
Còn lại là những bài toán đơn lẻ, nằm ở chương năm ôn tập trong cấu trúc
chương trình.
Bên cạnh đó việc dạy học giải toán phần chuyển động đều góp phần giúp
các em: rèn luyện kĩ năng đổi các đơn vị đo thời gian, làm các bài toán về
chuyển động, nhận biết các dạng toán chuyển động giúp các em dần dần biết so
sánh đối chiếu phân tích, tổng hợp, biết các thao tác tư duy cơ bản để hình thành
những phẩm chất trí tuệ và năng lực sáng tạo.
2.2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng dạy của giáo viên
Khi dạy giải toán về chuyển động đều, giáo viên thật sự lúng túng khi hình
thành kiến thức mới, giáo viên phải làm việc tương đối nhiều, việc tổ chức dạy
học theo tinh thần lấy học làm trung tâm chưa hiệu quả khi dạy học dạng toán
này. Chuyển sang khâu luyện tập thực hành, giáo viên vẫn phải theo dõi và giúp
đỡ rất nhiều học sinh mới hoàn thành các bài tập đúng tiến độ. Nếu không có sự
trợ giúp và hướng dẫn của giáo viên, kết quả bài làm đạt trên trung bình của học

sinh ở mức thấp so với kết quả dạy học các dạng toán khác. Đặc biệt sau khi
học xong mỗi kiểu bài mới, học sinh làm bài đạt tỉ lệ trên trung bình từ 68%
đến trên 77%, nhưng đến bài luyện tập, với sự xuất hiện đồng thời các dạng bài
nêu trên thì kết quả lại sụt giảm đáng kể, chỉ còn ở mức 54,54%. Số HS đạt
điểm khá, giỏi đang ở mức 8 đến 10 em xuống còn 6 em, số học sinh bị điểm
trung bình đang từ 5 đến 7 em đã tăng lên 10 em. Tỉ lệ học sinh làm bài luyện
tập đạt trên trung bình sau tiết luyện tập giảm từ 13,6% đến 22,7% so với sau
tiết dạy học bài mới.
2.2.2. Thực trạng học của học sinh
- Đa số học sinh xem phần giải toán có lời văn nói chung và dạng toán chuyển
động đều nói riêng là phần học khó khăn, dễ chán.
- Trình độ nhận thức của học sinh không đồng đều, một số học sinh còn chậm,
nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm
hiểu bài toán, dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính
5


còn sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các
phép tính.
- Khả năng tư duy, suy luận, liên hệ với thực tiễn của đa số học sinh còn hạn
chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên
còn chóng quên các dạng bài toán.
Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh đã vận dụng một cách máy móc bài
tập mẫu mà không hiểu bản chất của bài toán nên khi không có bài tập mẫu thì
các em làm sai. Khi chấm bài, tôi còn phát hiện, các em có sự nhầm lẫn giữa hai
dạng bài tập “Bài toán chuyển động ngược chiều” và “Bài toán chuyển động
cùng chiều”. Điều này còn thể hiện rất rõ khi học sinh gặp các bài toán đơn lẻ
được sắp xếp xen kẽ với các yếu tố khác (theo nguyên tắc tích hợp), thường là
các em có biểu hiện lúng túng khi giải quyết các vấn đề bài toán đặt ra.
Về phía giáo viên, tôi cho rằng, phần lớn là do thói quen, chủ quan, thường

hay xem nhẹ khâu phân tích các dữ liệu bài toán. Mặt khác, đôi khi còn lệ thuộc
vào sách giáo khoa thái quá nên rập khuôn một cách máy móc, dẫn đến học sinh
hiểu bài chưa kĩ, giáo viên giảng giải nhiều nhưng lại chưa khắc sâu được bài
học, thành ra lúng túng.
Đặt cho mình nhiệm vụ tháo gỡ những khó khăn trên, năm học này tôi
được giao nhiệm vụ chủ nhiệm lớp 5C, trong quá trình giản dạy tôi rút ra một
số kinh nghiệm trong việc giúp học sinh yếu học tốt các bài toán về chuyển
động đều.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải toán dạng chuyển động đều đối với học sinh là một hoạt động trí tuệ
khó khăn, phức tạp. Việc hình thành kĩ năng giải toán khó hơn nhiều so với kĩ
năng tính vì bài toán là sự kết hợp đa dạng quá nhiều khái niệm, quan hệ toán
học. Giải toán dạng chuyển động đều không chỉ là nhớ mẫu rồi áp dụng mà đòi
hỏi nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa của phép tính, đòi
hỏi khả năng độc lập suy luận của học sinh, đòi hỏi biết làm tính thông thạo.
Chính vì vậy dạy và học tốt về giải dạng toán chuyển động đều đòi hỏi người
giáo viên phải xác định rõ mục tiêu của việc dạy giải dạng toán này. Học sinh
nhận biết “ cái đã cho” và “ cái phải tìm” trong mỗi bài toán, mối quan hệ giữa
các đại lượng có trong mỗi bài toán, chẳng hạn: khi dạy toán về chuyển động
đều thì mối quan hệ đó thể hiện ở quãng đường đi bằng tích của vận tốc với thời
gian. Học sinh giải được các bài toán hợp với một số quan hệ thường gặp giữa
các đại lượng thông dụng. Học sinh giải được nột số bài toán điển hình về
chuyển động đều cùng chiều (hoặc ngược chiều). Học sinh biết trình bày bài giải
đúng quy định theo yêu cầu bài toán. Để đạt được những mục tiêu trên cần
thông qua quá trình phát triển từng bước, giáo viên cần thực hiện thường xuyên,
liên tục một số giải pháp như sau:
6


