Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Nghiên cứu cadimi trong một số nhóm đất ở việt nam và tích luỹ cadimi trong rau ăn lá tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.81 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

HÀ MẠNH THẮNG

NGHIÊN CỨU CADIMI TRONG MỘT SỐ NHÓM ĐẤT
Ở VIỆT NAM VÀ TÍCH LUỸ CADIMI TRONG RAU ĂN LÁ

Chuyên ngành: Khoa học đất
Mã số: 9 62 01 03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hà
2. PGS.TS. Nguyễn Đình Mạnh

HÀ NỘI, 2019

1


Công trình được công bố tại:
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Phạm Quang Hà
2. PGS.TS. Nguyễn Đình Mạnh
Phản biện 1:

Deleted:  PGS.TS Nguyễn Xuân Hải



Phản biện 2:
Phản biện 3:

Deleted:  TS. Trần Minh Tiến

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Viện
Họp tại
Vào hồi......giờ ........ngày........tháng.........năm..........

Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư Viện Quốc gia
2. Thư Viện Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cadimi (Cd) là một trong những kim loại nặng độc nhất cho
môi trường sinh thái đất, cây trồng, sức khoẻ con người và động vật
(FAO, 1992). Cd vào đất từ nhiều nguồn khác nhau, thực tế phát
triển công nghiệp, đô thị và kể cả thâm canh nông nghiệp đều tiềm
ẩn tăng Cd trong môi trường nói chung và môi trường đất nói riêng.
Các nghiên cứu về hiện trạng Cd trong đất, mức độ ô nhiễm Cd
trong môi trường đất ở Việt Nam chưa thực sự có hệ thống, chưa đủ
cơ sở khoa học tin cậy để xác định mức vượt ngưỡng đối với các
nhóm đất khác nhau, rất ít số liệu về các quan hệ giữa Cd trong đất
và Cd tích lũy trong cây, chưa xác định được nguyên nhân chính gây
ô nhiễm Cd trong đất, mức vượt ngưỡng cảnh báo, cũng như tác

động của việc tăng Cd trong đất đối với cây trồng và môi trường sinh
thái, đặc biệt trong đối tượng cây rau ăn lá là đối tượng rau được con
người tiêu thụ trực tiếp. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần đánh giá
hiện trạng ô nhiễm Cd trong đất, giúp tìm ra nguyên nhân gây ô
nhiễm Cd, xác định được mối quan hệ giữa hàm lượng Cd trong đất,
cây trồng và cây rau nói riêng nhằm cung cấp cơ sở khoa học tin cậy
để xây dựng các tiêu chuẩn, quy chuẩn về Cd trong đất cũng như đề
xuất các giải pháp kiểm soát ô nhiễm Cd trong sản xuất nông nghiệp
đặc biệt đối với đất trồng rau.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Xác định, đánh giá hàm lượng Cd trong một số nhóm đất
chính phục vụ sản xuất nông nghiệp Việt Nam, mối quan hệ của Cd
trong đất và Cd tích luỹ trong cây trồng dưới tác động của thâm canh
sản xuất nông nghiệp, chất thải công nghiệp, đô thị, làng nghề.
- Xác định mức độ ảnh hưởng của các ngưỡng Cd trong đất
đến sinh trưởng, năng suất, Cd tích luỹ trong rau ăn lá (cải mơ, rau
muống) trên đất phù sa sông Hồng và đất xám bạc màu Việt Nam.

3


3. Ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
- Đề tài góp phần xác định một cách có hệ thống hiện trạng
Cd trong một số nhóm đất chính (đất xám, đất phù sa, đất đỏ vàng và
đất cát) theo phân loại Việt Nam, cung cấp cơ sở khoa đề xuất các
tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc gia về sản xuất nông nghiệp.
- Chỉ ra được những tác động, áp lực của công nghiệp, chất
thải đô thị, đầu tư thâm canh sản xuất nông nghiệp… đến tích luỹ và
gây ô nhiễm Cd trong đất sản xuất nông nhiệp, khuyến cáo được

