Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Bình luận và cho ví dụ về quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong tư pháp quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.64 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC...............................................................................................................0
MỞ ĐẦU.................................................................................................................1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Quốc gia..........................................................................................................1
2. Quyền miễn trừ tư pháp quốc gia....................................................................1
II.QUY ĐỊNH VỀ MIỄN TRỪ TƯ PHÁP QUỐC GIA TRONG
TƯ PHÁP QUỐC TẾ
1. Quan
điểm
giải
quyết
.................................................................................................
2
2. Nội dung quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong tư pháp quốc tế..................3
KẾT LUẬN.............................................................................................................7
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................8

Page
1


MỞ ĐẦU
So với những chủ thể khác cũng tham gia vào quan hệ tư pháp quốc tế, quốc
gia có một thuộc tính đặc trưng và quyết định tất cả những sự khác biệt đó là chủ
quyền. Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền là một trong những nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế được ghi nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và do đó, khi quốc
gia tham một quan hệ tư pháp quốc tế thì nó sẽ được trao cho những quyền miễn
trừ tư pháp trên cơ sở nguyên tắc kẻ ngang quyền này không có quyền lực gì đối


với kẻ ngang quyền kia. Tuy nhiên, có một thực tế ở Việt Nam hiện nay là quy định
về vấn đề này chỉ ở mức hết sức sơ lược và chưa đủ cơ sở để sử dụng các quy định
của pháp luật nước ta để điều chỉnh những quan hệ có liên quan. Để hiểu rõ hơn về
thực tế này, nhóm đã quyết định chọn nghiên cứu đề tài: “Bình luận và cho ví dụ
về quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong tư pháp quốc tế”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1. Quốc gia.
Theo quan điểm hiện nay, quốc gia được cấu thành bởi ba yếu tố là lãnh thổ
xác định, chính phủ và khả năng tham gia quan hệ quốc tế. Trong tư pháp quốc tế,
quốc gia là chủ thể đặc biệt; do tần suất xuất hiện của quốc gia trong các quan hệ
quốc tế là không nhiều. Quốc gia là chủ thể chỉ tham gia vào một số quan hệ thuộc
đối tượng điều chỉnh của tư pháp quốc tế ví dụ như quan hệ thừa kế khi một người
chết có di sản thừa kế nhưng không có di chúc cũng như không có người thừa kế
theo pháp luật.
2. Quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia
Miễn trừ tư pháp là nguyên tắc của luật quốc tế trên cơ sở bình đẳng chủ
quyền quốc gia. Khác với các thể nhân và pháp nhân, quốc gia là một thực thể có

Page
2


chủ quyền, do đó khi tham gia vào các quan hệ dân sự, quốc gia được hưởng quyền
miễn trừ tư pháp.
Hiện nay, có hai quan điểm về quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong tư
pháp quốc tế, là quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia và quyền miễn trừ
tư pháp tương đối của quốc gia. Hai quan điểm này sẽ được đề cập kĩ hơn trong
phần tiếp theo

II. QUY ĐỊNH VỀ MIỄN TRỪ TƯ PHÁP QUỐC GIA TRONG TƯ PHÁP
QUỐC TẾ
1. Quan điểm giải quyết
Về mặt lý luận quyền miễn trừ tư pháp quốc gia bao gồm quyền miễn trừ xét
xử, quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế nhằm đảm bảo đơn kiện,
quyền miễn trừ đối với các biện pháp cưỡng chế bảo đảm thi hành phán quyết của
tòa án nuớc ngoài. Pháp luật thực định của Việt Nam hiện không có quy định chính
thức nào về nội dung của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia. Nội dung quyền miễn
trừ của quốc gia đã được quy định thống nhất trong các văn bản của Liên hợp
quốc, các điều ước quốc tế có liên quan và được cụ thể hóa vào văn bản của nhiều
nước. Chính vì vậy, việc quy định một cách rõ ràng, cụ thể nội dung quyền miễn
trừ của quốc gia trong pháp luật Việt Nam cũng góp phần đưa Tư pháp quốc tế Việt
Nam tiến gần hơn với các chuẩn mực của đời sống pháp lý quốc tế trong vấn đề
này.
Về vấn đề này, phần lớn các quan điểm hiện nay đều tán đồng thuyết miễn trừ
tuyệt đối của quốc gia, phản đối thuyết miễn trừ tương đối. Dường như về mặt lý
luận Việt Nam chỉ chấp nhận thuyết quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối của quốc gia.
Thực tiễn đời sống pháp lý quốc tế cho thấy, nếu chấp nhận thuyết quyền miễn trừ
tuyệt đối của quốc gia sẽ có những trường hợp không bảo vệ được một cách hữu
hiệu lợi ích của các pháp nhân và thể nhân của quốc gia đó khi tham gia vào quan
Page
3