2.3.1. Giải pháp 1: Cho học sinh nhận biết các yếu tố của bài toán

Cho HS nhận rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa các đại lượng trong bài toán.
Ví dụ: Khi giải bài toán chuyển động đều, học sinh dựa vào “cái đã cho”, “cái
phải tìm” và mối quan hệ giữa các đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian
để tìm đại lượng chưa biết.
2.3.2. Giải pháp 2: Phân loại bài toán chuyển động đều
Để giải được bài toán thì HS phải hiểu đề bài, hiểu các thành phần của nó.
Những cái đã cho và những cái cần tìm thường là những số đo đại lượng nào đấy
được biểu thị bởi các phép tính và các mối quan hệ giữa các số đo. Dựa vào đó
mà có thể phân loại các bài toán.
* Phân loại theo số lượng phép tính:
- Bài toán đơn: là bài toán mà khi giải chỉ cần một phép tính. Ở lớp 5, loại bài
này thường dùng để nêu ý nghĩa thực tế của phép tính, nó phù hợp với quá trình
nhận thức.
Ví dụ: Một máy bay Bô-ing bay được quãng đường 2850 km trong 3 giờ.
Hãy tính vận tốc của máy bay ?
Từ bản chất bài toán, học sinh hình thành một phép tính.
2850 : 3 = 950 (km/giờ)
- Bài toán hợp: là bài toán mà khi giải cần ít nhất 2 phép tính trở lên. Loại bài
toán này dùng để luyện tập, củng cố kiến thức.
Ví dụ: Hai thành phố A và B cách nhau 135km. Một xe máy đi từ A đến B
với vận tốc 42km/giờ. Hỏi sau khi khởi hành 2 giờ 30 phút xe máy còn cách B
bao nhiêu km?
* Phân loại theo phương pháp giải :
Trong thực tế, nhiều bài toán có nội dung khác nhau nhưng có thể sử dụng
cùng một phương pháp suy luận để giải, vì thế có thể coi “có cùng phương pháp
giải” là một tiêu chí để phân loại bài toán có lời văn. Các bài toán có cùng
phương pháp giải dẫn đến cùng một mô hình toán học tức là cùng một dạng bài
toán.
Ví dụ 1: Một người đi xe máy trong 3 giờ đi được 105 km. Hỏi trung
bình mỗi giờ người đó đi được bao nhiêu km?

Ví dụ 2: Một người đi xe máy đi được quãng đường 105 km hết 3 giờ.
Hỏi người đó đi với vận tốc là bao nhiêu?
Như vậy, sự phân loại theo phương pháp giải chính là sự phân loại theo
mối quan hệ của những cái đã cho và những cái cần tìm trong bài toán.
2.3.3. Giải pháp 3: Hình thành và phát triển các năng lực quan sát, ghi nhớ,
tưởng tượng, tư duy cho học sinh thông qua các bài toán
- Dạy học sinh biết quan sát các mô hình, sơ đồ, từ đó cũng dễ dàng tìm ra cách
giải.
7


Ví dụ : Quãng đường AB dài 180 km. Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc
54km/giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể
từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy?
Sơ đồ:

180 km
A
Xe máy 30 km/giờ

C
Gặp nhau

B
Ô tô 40 km/giờ

- Tập cho học sinh có năng lực ghi nhớ có ý nghĩa để học thuộc và nắm vững
các quy tắc, công thức, chẳng hạn như:
*Các đại lượng thường gặp trong bài toán chuyển động đều:
- Quãng đường, kí hiệu là s; đơn vị đo thường dùng: m, km ...

- Thời gian, kí hiệu là t; đơn vị đo thường dùng là giờ, phút, giây.
- Vận tốc, kí hiệu là v: đơn vị thường dùng: km/giờ, m/phút, m/giây...
* Những công thức thường dùng trong tính toán:
s=v×t
v=s:t
t=s:v
Lưu ý:
- Trên cùng quãng đường thì vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch.
- Với cùng một vận tốc thì quãng đường tỉ lệ thuận với thời gian.
- Trong cùng thời gian thì quãng đường tỉ lệ thuận với vận tốc.
- Thời gian đi = thời gian đến - thời gian khởi hành - thời gian nghỉ (nếu có)
- Thời gian xuất phát = Thời điểm đến - thời gian đi
- Thời điểm đến = Thời điểm xuất phát + thời gian đi
Các dạng toán thường gặp
* Dạng toán hai chuyển động cùng chiều cùng lúc đuổi kịp nhau :
- Thời gian đi đuổi kịp nhau = Khoảng cách 2 xe : Hiệu vận tốc
- Chỗ đuổi kịp nhau cách điểm khởi hành = Vận tốc của xe đuổi theo × thời gian
đi đuổi kịp nhau
* Dạng toán hai chuyển động cùng chiều không cùng lúc đuổi kịp nhau:
- Tìm thời gian đi trước
- Tìm thời gian đi đuổi kịp nhau = quãng đường xe ( người ) đi trước : hiệu vận
tốc
- Thời điểm đuổi kịp = Thời điểm xuất phát+ thời gian đi đuổi kịp nhau
* Dạng toán hai chuyển động ngược chiều cùng lúc gặp nhau:
- Thời gian đi để gặp nhau = khoảng cách của 2 xe : Tổng vận tốc
- Thời điểm gặp nhau =Thời điểm xuất phát + thời gian đi để gặp nhau
8