những tác động của ô nhiễm Cd trong đất đến chất lượng nông sản,
môi trường và sức khoẻ con người, tìm hiểu giải pháp làm giảm quá
trình ô nhiễm Cd trong đất trồng trọt.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đã xác định được ảnh hưởng của hàm lượng Cd trong
đất đến sinh trưởng, phát triển của cây rau ăn lá (cải mơ, rau muống),
tích lũy Cd trong cây trồng trên 02 loại đất chính (đất xám bạc màu,
đất phù sa sông Hồng) cung cấp cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện
các tiêu quẩn, quy chuẩn quốc gia về môi trường đất, góp phần xác
định vùng sản xuất rau an toàn đặc biệt đối với nhóm đất phù sa và
đất bạc màu của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng đất: Đất phù sa, đất xám, đất đỏ vàng, đất cát.
Trong đó lựa chọn đất xám bạc màu và đất phù sa sông Hồng làm
đối tượng nghiên cứu về ô nhiễm Cd trong điều kiện thí nghiệm.
- Đối tượng cây trồng: lúa, khoai lang, đậu xanh, ớt, rau
muống và một số loại rau phổ biến khác. Trong đó lựa chọn cải mơ
và rau muống làm đối tượng nghiên cứu về ảnh hưởng của Cd trong
đất đến Cd tích luỹ trong cây trồng trong điều kiện thí nghiệm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu đánh giá hiện trạng hàm lượng Cd tổng số

4

Formatted:  Line  spacing:    multiple  1,2  li

Deleted:  Cd trong đất



trong một số loại đất chính (đất xám, đất phù sa, đất cát, đất đỏ) được
nghiên cứu trên phạm vi toàn lãnh thổ Việt Nam.
- Nghiên cứu tác động của sản xuất nông nghiệp và chất thải
từ các hoạt động công nghiệp, làng nghề, đến tích luỹ Cd trong một
số đối tượng cây trồng (cây lương thực, cây thực phẩm) tại một số
tỉnh trọng điểm.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của Cd trong đất đến sinh trưởng và
tích luỹ Cd trong cây rau ăn lá (cải mơ, rau muống) trên hai nhóm
đất chính (đất phù sa sông Hồng, đất xám bạc màu) Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận án về học thuật và lý luận
- Luận án, là công trình nghiên cứu định lượng có hệ thống
đầu tiên công bố về Cd trong một số loại, nhóm đất chính theo phân
loại đất Việt Nam sử dụng trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
- Đã xác định được mối quan hệ giữa Cd trong đất và cây
trồng, khả năng nhiễm độc, tích luỹ của Cd trong cây rau ăn lá, cũng
như những tác động của Cd trong đất đối với sinh trưởng và phát
triển của cây rau ăn lá trên đất phù sa sông Hồng và đất xám bạc màu
ở Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là cơ sở khoa học cho việc
xác định những công nghệ xử lý ô nhiễm Cd trong các vùng đất
trồng rau trọng điểm, qui hoạch vùng rau sạch, hữu cơ; các giải pháp
nhằm giảm thiểu ô nhiễm Cd trong đất cũng như các giải pháp nhằm
giảm thiểu tích luỹ Cd đối với cây trồng ở những khu vực có nguy cơ
ô nhiễm đất sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay và trong
tương lai.
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cadimi và một số ứng dụng
Cadimi tên La tinh là Cadmium, ký kiệu hoá học (Cd), Cd sử
dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo lò phản ứng, công nghệ hàn,
mạ kim loại, chế tạo sơn màu vàng, sản xuất pin, acquy, dùng mạ

kim loại, đồ trang sức, đồ chơi...