hệ dân sự với một quốc gia khác và ngược lại, quốc gia chấp nhận thuyết quyền
miễn trừ tuyệt đối sẽ bất lợi khi tham gia vào mối quan hệ dân sự với quốc gia hay
pháp nhân, thể nhân của quốc gia chấp nhận thuyết miễn trừ tương đối. Thực tiễn
đời sống pháp lý Việt Nam cũng cho thấy việc coi thuyết miễn trừ tuơng đối là trái
với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế hay của Tư pháp quốc tế là chưa
thuyết phục.

Quan điểm về quyền miễn trừ tương đối có thể hiểu là có những trường hợp
cụ thể mà quốc gia không được hưởng quyền miễn trừ, còn phạm vi của quyền
miễn trừ vẫn bao trùm tất cả các lĩnh vực quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài mà
quốc gia tham gia. Trên thế giới, thuyết miễn trừ tương đối của quốc gia đang có
phạm vi ảnh hưởng ngày càng rộng và ngày càng có nhiều quốc gia chấp nhận, trở
thành một xu thế phát triển của tư pháp quốc tế hiện đại. Tại Hoa Kỳ, từ năm 1952
đã bắt đầu thay đổi quan điểm quyền miễn trừ quốc gia từ thuyết miễn trừ tuyệt đối
sang thuyết quyền miễn trừ tương đối. Tại Anh, Luật về quyền miễn trừ của quốc
gia năm 1978 cũng ghi nhận quan điểm này. Quan điểm này còn được ghi nhận
trong thực tiễn xét xử ở toà án Áo, Pháp, Thụy Điển, Ý, Hy Lạp, Bỉ.
Xu hướng trên chứng minh một điều rằng, việc thừa nhận một cách cứng nhắc
quyền miễn trừ tuyệt đối của nhà nước nước ngoài ở Việt Nam chỉ làm thiệt hại
cho chúng ta vì chắc chắn trong quy định của pháp luật nhiều quốc gia chỉ dành
cho nhà nước Việt Nam quyền miễn trừ tương đối tại quốc gia đó, Chính vì vậy,
trong điều kiện giao lưu kinh tế thương mại hiện nay cũng như cùng với sự phát
triển của tư pháp quốc tế hiện đại, Việt Nam nên chấp nhận thuyết miễn trừ tương
đối của quốc gia khi tham gia vào các quan hệ kinh tế, dân sự quốc tế để bảo vệ
hiệu quả lợi ích của các công dân, cơ quan, tổ chức Việt Nam khi tham gia vào các
quan hệ tài sản với quốc gia nước ngoài.
2. Nội dung của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong tư pháp quốc tế
Page
4


Để có đầy đủ cơ sở đánh giá quy định hiện tại cũng như xu hướng phát triển
của pháp luật Việt Nam trong mối tương quan với pháp luật quốc tế, phương pháp
cần thiết là tách bạch những quy định pháp luật theo từng giai đoạn lịch sử pháp lý,
sao đó tiến hành so sánh chúng với nhau và cuối cùng là đánh giá xu hướng phát
triển riêng biệt từng hệ thống cùng mối liên hệ giữa hai hệ thống pháp luật ấy.
Theo quan điểm của nhóm, vấn đề xem xét tương quan trong pháp luật về miễn trừ