- Chỗ gặp nhau cách điểm khởi hành = Vận tốc của một chuyển động × thời

gian đi để gặp nhau
* Dạng toán hai chuyển động ngược chiều, không cùng lúc gặp nhau :
- Tìm thời gian đi trước
- Tìm quãng đường xe đi trước: s = v × t
- Tìm quãng đường còn lại = quãng đường đã cho ( khoảng cách 2 xe) – quãng
đường xe đi trước.
- Tìm thời gian đi để gặp nhau = Quãng đường còn lại: Tổng vận tốc
Một số lưu ý khác
- ( v1 + v2 ) = s : t ( đi gặp nhau )
- s = ( v1 + v2 ) × t ( đi gặp nhau )
- ( v1 – v2 ) = s : t ( đi đuổi kịp nhau )
* Bài toán chuyển động trên sông nước
-v dòng nước = v thuyền khi nước lặng + v dòng nước
- v ngược dòng = v thuyền khi nước lặng - v dòng nước
- v dòng nước = ( v xuôi dòng - v ngược dòng ) : 2
- v thuyền khi nước lặng = v xuôi dòng - v dòng nước
- v thuyền khi nước lặng = v ngược dòng + v dòng nước
- Phát triển trí tưởng tượng của học sinh qua các bài toán có lời văn. Chẳng hạn:
Ở bài toán về chuyển động đều cùng chiều, khi 2 đối tượng chuyển động đuổi
kịp nhau thì học sinh phải biết được là đối tượng có vận tốc lớn hơn đã đi hơn
đối tượng có vận tốc nhỏ một khoảng cách đúng bằng khoảng cách ban đầu của
hai đối tượng chuyển động.
- Tập cho học sinh quen với các thao tác tư duy phân tích, tổng hợp, so sánh,
trừu tượng hoá, khái quát hóa, cụ thể hóa.
Học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ, hình vẽ là dịp để kết hợp các thao tác
trừu tượng hoá và cụ thể hoá. Trong quá trình giải bài tập, học sinh phải vận
dụng một cách tổng hợp nhiều thao tác tư duy và đây chính là mặt mạnh của
việc giải toán dạng chuyển động đều.
Ví dụ 1: Một ô tô đi được quãng đường dài 170km hết 4 giờ. Hỏi trung
bình mỗi giờ ô tô đó đi được bao nhiêu kí-lô-mét ?

Tóm tắt:
? km

170 km
Bài giải
Trung bình mỗi giờ ô tô đi được là :
170 : 4 = 42,5 ( km )
9


Đáp số : 42,5 km
2.3.4. Giải pháp 4: Giúp học sinh nắm được quy trình thực hiện khi giải
toán dạng chuyển động đều
+ Bước 1 : Tìm hiểu đề.
- Yêu cầu học sinh đọc thật kĩ đề toán, xác định đâu là cái đã cho, đâu là những
cái phải tìm.
- Hướng dẫn học sinh tập trung suy nghĩ vào những từ quan trọng của đề toán,
từ nào chưa hiểu ý nghĩa phải tìm hiểu ý nghĩa của nó.
- Hướng dẫn học sinh cần phát hiện rõ những gì thuộc về bản chất của đề toán,
những gì không thuộc về bản chất của đề toán để hướng học sinh vào chỗ cần
thiết.
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt đề bằng sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu, ngôn ngữ ngắn
gọn. Sau đó yêu cầu học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại nội dung đề toán.
+ Bước 2 : Xây dựng chương trình giải.
Từ tóm tắt đề, thông qua đó giúp học sinh thiết lập mối quan hệ giữa cái đã
cho và cái phải tìm. Ở đây cần suy nghĩ xem : Muốn trả lời câu hỏi của bài toán
thì cần biết những gì? Cần phải làm những phép tính gì? Trong những điều ấy
cái gì đã biết, cái gì chưa biết? Muốn tìm cái chưa biết ấy thì lại phải biết cái gì?
…Cứ như thế ta đi dần đến những điều đã cho trong đề toán. Từ những suy nghĩ
trên học sinh sẽ tìm ra con đường tính toán hoặc suy luận đi từ những điều đã

cho đến đáp số của bài toán.
Đây là một bước rất quan trọng và vai trò của người giáo viên là đặc biệt
quan trọng. Để phát huy được tính tích cực, khả năng sáng tạo của học sinh tôi
đã tổ chức, hướng dẫn, gợi cho học sinh những nút thắt quan trọng để học sinh
thảo luận, tìm cách giải quyết tháo những nút thắt đó.
+ Bước 3 : Thực hiện chương trình giải.
Dựa vào kết quả phân tích bài toán ở bước hai, xuất phát từ những điều đã
cho trong đề toán học sinh lần lượt thực hiện giải bài toán.
Lưu ý học sinh trình bày bài giải khoa học, lập luận chặt chẽ, đủ ý,…
+ Bước 4 : Kiểm tra kết quả.
Học sinh thực hiện thử lại từng phép tính cũng như đáp số xem có phù hợp
với đề toán không. Cũng cần soát lại câu lời giải cho các phép tính, các câu lập
luận đã chặt chẽ đủ ý chưa.
* Ngoài 4 bước giải trên trong dạy học nhất là dạy đối tượng học sinh khá, giỏi
cần giúp học sinh khai thác bài toán như:
- Có thể giải bài toán bằng cách khác không?
- Từ bài toán có thể rút ra nhận xét gì? Kinh nghiệm gì?
- Từ bài toán này có thể đặt ra các bài toán khác như thế nào? Giải chúng ra sao?
10


Ví dụ : Lúc 7 giờ sáng, một ô tô tải khởi hành từ A đến B với vận tốc 65
km/giờ. Đến 8 giờ 30 phút một xe ô tô chở khách đi từ B về A với vận tốc 75
km/giờ. Hỏi sau mấy giờ thì 2 xe gặp nhau? Biết A cách B là 657,5 km.
* Bước 1 : Tìm hiểu đề.
- Yêu cầu học sinh đọc kĩ đề, xác định những cái đã biết,những cái cần tìm.
- Tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.