5

Formatted:  Line  spacing:    multiple  1,2  li


1.2. Độc tính của Cd trong thực vật
Cd không phải là yếu tố dinh dưỡng cho cây trồng vì vậy khi
xâm nhập vào cây trồng gây nên kìm hãm sự sinh trưởng, phát triển.
Cd ở nồng độ 2,5 - 4mg/kg đất khô, nồng độ này làm cho năng suất
lúa mỳ giảm 21%, tỷ lệ nảy mầm của ngô giảm 28% (Phạm Quang
Hà, 2001). Bệnh nhiễm đốm lá, cuộn lá và còi cọc là các triệu chứng
ngộ độc Cd chính và dễ thấy ở thực vật. Bệnh vàng lá có thể xuất
hiện là thiếu Fe (Haghiri, 1973), thiếu phốt pho hoặc giảm vận
chuyển Mn (Godbold and Hutterman, 1985). Sự ức chế gây ra bởi Cd
dẫn đến thiếu Fe (II) và nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến quang hợp
(Alcantara et al., 1994). Cd làm giảm sự hấp thu, vận chuyển và sử
dụng một số nguyên tố (Ca, Mg, P, K) và nước trong thực vật (Das P
et al., 1997). Cd cũng làm giảm sự hấp thụ nitrat và vận chuyển của
nó từ rễ sang chồi (Hernandez et al., 1996). Cd còn ảnh hưởng đến
sự cố định nitơ và đồng hóa amoniac trong các nốt của cây đậu tương
(Balestrasse et al., 2003). Mức độ ảnh hưởng của Cd đối với cây
trồng phụ thuộc vào nồng độ trong đất, pH, khả năng oxi hóa khử,
nhiệt độ và nồng độ của các nguyên tố khác trong đất (Clarkson and
Luttge, 1989; Rivetta et al., 1997).
1.3. Độc tính của Cd đối với sinh vật và môi trường sinh thái
Các hợp chất của Cd trong nước, không khí, trong dung dịch
và trong thức ăn đều gây độc. Trong không khí, nồng độ Cd tối đa
cho phép là 0,1mg/m3. Với động vật, liều chết chắc chắn là 210mg

Cd/kg thể trọng. Theo Báo cáo của Bộ Môi trường Canada (1997),
Cd ảnh hưởng đến vi sinh vật đất, ảnh hưởng khá rõ nét đến quá trình
sinh trưởng của một số chủng vi sinh vật có lợi. Theo Phạm Khắc
Hiếu (1998), vật nuôi và động vật hoang dã có thể bị ngộ độc Cd khi
ăn phải thức ăn giàu Cd, mức độ độc hại tuỳ theo loài, tuổi và trọng
lượng cũng như phụ thuộc vào cả các cation khác trong thức ăn.

6


1.4. Độc tính của Cd đối với con người
Cadimi xâm nhập vào cơ thể và làm mất hoạt tính của nhiều
enzim do ion Cd2+ có ái lực mạnh đối với các phân tử có chứa nhóm
-SH và -SCH3 của các enzim. Khi nhiễm độc Cd, con người có thể bị
nôn mửa, tiêu chảy hoặc có thể bị co giật, các bệnh về xương, gan
thận, tim mạch, tỷ lệ ung thư tiền liệt tuyến và ung thư phổi cũng khá
lớn ở nhóm người thường xuyên tiếp xúc với chất độc này.
1.5. Nguồn gây ô nhiễm Cadimi trong đất nông nghiệp
Nguồn ô nhiễm Cd từ tự nhiên và khí quyển: Cd trong đất
thông qua khí quyển, chất thải công nghiệp, nông nghiệp và bản thân
đất có sẵn (đá mẹ). Cd trong đất tồn tại ở các dạng rất khác nhau (pha
khoáng, pha hữu cơ, tự do…). Cd được cây trồng hấp thụ qua con
đường sinh dưỡng và trao đổi chất.
Nguồn ô nhiễm Cd từ hoạt động sản xuất nông nghiệp: Sử
dụng phân bón, thuốc BVTV qua nhiều năm cũng gây nên sự tích luỹ
Cd trong đất. Trong các loại phân bón sử dụng trong sản xuất nông
nghiệp, phân bón photphat vô cơ là nguồn cung cấp nhiêu Cd và các
KLN khác vào đất. Đá photphat ở Senegal và Togo chứa hàm lượng
Cd lớn nhất, vào khoảng 160-255 gCd/ tấn P2O5 (Alloway, 1990).
Phân photphat với hàm lượng Cd trung bình khoảng 7 µg/g sẽ đóng

góp vào khoảng 660 tấn Cd vào đất trên toàn thế giới thông qua hoạt động
sử dụng phân photphat trong sản xuất nông nghiệp (Williams, 1985).
Nguồn ô nhiễm Cd từ hoạt động công nghiệp và chất thải: Ở
các khu vực khai thác mỏ và công nghiệp hàm lượng Cd trong đất rất
cao, từ 2-336 mg/kg đối với khu vực khai thác mỏ và từ 1,8 1500mg/kg đối với khu vực tác động công nghiệp. Khu vực ven đô
thị có hàm lượng Cd từ 0,02-17 mg/kg và trong nước tưới và phân
bón là 0,4-167 mg/kg. Các khu vực bị tác động bởi chất thải đô thị có
mức độ ô nhiễm Cd thấp hơn ở các khu vực khai thác mỏ và tác động
của công nghiệp (Alina Kabata, 2010). Liu, Yizhang, (2013) nghiên