tư pháp quốc gia của Việt Nam và quốc tế được tiến hành trong hai giai đoạn,
trước và sau ngày 01/01/2005. Đây là dấu mốc lịch sử mang tính tương đối nhưng
có ý nghĩa rất quan trọng đánh dấu sự thay đổi của pháp luật Việt Nam cũng như
quốc tế trong miễn trừ tư pháp quốc gia, điều này sẽ được trình bày sáng tỏ hơn
trong những phân tích tại phần sau.
2.1. Giai đoạn trước 01/01/2005
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Dân sự 1989 (Pháp lệnh 1989), tại
Điều 84 có quy định về quyền miễn trừ tài phán quốc gia bao gồm ba nội dung
(miễn trừ xét xử, miễn trừ thi hành án và miễn trừ đảm bảo sơ bộ trình tự vụ kiện).
Đây là sự ghi nhận gián tiếp công nhận quyền miễn trừ tài phán quốc gia tuyệt đối
cho quốc gia nước ngoài. Sự tuyệt đối hóa miễn trừ tài phán quốc gia một cách
cứng nhắc, của Việt Nam, khiến những thể nhân và pháp nhân Việt Nam không thể
đòi hỏi quyền lợi chính đáng của mình tại Tòa án Việt Nam, trong khi tiến hành tố
tụng tại quốc gia nước ngoài giải quyết tranh chấp quyền lợi với chính quốc gia đó
phải đối mặt với rất nhiều bất lợi. Như đã phân tích, đây có thể là nguyên nhân tạo
ra sự thiếu công bằng trong việc hưởng quyền của các chủ thể và cũng có thể coi là
một hạn chế của tư pháp quốc tế Việt Nam.
Đối với nội dung thứ tư của quyền miễn trừ tư pháp quốc gia - quyền miễn
trừ tài sản quốc gia. Quyền này chỉ được pháp luật Việt Nam bảo vệ cho một
nhóm hạn chế của các tài sản có nội hàm là tài sản quốc gia - đấy là những tài sản
Page
5


được quy định trong Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành
cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ
chức quốc tế tại Việt Nam 1993 (Pháp lệnh ưu đãi, miễn trừ 1993), bao gồm tài
sản của cơ quan ngoại giao, lãnh sự Việt Nam ở nước ngoài. Như vậy, vẫn có
những tài sản quốc gia khác của quốc gia nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam chưa
được pháp luật Việt Nam giai đoạn này bảo vệ quyền miễn trừ như tài sản đang do

chính quyền cũ để lại được chính quyền mới kế thừa, tài sản của thể nhân hoặc
pháp nhân bị quốc hữu hóa và tài sản được cho thuê, gửi giữ, trưng bày, triển lãm,
mua bán. Vấn đề này cũng được xem như hạn chế thứ hai của pháp luật Việt Nam
quy định về miễn trừ tài sản quốc gia nói riêng và miễn trừ tư pháp quốc gia nói
riêng.
Bên cạnh hai quy phạm mang tính chất trao quyền miễn trừ tư pháp cho các
quốc gia nước ngoài, Khoản 3 Điều 6 Nghị định 60-CP hướng dẫn thi hành các
quy định của Bộ luật Dân sự 1995 về Quan hệ Dân sự có yếu tố nước ngoài
(Nghị định 60-CP) vừa là tự khẳng định quyền miễn trừ tài sản quốc gia đối với
những tài sản của nhà nước Việt Nam ở nước ngoài, vừa là là tuyên bố minh thị từ
bỏ quyền miễn trừ tư pháp với tài sản (miễn trừ tài sản quốc gia) của Việt Nam ở
nước ngoài trong một ngoại lệ duy nhất khi tài sản đó được sử dụng vào mục đích
kinh doanh. Trong khi quyền miễn trừ tư pháp quốc gia là quyền của một quốc gia
trên lãnh thổ quốc gia nước ngoài, là quyền được pháp luật quốc gia nước ngoài
ghi nhận và trao cho mới có thể thực hiện được thì việc Việt Nam tự ghi nhận
quyền miễn trừ tài sản quốc gia của mình không thể có hiệu lực ở quốc gia khác
nên có thể nói một phần quy phạm này không có giá trị trên thực tiễn. Đây được
coi là hạn chế thứ ba của pháp luật Việt Nam so với pháp luật quốc tế về quyền
miễn trừ tư pháp quốc tế.