7 giờ
A


657,5 km

8 giờ 30 phút
B

C
65 km/giờ
75 km/giờ
- Học sinh dựa vào sơ đồ tóm tắt để nêu lại đề toán.
* Bước 2 : Xây dựng chương trình giải.
Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận các câu hỏi gợi ý sau:
- Trong bài toán này em thấy có mấy động tử chuyển động và nó chuyển động
như thế nào với nhau? (Có 2 động tử chuyển động trên cùng một quãng đường,
đây là chuyển động ngược chiều gặp nhau, xuất phát không cùng một lúc.)
- Để giải được bài toán này cần chuyển về bài toán dạng nào? (Dạng toán 2
động tử chuyển động ngược chiều gặp nhau, xuất phát cùng một lúc)
- Làm cách nào để có thể chuyển về dạng toán đó? (Tìm xem đến 8 giờ 30 phút
khi xe khách xuất phát thì xe tải đã đi được bao nhiêu km, quãng đường còn lại
hai xe còn phải đi là bao nhiêu ?)
- Để tìm được thời gian gặp nhau ta làm như thế nào ? (Lấy quãng đường còn
lại chia cho tổng vận tốc)
* Bước 3 : Trình bày bài giải.
Học sinh trình bày bài giải.
Bài giải
Khi ô tô khách xuất phát thì ô tô tải đã đi được thời gian là:
8 giờ 30 phút – 7 giờ = 1 giờ 30 phút
Đổi : 1 giờ 30 phút = 1,5 giờ
Khi ô tô khách xuất phát thì ô tô tải đã đi được quãng đường là:
65 x 1,5 = 97,5 (km)

Quãng đường còn lại 2 xe phải đi là :
657,5 – 97,5 = 560 (km)
Sau 1 giờ cả 2 xe đi được :
65 + 75 = 140 (km)
Thời gian đi để 2 ô tô gặp nhau là :
560 : 140 = 4 (giờ)
11


Đáp số : 4 giờ
* Bước 4 : Kiểm tra đánh giá kết quả.
Học sinh tự kiểm tra kết quả hoặc đổi vở để kiểm tra kết quả của nhau.
Học sinh thử lại kết quả dựa vào các dữ liệu đã cho của bài toán.
Chẳng hạn :
Quãng đường ô tô tải đi là : AC = 65 x (4 + 1,5) = 357,5 (km)
Quãng đường ô tô khách đi là : BC = 75 x 4 = 300 (km)
Quãng đường AB là : 357,5 + 300 = 657,5 (km)
(Đúng theo đề bài)
2.3.5. Giải pháp 5: Hướng dẫn cụ thể cách giải bài toán ở dạng toán chuyển
động đều
Dạng 1 : Các bài toán có một chuyển động tham gia.
Ở SGK toán 5 có các bài tập:
- Bài vận tốc gồm: Các bài trang 139; bài 2,3,4 trang 145; bài 1a trang 171.
- Bài quãng đường gồm: các bài trang 141; bài 3, 4 trang 142; bài 2 trang 146;
bài 4 trang 157; bài 4 trang 166; bài 1b trang 171.
- Bài thời gian gồm: các bài trang 143; bài 3 trang 166; bài 1c trang 171
Đối với loại toán này tôi hướng dẫn cho học sinh nắm được công thức tính, biết
đâu là vận tốc, quãng đường, thời gian và biết được mối quan hệ giữa các đại
lượng này với nhau . Khi biết giá trị của hai trong ba đại lượng trên ta có thể tìm
được giá trị của đại lượng còn lại.

Ví dụ: Bài 1/139/SGK: Một người đi xe máy đi trong 3 giờ đi được 105 km.
Tính vận tốc của người đi xe máy?
Bài toán này tôi cho học sinh xác định rõ 3 đại lượng vận tốc, quãng đường, thời
gian rồi áp dụng công thức và giải đúng như sau:
Vận tốc của người đi xe máy là:
105 : 3 = 35 ( km/ giờ)
Đáp số: 35 km/giờ
Tuy nhiên khi giải bài toán này vẫn có một số học sinh ghi sai đơn vị vận tốc đó
là chỉ ghi đơn vị là km, cho nên giáo viên cần củng cố và khắc sâu đơn vị đo vận
tốc là sự kết hợp của đơn vị đo quãng đường và thời gian. Sau đó tôi đưa ra bảng
số liệu về tốc độ tham gia giao thông để học sinh phân tích, hiểu hơn về vận tốc
và đơn vị đo của vận tốc:
+ Xe máy : 35 km/giờ
+ ô tô tải: 40 km/giờ.
+ ô tô con : 45 km/giờ.
+ Vận tốc chạy: 6 m/giây
Dạng 2: Các bài toán về hai chuyển động cùng chiều.
Bài 1/ 145/SGK: Một người đi xe đạp từ B đến C với vận tốc 12 km/giờ, cùng
12


lúc đó một người đi xe máy từ A cách B là 48 km với vận tốc 36 km/giờ và đuổi
theo xe đạp (xem hình dưới đây ). Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ
xe máy đuổi kịp xe đạp ?
Xe máy
Xe đạp
A