7


cứu về Cd trong đất từ một khu vực khai thác than, cho thấy trong
khu vực nghiên cứu, đất canh tác chứa hàm lượng Cd từ 0,42–
42 mg/kg trong khi đó trong các khu vực không chịu tác động, hàm
lượng Cd chỉ đạt từ 0,12–8,5 mg/kg, như vậy hoạt động nông nghiệp,
khai thác than làm tăng đáng kể hàm lượng Cd trong đất. Nghiên cứu
của Nguyễn Bích Thu và cộng sự, (1997) tưới nước thải công nghiệp
dệt và công nghiệp bột giặt, sự tích luỹ Cd trong cây cải ngọt cao
hơn, như vậy ảnh hưởng của chất thải công nghiệp đã là những
nguyên nhân chính gây tích luỹ Cd trong đất và sản phẩm cây trồng.
1.6. Tổng quan đất Việt Nam và một số nghiên cứu về Cadimi
trong đất, cây trồng và môi trường ở Việt Nam
1.6.1. Một số loại đất chính sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
Các loại đất sử dụng trong nông nghiệp hiện nay chủ yếu là
đất phù sa, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất cát biển, đất mặn và
đất phèn (Lê Văn Khoa, Lê Đức, 2014).
1.6.2. Một số kết quả nghiên cứu về Cadimi trong đất, cây trồng và
môi trường ở Việt Nam

* Cadimi trong đất: Theo tác giả Phạm Quang Hà và các
cộng sự (2007), Cd trong các nhóm đất của Việt Nam rất biến động,
phụ thuộc loại đất và vùng sinh thái. Cd trung bình thấp nhất ở đất
cát biển, cao nhất ở nhóm đất mặn. Đất phù sa ở một số địa điểm tại
Hà Nội, hàm lượng Cd trong đất đều nằm dưới ngưỡng QCVN 03MT:2015/BTNMT cho phép đối với đất sản xuất nông nghiệp (Lê
Đức, 1994). Theo kết quả nghiên cứu của đề tài ACIAR, Viện Thổ
nhưỡng Nông hoá (2005), hàm lượng Cd tích lũy trong đất ở 3 huyện
Gia Lâm, Đông Anh và Từ Liêm rất khác nhau nhưng vẫn nằm trong
ngưỡng an toàn đối với đất sản xuất nông nghiệp. Theo Nguyễn Đình
Mạnh (2004), môi trường đất Hà Nội bị ô nhiễm theo 3 khu vực: khu
vực 1 bị ô nhiễm thuỷ ngân (Hg, Cd, Pb) bao gồm (Thanh Trì, Lĩnh
Nam, Trần Phú, Yên Sở, Yên Mỹ). Khu vực 2 chủ yếu bị nhiễm bẩn

8


Hg bao gồm các điểm phía đông đường 1A. Khu vực 3 bao gồm phía
Bắc Thanh Trì xuống thị trấn Văn Điển, Vĩnh Quỳnh, Ngọc Hồi, đất
bị nhiễm bẩn Cd và Pb.
Theo Nguyễn Xuân Hải (2009), đất và bùn ở các ruộng ngập
nước và mương tưới tại Vân Nội và Vĩnh Quỳnh (Thanh Trì) đã có
dấu hiệu cảnh báo ô nhiễm Cd. Theo nghiên cứu của Bùi Lan Hương
và các cộng sự (2012), tại một số vùng trồng rau trọng điểm của Hà
Nội (Đông Anh, Thanh Trì, Mê Linh) và Vĩnh Phúc, kết quả cho
thấy 733/733 (100%) mẫu đất đều phát hiện có Cd.
* Cadimi trong rau: Theo Nguyễn Đình Mạnh và cộng sự
(2004), khu vực Đông Anh và Gia Lâm một số loại rau gia vị bị
nhiễm bẩn nhẹ Cd; khu vực Thanh Trì bị nhiễm bẩn Cd và một số
nguyên tố như Pb, Hg, thậm chí có những mẫu rau có hàm lượng Cd
vượt quá 5 lần tiêu chuẩn cho phép. Nghiên Nguyễn Thị An Hằng