Page
6


Tóm lại, trong giai đoạn này, những quy định về miễn trừ tư pháp quốc tế
trong hệ thống pháp luật Việt Nam vừa thiếu vừa lạc hậu so với pháp luật quốc tế
đã chuyển dịch dần dần sang tính tương đối, mềm dẻo hơn và có thể cân bằng lợi
ích của quốc gia với các chủ thể khác của tư pháp quốc tế. Hơn nữa, miễn trừ tuyệt
đối sinh ra đặc quyền quốc gia, đặc quyền làm tổn hại nền kinh tế thế giới, vì thế,
miễn trừ tương đối hạn chế nguyên nhân tiềm tàng ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế

thế giới nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia.
2.2. Giai đoạn sau 01/01/2005
Từ ngày 01/01/2005, Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự mới có hiệu
lực thay thế Bộ Luật Dân sự 1995 và Pháp lệnh 1989 cùng các văn bản hướng dẫn
thi hành khác, đặc biệt là Nghị định 60-CP bị thay thế bởi Nghị định 138/2006/NĐCP. Các văn bản mới này đã loại bỏ tất cả các điều khoản có ghi nhận về quyền
miễn trừ tư pháp quốc gia và không có sự thay thế. Nội dung này cũng được duy trì
khi Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung năm 2011. Nhiều
quan điểm cho rằng đây là một sự thiếu sót, nhưng nếu đánh giá trên một quá trình
và xu hướng phát triển của nền pháp lý quốc tế về quyền miễn trừ tư pháp quốc
gia, pháp luật Việt Nam đã tiến thêm một bước trong lộ trình hội nhập quốc tế đó.
Khẳng định này được thể hiện qua những luận điểm sau đây:
(i) Bản chất của “miễn trừ tư pháp quốc gia tương đối” bao hàm việc một
quốc gia có thể trao quyền và hạn chế quyền miễn trừ tư pháp quốc gia trong một
số điều kiện cụ thể đối với quốc gia khác trên lãnh thổ quốc gia mình. Vì thế, việc
loại bỏ Điều 84 Pháp lệnh 1989 xác lập nguyên tắc miền trừ tư pháp quốc gia
không hạn chế và Khoản 3 Điều 6 Nghị định 60-CP tự xác lập quyền miễn trừ tư
pháp quốc gia là tiền đề đầu tiên cho Việt Nam để xây dựng và áp dụng pháp luật
theo quan điểm miễn trừ tương đối. Các quy phạm này không thể được sửa đổi hay
bổ sung vì, không giống như miễn trừ tuyệt đối, việc ghi nhận theo nguyên tắc
Page
7


“miễn trừ tư pháp quốc gia tương đối” đòi hỏi hàng loạt những quy định khác để
hoàn thiện, trong khi thực tiễn pháp lý Việt Nam chưa thể đáp ứng ngay, vì thế, loại
bỏ là tất yếu.
(ii) Sự thay đổi của nhà làm luật Việt Nam đối với các quy định về miễn trừ tư
pháp quốc gia khiến cho hệ thống pháp luật quốc gia chỉ còn lại một quy định duy
nhất có hiệu lực tại Khoản 3 Điều 5 Pháp lệnh ưu đãi, miễn trừ 1993. Sự điều
chỉnh của quy định này chỉ mang tính chất đơn lẻ trong phạm vi nhỏ của quyền