48km


`B

C

Bài giải
Sau mỗi giờ ,xe máy gần xe đạp là:
36 -12 = 24 (km)
Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là:
48 : 24 = 2 ( giờ ).
Đáp số : 2 giờ.
Hoặc ta giải như sau:
Hiệu vận tốc của hai xe là:
36 -12 = 24 (km/giờ)
Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là:
48 : 24 = 2 ( giờ ).
Đáp số : 2 giờ.
Muốn học sinh làm được bài toán này, giáo viên phải hướng dẫn học sinh đọc kĩ
đề bài, tóm tắt dạng toán trên hình vẽ, tìm hướng giải và giải. Đó là giúp học
sinh tìm sau mỗi giờ xe máy gần xe đạp là bao nhiêu km, sau đó giúp các em tìm
thời gian đuổi kịp bằng cách lấy quãng đường cách nhau lúc đầu của hai xe chia
cho quãng đường gần nhau sau mỗi giờ như bài giải trên.
Sau khi giải xong, giáo viên củng cố các bước giải loại toán này như sau:
+ Hai vật chuyển động cùng chiều với vận tốc v 1 và v2 ( v1 > v2 ) cách nhau
quãng đường s, cùng xuất phát một lúc thì thời gian để chúng đuổi kịp nhau là:
Thời gian đi để đuổi kịp nhau = Khoảng cách 2 xe : Hiệu vận tốc
+ Hai xe chuyển động cùng chiều, cùng xuất phát từ một địa điểm, xe thứ nhất
xuất phát trước xe thứ hai thời gian t o sau đó xe thứ hai đuổi theo xe thứ nhất thì
thời gian để chúng đuổi kịp nhau là:
Thời gian đi để đuổi kịp nhau = quãng đường xe đi trước : Hiệu vận tốc
Từ bài tập trên học sinh căn cứ vào đề bài cụ thể để vận dụng các bước giải cho

phù hợp.
Dạng 3 : Các bài toán về hai chuyển động ngược chiều.
Bài 1 /144/ SGK: Quãng đường AB dài 180 km. Một ô tô đi từ A đến B với vận
tốc 54 km/giờ, cùng lúc đó một xe máy đi từ B đến A với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi
kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ ô tô gặp xe máy ?
13


Ở bài toán này tôi đó hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ như sau:
180 km
ô tô
xe máy
54 km/giờ
36 km/giờ
54 km
36 km
54 km
36 km
Học sinh dựa trên sơ đồ tự tìm ra được hướng giải sau:
Sau mỗi giờ, cả ô tô và xe máy đi được quãng đường là:
54 + 36 = 90 (km)
Thời gian đi để ô tô gặp xe máy là:
180 : 90 = 2 ( giờ)
Đáp số : 2 giờ.
Sau khi giải xong, tôi đã giúp học sinh nhận ra: quãng đường đi được của ô tô và
xe máy trong một giờ chính là tổng vận tốc của hai chuyển động. Từ đó tôi khái
quát cách giải: Hai vật chuyển động ngược chiều, xuất phát cùng một lúc với
vận tốc lần lượt là v1 và v2, cách nhau quãng đường s thì thời gian để chúng gặp
nhau là:
t gặp = s : ( v 1 + v2 )

Từ công thức tôi giúp học sinh suy ra được công thức tính:
Quãng đường s = ( v 1 + v2 ) × t gặp
Tổng vận tốc của hai chuyển động v1 + v2 = s : t gặp nhau
Dựa vào các công thức trên học sinh sẽ vận dụng giải các bài toán chuyển động
ngược chiều một cách linh hoạt.
Ví dụ: Bài 3/172/SGK : Hai ô tô xuất phát từ A và B cùng một lúc và đi ngược
chiều nhau, sau hai giờ chúng gặp nhau. Quãng đường AB dài 180 km. Tính vận
tốc của mỗi ô tô, biết vận tốc ô tô đi từ A bằng 2/3 vận tốc ô tô đi từ B.
Tôi tiến hành hướng dẫn HS theo các bước sau:
- Hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán.
- Học sinh nhận diện dạng toán (đưa về dạng toán tìm hai số khi biết tổng và tỉ
số của hai số đó).
- HS nêu hướng giải.
- Trình bày bài giải:
Tổng vận tốc của hai ôtô là:
180 : 2 = 90 ( km/giờ )
Ta có sơ đồ :
Vận tốc của ô tô đi từ B:
Vận tốc của ô tô đi từ A :
90km/giờ
14


Vận tốc cuả ô tô đi từ A là :
90 : ( 2 + 3 ) x 2 = 36 ( km/giờ)
Vận tốc của ô tô đi từ B là:
90 - 36 = 54 (km/giờ)
Đáp số: vận tốc ô tô đi từ A : 36 km/giờ
vận tốc ô tô đi từ B : 54 km/giờ.
Dạng 4: Vật chuyển động trên dòng nước