(1998), hàm lượng Cd trong các loại rau ở 2 Khu vực Văn Điển và
Hanel dao động từ 0,0007 - 0,0125ppm, thấp hơn Tiêu chuẩn của
WHO. Theo Nguyễn Đình Mạnh và nnk (1999) khi nghiên cứu hàm
lượng Cd và Pb trong rau vùng ven Hà Nội cho thấy: hàm lượng Cd
trong bắp cải, cải xanh, cải bao có hàm lượng Cd từ 0,009-0,019ppm.
Hàm lượng Cd trong một số loại rau ăn quả là 0,009-0,014ppm; hàm
lượng Cd trong một số loại rau ăn thân và ăn củ từ 0,009-0,014ppm
và trong nhóm rau gia vị có hàm lượng Cd từ 0,009-0,028ppm.
* Một số loài thực vật có khả năng hút Cd: Một số thực vật
có khả năng hút và tích luỹ tốt KLN (Cu, Zn, Pb, Cd) từ đất, nước
như (Sậy, cỏ Vectiver, Bèo tây, Rau umống, rau ngổ, dừa nước) đã
cho thấy nhiều tiềm năng và triển vọng trong việc ứng dụng công
nghệ sinh học trong xử lý đất và nước bị ô nhiễm KLN (Anh B.T.K,
và nnk, 2014).
Theo Trần Kông Tấu và cộng sự (2005) đã tìm hiểu khả năng
tích Cd và Zn của 9 loài cây cảnh phổ biến (cúc susi, ngũ gia bì, tía

9


tô cảnh, thanh táo, dâm bụt, tai tượng, ngâu, trúc đào và thiên thanh)
cho thấy: Các loại cây có triển vọng cho mục đích xử lý đất ô nhiễm,
riêng cúc susi và ngũ gia bì là 2 loại cây có hàm lượng tích tụ cao và
có triển vọng cho xử lý đất ô nhiễm Cd và Zn. Theo Hồ Thị Lam Trà
và cộng sự, (2000), cải bắp tích lũy Cd tăng dần theo % lượng bùn
bón vào, với tỷ lệ bón 50% bùn, hàm lượng Cd trong rau tăng gấp 9
lần tiêu chuẩn cho phép và gấp 2 lần so với đối.
1.7. Tổng quan một số nghiên cứu về Cadimi trong đất, cây trồng
và môi trường trên thế giới
Theo Rietra, R. P. J. J và cộng sự (2017), khoảng 55% tổng

lượng Cd trong thức ăn liên quan đến Cd trong đất. Theo M. J.
McLaughlin, (1996), hàm lượng Cd trong đất mặt tại Hà Lan và Tây
Ban Nha cho kết quả khá cao 1,70-1,76ppm. Cd trong đất phụ thuộc
rất lớn vào hàm lượng Cd trong mẫu chất hình thành đất; Cd trung
bình trong đá bazơ là 0,13 mg/kg, đá axit là 0,09, trầm tích là 0,17
mg/kg, trong vỏ phong hoá là 0,11 mg/kg; khoảng dao động của hàm
lượng Cd trong mẫu chất là 0,01-2 mg/kg (Lindsay, 1979). Theo
McLaughlin (1996), nguy cơ bị nhiễm bẩn Cd từ phân bón là rất cao,
nhất là trong phân lân được sản xuất từ quặng phốt phát; Cd trong
quặng phốt phát khu vực tây Mỹ từ 60-340ppm, Nga là 0,2ppm,
Trung Quốc là 5ppm. Đất nông nghiệp không sử dụng phân bón có
hàm lượng Cd từ 0,05-0,97mg/kg và đất nông nghiệp có sử dụng
phân bón có hàm lượng Cd cao hơn đạt > 0,09 mg/kg.
Một số loại cây trồng có khả năng hấp thụ rất mạnh Cd trong
đất như (cỏ doi ngựa, cây bong nước, cẩm chướng, mào gà, ngũ tinh
có khả năng hấp thu Cd từ đất đạt từ 50-56gCd/ha/năm (A.Elliott and
P.Hoang, 1996). Theo Li Xiong, et al, (2016), củ cải có khả năng tích
lũy Cd cao. Theo De Oliveira, Vinicius Henrique, và nnk (2016),
tăng pH đất bằng cách bón vôi là phương pháp hiệu quả trong việc
làm giảm độc tính Cd trong sự phát triển của cây con.