miễn trừ tư pháp. Chính thực tế pháp luật quốc gia thiếu sự điều chỉnh, các điều
ước quốc tế Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia cũng không có quy định, tạo ra
những thuận lợi cho Việt Nam có thể áp dụng tập quán quốc tế cũng như áp dụng
tương tự pháp luật theo xu hướng pháp luật chung của quốc tế, được nhiều quốc
gia đồng thuận để bảo vệ công dân và pháp nhân của Việt Nam khi tham gia quan
hệ Tư pháp quốc tế với các quốc gia nước ngoài, kích thích giao dịch dân sự quốc
tế, tích lũy kinh nghiệm nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là
hệ thống pháp luật về quyền miễn trừ tư pháp quốc gia, tăng cường sự hội nhập và
thiện chí trong quan hệ quốc tế của Việt Nam.
(iii) Tháng 12 năm 2004, theo ghi nhận tại biên bản kỳ họp là thứ 59 Đại hội
đồng Liên hợp quốc diễn ra tại New York, Việt Nam là một trong những nước
thành viên tham gia phiên họp thứ ba của Ủy bản đặc biệt soạn thảo và hoàn thành
dự thảo Công ước của Liên hợp quốc về miễn trừ tài phán quốc gia và tài sản
quốc gia, Việt Nam cũng có mặt trong phiên biểu quyết thông qua công ước này.
Công ước này là điều ước đa phương đầu tiên trên thế giới quy định đầy đủ, chi tiết
các nội dung quyền miễn trừ tư pháp quốc gia. Tuy chưa chính thức trở thành
thành viên của Điều ước này song việc tham gia tích cực vào quá trình xây dựng và
thông qua văn kiện trên đã cho thấy thái độ và sự quan tâm cũng như định hướng
của Việt Nam trong vấn đề miễn trừ tư pháp quốc gia
Page
8


KẾT LUẬN
Những tiền đề Việt Nam đã tạo ra khi thay đổi các quy định pháp luật trong hệ
thống pháp luật về miễn trừ tư pháp quốc gia cùng thời điểm với ra đời của Công
ước về miễn trừ tư pháp quốc gia của Liên hợp quốc, sự kiện này đã ghi dấu sự bắt
nhịp tốt của pháp luật Việt Nam vào pháp luật quốc tế, hình thành cơ chế vận dụng
thông thoáng, linh hoạt cho pháp luật. Chính môi trường pháp lý này sẽ giúp pháp
luật quốc tế sẽ có tác động tích cực nhằm hoàn thiện pháp luật quốc gia hướng tới

xây dựng hoàn chỉnh Luật chuyên ngành của Việt Nam về miễn trừ tư pháp quốc
gia như một số quốc gia có nền pháp lý tiên tiến đang có.

Page
9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Tư pháp quốc tế, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội.
2. TS. GVC. Nguyễn Hồng Bắc (2012), Hướng dẫn học và ôn tập môn Tư pháp
quốc tế, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
3. TS. Đỗ Văn Đại, PGS. TS. Mai Hồng Quỳ (2006), Tư pháp quốc tế Việt Nam,
NXB Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
4. ThS. Bùi Thị Thu (2010), Giáo trình Luật Tư pháp quốc tế, NXB Giáo Dục Việt
Nam, Hà Nội.
Bài viết
1. ThS. Bành Quốc Tuấn, “Quyền miễn trừ quốc gia trong Tư pháp quốc tế Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp.
Văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam
1. Bộ luật Dân sự 1995;
2. Bộ luật Dân sự 2005;
3. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Dân sự 1989;
4. Bộ luật Tố tụng Dân sự 1995;
5. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng Dân sự 2011;
6. Pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam 1993.
7. Nghị định 60-CP của Chính Phủ ngày 06/06/1997 Hướng dẫn thi hành các quy
định của Bộ luật Dân sự 1995 về Quan hệ Dân sự có yếu tố nước ngoài.


Page
10


8. Nghị định 138/2006/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 15/11/2006 Quy định chi tiết
thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
Điều ước quốc tế
1. Công ước của Liên hợp quốc về miễn trừ tài phán quốc gia và tài sản quốc gia United Nations Convention on jurisdictional immunities of states and their
property 2004.
2. Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao - [United Nations] Vienna
Convention on diplomatic relations 1961.
3. Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự - [United Nations] Vienna Convention
on consular relations 1963.
4. Các Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và một số nước.

Page
11



×