Khi hướng dẫn học sinh giải các bài tập sau :
Bài 4/ 162/SGK: Một thuyền máy đi xuôi dũng từ bến A đến bến B. Vận tốc
của thuyền máy khi nước lặng là 22,6km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2
km/giờ. Sau 1giờ 15 phút thuyền máy đến bến B. Tính độ dài quãng sông AB.
Bài 5/178/SGK : Một tàu thuỷ khi xuôi dòng có vận tốc 28,4 km/giờ, khi ngược
dòng có vận tốc 18,6 km/giờ. Tính vận tốc của tàu thuỷ khi nước lặng và vận tốc
của dòng nước.
Tôi nêu những câu hỏi gợi ý:
Hỏi: Vì sao khi đạp xe xuôi gió em thấy đi nhanh hơn? và khi đạp xe ngược gió
em thấy đi chậm hơn?
Hỏi: Ở trên cùng một quãng đường sông, thuyền đi xuôi dòng nhanh hơn hay
thuyền đi ngược dòng nhanh hơn, vì sao?
Từ đó học sinh rút ra được kết luận:
- Vận tốc của một vật khi xuôi dòng nước = Vận tốc của vật + Vận tốc dòng
nước.
- Vận tốc của vật khi ngược dòng nước = Vận tốc của vật - Vận tốc của dòng
nước.
Trên cơ sở đó tôi hướng dẫn học sinh giải bài toán như sau:
Bài giải
Đổi 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ.
Vận tốc của thuyền máy khi đi xuôi dòng là:
22,6 + 2,2 = 24,8 ( km/giờ).
Quãng sông AB dài là:
24,8 x 1,25 = 31( km ).
Đáp số : 31 km.
Sau khi học sinh giải xong tôi cho học sinh nêu cách tính vận tốc của
thuyền khi xuôi dòng và khi ngược dòng rồi tôi lấy thêm ví dụ để học sinh tính.
Bài 5/ 178/ SGK: Sau khi đọc và xác định yêu cầu bài toán, giáo viên cần
giúp học sinh chuyển thành dạng toán: Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai số
đó

15


+ Vận tốc dòng nước = ( Vận tốc của vật khi xuôi dòng - Vận tốc của vật khi đi
ngược dòng) : 2
+ Vận tốc của vật = ( Vận tốc của vật khi xuôi dòng+ Vận tốc của vật khi
ngược dòng ) : 2.
Rồi hướng dẫn học sinh giải như sau:
Bài giải
Vận tốc của tàu thuỷ khi nước lặng là:
( 28,4 + 18,6 ) : 2 = 23,5 ( km/giờ )
Vận tốc của dòng nước là:
28,4 - 23,5 = 4,9 (km/giờ)
Đáp số: vtàu thuỷ : 23,5 km/giờ
vdòng nước : 4,9 km/giờ.
Dạng 5: Một số bài toán khác
Muốn giải các bài toán này, học sinh phải vận dụng tổng hợp các kiến
thức đã học để giải.
Ví dụ : Lúc 7 giờ một ô tô chở hàng đi từ A với vận tốc 40 km/giờ. Đến 8
giờ 30 phút một ô tô du lịch cũng đi từ A với vận tốc 65 km/giờ và đi cùng chiều
với ô tô chở hàng. Hỏi đến mấy giờ ô tô du lịch đuổi kịp ô tô chở hàng ?
Bài tập này đòi hỏi học sinh phải tính được thời gian ô tô đi và thời điểm
hai ô tô gặp nhau. Nếu không có kiến thức tổng hợp học sinh dễ làm thiếu yêu
cầu của bài toán, đó là chỉ tìm thời gian đi để gặp nhau không tìm thời điểm
hoặc lúng túng không giải được.
Bài giải
Thời gian ô tô chở hàng đi trước ô tô du lịch là:
8 giờ 30 phút - 7 giờ = 1 giờ 30 phút
Đổi 1 giờ 30 phút = 1,5 giờ.
Quãng đường ô tô chở hàng đi được trong 2 giờ là:

40 x 1,5 = 60 (km)
Hiệu vận tốc của ô tô du lịch và ô tô chở hàng là:
65 - 40 = 25 (km/giờ)
Thời gian đi để ô tô du lịch đuổi kịp ô tô chở hàng là:
60 : 2,5 = 2,4 ( giờ)
Đổi 2,4 giờ = 2 giờ 24 phút
Ô tô du lịch đuổi kịp ô tô chở hàng lúc:
8 giờ 30 phút + 2 giờ 24 phút = 10 giờ 54 phút
Đáp số : 10 giờ 54 phút

16


Tóm lại, sau mỗi dạng toán, mỗi ví dụ, để khắc sâu kiến thức giáo viên
cần đưa thêm bài tập tương tự cho học sinh giải. Học sinh khi đã nắm vững cách
giải các dạng toán thì gặp bất kì một bài toán nào chỉ cần chỉ ra dạng toán là học
sinh có thể giải được ngay.
2.3.6. Giải pháp 6: Dự kiến những sai lầm học sinh thường mắc phải
Ở mỗi tiết dạy, giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài để dự kiến những sai lầm
mà học sinh mắc phải. Từ đó, giáo viên cần lưu ý, củng cố trong bài giảng để
tránh những sai lầm mà học sinh mắc phải. Một số sai lầm học sinh thường mắc
phải trong quá trình giải toán chuyển động đều:
- Tóm tắt sai
- Viết sai đơn vị đo.
- Nhầm lẫn thời gian và thời điểm.
- Vận dụng sai công thức.
- Học sinh lúng túng khi đưa bài toán chuyển động ngược chiều hoặc cùng chiều
lệch thời điểm xuất phát về dạng toán chuyển động ngược chiều hoặc cùng chiều
cùng thời điểm xuất phát.
Ví dụ: Bài 4/140/ SGK : Một ca nô đi từ lúc 6 giờ 30 phút đến 7 giờ 45 phút

được quãng đường 30 km. Tính vận tốc của ca nô.
Tôi đã giúp học sinh phân biệt được “thời gian” và “ thời điểm” để từ đó
các em tự tìm ra: Thời gian = Thời điểm đến nơi - Thời điểm xuất phát và giải
bài toán như sau:
Thời gian ca nô đi quãng đường 30 km là:
7 giờ 45 phút - 6 giờ 30 phút = 1 giờ 15 phút
Đổi 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ
Vận tốc của ca nô là:
30 : 1,25 = 24 ( km/giờ)
Đáp số: 24 km/giờ.
Ví dụ: Bài 3/143/SGK. Một máy bay bay với vận tốc 860 km/ giờ được quãng
đường 2150 km. Hỏi máy bay bay đến nơi lúc mấy giờ, nếu nó khởi hành lúc 8
giờ 45 phút ?
Khi giải bài toán này, một số học sinh bỏ qua dữ kiện “ khởi hành lúc 8
giờ 45 phút” và nhầm lẫn “thời gian”, “ thời điểm”. Vì vậy, khi hướng dẫn học
sinh tìm hiểu đề bài, giáo viên cần phải nhấn mạnh yêu cầu bài toán là tìm thời
điểm đến nơi bằng những ví dụ gần gũi với các em, ví dụ: Em đi học lúc 6 giờ
30 phút, thời gian đi từ nhà đến trường mất 30 phút. Hỏi em đến trường lúc mấy
giờ?
Từ đó giúp các em nêu được: Thời điểm đến nơi = thời điểm xuất phát +
17


thời gian đi và giải như sau:
Thời gian máy bay bay hết quãng đường là:
2150 : 860 = 2,5 (giờ) hay 2 giờ 30 phút
Máy bay bay đến nơi lúc:
8 giờ 45 phút + 2 giờ 30 phút = 10 giờ 75 phút hay 11 giờ 15 phút
Đáp số: 11 giờ 15 phút
Ví dụ: Bài 1b/145/SGK: “Quãng đường AB dài 276 km. Hai ô tô khởi hành

cùng một lúc, một xe đi từ A đến B với vận tốc 42 km/giờ, một xe đi từ B đến A
với vận tốc 50 km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau mấy giờ hai ô tô gặp nhau?”
Khi gặp bài toán trên học sinh rất lúng túng không biết vận dụng công
thức nào để tính, tôi tiến hành kiểm tra ở lớp 5A chỉ có một số ít các em làm
được bài toán theo cách giải đúng sau:
Sau mỗi giờ, hai ô tô đi được quãng đường là:
42 + 50 = 92 (km)
Kể từ lúc bắt đầu đi, hai ô tô gặp nhau sau số giờ là:
276: 92 = 3 (giờ)
Đáp số: 3 giờ.
Một số em vì khả năng suy luận yếu nên không biết áp dụng công thức
nào dẫn đến làm sai bài toán. Vì vậy mà gặp mỗi dạng toán, giáo viên cần dự
kiến sai lầm để hướng dẫn học sinh hiểu rõ yêu cầu bài toán hơn. Có những bài
toán nếu chúng ta tóm tắt bằng lời sẽ khó hiểu hơn là tóm tắt bằng sơ đồ. Vì vậy
khi gặp bài toán cần tóm tắt bằng sơ đồ thì giáo viên nên tóm tắt để học sinh dễ
hiểu.
Ví dụ: Quãng đường AB dài 25 km. Một người đi bộ từ A đến B được 5 km rồi
đi ô tô, ô tô đi mất nửa giờ thì đến B.
a, Tính vận tốc của ô tô ?
b, Nếu người đó đi ô tô ngay từ A thì sau bao lâu sẽ đến B ?
Để giúp học sinh nắm vững được yêu cầu của bài toán tôi đó tóm tắt theo
sơ đồ sau:
đi bộ
A

C

Đi ô tô từ C đến B

B


5km

25 km
Bài giải
18


Quãng đường người đó đi ô tô dài là:
25 - 5 = 20 (km)
Vận tốc của ôtô là:
20 : 0,5 = 40 (km/giờ)
Nếu người đó đi ô tô ngay từ A thì đến B hết:
25 : 40 = 0,625 (giờ).
Đổi : 0,625 giờ = 37 phút 30 giây.
Đáp số : a, 40 km/giờ;
b, 37 phút 30 giây
Với bài toán này, để các em khắc sâu kiến thức, ghi nhớ một cách có ý thức,
trước khi giải bài toán giáo viên nên cho học sinh nhìn vào sơ đồ đọc lại đề toán,
đồng thời dựa vào tóm tắt để giải.
2.4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:
Qua tổ chức thực hiện các hoạt động như trên, bản thân tôi tự đánh giá, khẳng
định đã đạt được kết quả như sau:
- Đối với giáo viên: Đã tự học tập và nâng cao được tay nghề trong việc dạy giải
toán có lời văn nói chung và giải toán dạng chuyển động đều nói riêng.
- Đối với học sinh : Các em đã dần dần hiểu nhanh đề bài, nắm chắc được từng
dạng bài , biết cách tóm tắt, biết cách phân tích đề, lập kế hoạch giải, phân tích
kiểm tra bài giải, tâm lý ngán ngại môn toán được thay bằng các hoạt động thi
đua học tập sôi nổi, hứng thú. Các điển hình “giải nhanh”, “giải đúng” là điều
không thể thiếu trong tiết học.

- Sau thời gian dạy toán chuyển động để biết được khả năng giải toán chuyển
động của các em thế nào, tôi tiến hành kiểm tra trên giấy cho hai lớp 5C và 5A
với đề bài như sau:
Đề bài:
Bài 1. Quãng đường AB dài 120 km. Một ô tô đi từ A đến B hết 2 giờ 30 phút.
Tính vận tốc của ô tô ? ( Đáp số: 48 km/giờ)
Bài 2. Một ô tô khởi hành từ A lúc 7 giờ 15 phút và đến B lúc 10 giờ. Tính
quãng đường AB, biết vận tốc của ô tô là 48 km/giờ. (Đáp số: 132 km)
Bài 3. Lúc 7 giờ 30 phút một xe máy đi từ A đến B với vận tốc 40 km/giờ. đến 8
giờ 15 phút một ô tô cũng đi từ A đến B và đuổi theo xe máy với vận tốc 60
km/giờ. Hỏi sau bao lâu thì xe ô tô đuổi kịp xe máy ? (Đáp số: 1 giờ 30 phút)
Thang điểm: Câu 1: 2 điểm
Câu 2: 4 điểm
Câu 3: 4 điểm )
Sau khi chấm bài kết quả thu được:
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn
Lớp

thành
19


5C(thực

Số

SL


TL

SL

TL

SL

TL

HS
37

24

64,9%

13

35,1%

0

0%

nghiệm )
5A(đối chứng)
40
20
50%

19
47,5%
1
2,5%
Qua kết quả trên, tôi thấy học sinh lớp tôi sau khi áp dụng một số biện
pháp đã nêu trong đề tài nên chất lượng cao hơn so với kết quả của lớp 5A. Có
thể coi đây là thành quả ban đầu tìm hiểu đúc rút kinh nghiệm của bản thân,
cũng là kinh nghiệm cho quá trình dạy - học dạng toán chuyển động cho các
năm học tiếp theo.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình và có
phương pháp giảng dạy tốt. Là giáo viên được phân công dạy lớp 5, tôi nhận
thấy việc tích lũy kiến thức cho các em học sinh là cần thiết, nó tạo nên tiền đề
cho sự phát triển trí thức của các em, “nền móng” vững chắc sẽ tạo động lực
thúc đẩy để tiếp tục học lên các lớp trên và hỗ trợ các môn học khác. Giáo viên
chỉ là người hướng dẫn, đưa ra phương pháp giúp học sinh học tập – học sinh
phải là người hoạt động tích cực tìm tòi tri thức và lĩnh hội để biến nó thành vốn
quý của bản thân. Khi làm việc này, để có kết quả như mong muốn thì phải có sự
kiên trì, bền chí của cả hai phía giáo viên – học sinh vì thời gian không phải là 1
tuần, 2 tuần là các em học sinh sẽ có khả năng giải toán tốt mà đòi hỏi phải tập
luyện lâu dài trong cả quá trình học tập của các em.
3.2. Kiến nghị
* Đối với giáo viên:
- Trang bị cho học sinh một cách có hệ thống các kiến thức cơ bản, cũng như
các quy tắc, công thức. Nắm vững bản chất mối quan hệ giữa 3 đại lượng : vận
tốc, thời gian, quãng đường để vận dụng giải toán.
- Người giáo viên cần biết phân dạng, hệ thống hóa các bài tập theo dạng bài.
Giúp học sinh nắm phương pháp giải theo dạng bài từ đơn giản đến phức tạp.
- Tập cho học sinh đọc và phân tích đề kĩ lưỡng trước khi làm bài. Cần rèn

luyện cho học sinh phương pháp suy luận chặt chẽ, trình bày bài đầy đủ, ngắn
gọn, chính xác. Và một điều quan trọng là phải biết khơi gợi sự tò mò, hứng thú
học tập, không nản chí trước những khó khăn trước mắt.
* Đối với nhà trường:
- Tạo điều kiện về trang thiết bị, t ổ chức các cuộc thi giao lưu học sinh ở
các khối lớp, tổ chức cuộc thi " vườn hoa kiến thức" để các em tự tin trong quá
trình lĩnh hội tri thức của mình .
20


- Thường xuyên tổ chức hội thảo chuyên đề về đổi mới công tác bồi dưỡng học
sinh, đổi mới phương pháp dạy - học, nâng cao chất lượng sinh hoạt chuyên
môn ở các tổ, khối.
* Đối với các cấp giáo dục:
Thường xuyên mở lớp bồi dưỡng phương pháp dạy học mới cho giáo viên, tổ
chức hội thảo các chuyên đề để giáo viên học tập kinh nghiệm trong giảng dạy
nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã và đang tiếp tục thực hiện bồi dưỡng học
sinh ở trường Tiểu học có hiệu quả. Song do điều kiện khả năng và thời gian có
hạn nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được sự giúp đỡ và
đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học các cấp và các bạn đồng nghiệp để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Xác nhận của Hiệu trưởng nhà
trường

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

Người viết

Lê Thị Duyên

21


Tài liệu tham khảo
1.
“Sách giáo khoa Toán 5”, NXB Giáo dục Việt Nam.
2.
“10 Chuyên đề bồi dưỡng học sinh giỏi Toán 4 -5 tập 2”, tác giải
Trần Diên Hiển, NXB Giáo dục Việt Nam.
3.
“Phân loại và phương pháp giải các dạng bài tập toán 5”, tác giả
Phạm Đình Thực, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
4.
“Cha mẹ dạy con học toán 5”, tác giả Phạm Đình Thực, NXB
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

22



×