10


CHƯƠNG 2: VẬT LIỆU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
2.1.1. Đất thí nghiệm: Các nghiên cứu dựa trên cơ sở phân tích hàm
lượng Cd tổng số trong 194 mẫu đất xám, 273 mẫu đất phù sa, 253 mẫu
đất đỏ vàng và 200 mẫu đất cát. Bố trí thí nghiệm độc tính của Cd trên
nền đất phù sa sông Hồng, đất xám bạc màu.

2.1.2. Cây trồng thí nghiệm: Cây trồng nghiên cứu sự tích lũy Cd: một
số loại cây lương thực, cây thực phẩm (thóc, lạc, rau muống, khoai lang,
ớt). Bố trí thí nghiệm nghiên cứu độc tính Cd với rau muống, cải mơ.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm lấy mẫu đất, cây trồng: Tại các vùng sản xuất
nông nghiệp tại một số tỉnh thành trên phạm vi cả nước.
- Địa điểm tiến hành thí nghiệm trong chậu: Khu vực thí
nghiệm Viện Môi trường Nông nghiệp (MTNN), Phú Đô, Nam Từ
Liêm, Hà Nội.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu: Từ 2013 đến 2018
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Nội dung 1: Đánh giá hàm lượng Cd trong một số loại đất
chính sản xuất nông nghiệp Việt Nam (đất xám, đất phù sa, đất đỏ
vàng, đất cát) theo nguồn gốc phát sinh, theo vùng sinh thái phân bố.
- Nội dung 2: Đánh giá tương quan hàm lượng Cd trong đất
và cây trồng (cây lương thực, cây thực phẩm) do sản xuất nông
nghiệp và tác động chất thải (công nghiệp, đô thị, làng nghề).
- Nội dung 3: Xác định mức độ ảnh hưởng hàm lượng Cd
trong đất đối với động thái tích luỹ Cd trong rau ăn lá (cải mơ, rau
muống) trên đất phù sa sông Hồng và đất xám bạc màu.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp lấy mẫu đất, mẫu cây trồng và xử lý mẫu
* Phương pháp lấy mẫu

11


- Mẫu đất: lấy tầng canh tác ở độ sâu 0-30 cm, điểm lấy mẫu
cách xa khu dân cư và đường quốc lộ, dụng cụ lấy mẫu bằng inox.

- Mẫu cây trồng: Lấy phần con người sử dụng, khối lượng
khô khoảng 15g.
* Phương pháp xử lý mẫu
- Mẫu đất: nghiền nhỏ và rây qua rây nhôm 2mm.
- Mẫu cây trồng: rửa sạch bằng nước cất hai lần, để ráo, phơi
khô không khí, sấy ở nhiệt độ 40oC, nghiền nhỏ phục vụ phân tích.
2.4.2. Phương pháp thí nghiệm trong chậu
* Thí nghiệm 1: Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của một
số ngưỡng Cd trong đất phù sa sông Hồng đến cải mơ và rau muống
Bảng 2.1. Công thức thí nghiệm và hàm lượng Cd nghiên cứu trên
nền đất phù sa
Công thức

CT1
(đối chứng)

CT2

CT3

CT4

CT5

Hàm lượng Cd (mg/kg
1
2
3
4
6

đất) trong đất
+ Bố trí thí nghiệm: Theo khối ngẫu nhiên với 05 công thức
và 03 lần lặp lại; bố trí trong thùng xốp, kích thước 50 x 30 cm.
+ Phân bón và muối kim loại nặng chứa Cd: chỉ sử dụng
phân hoá học, bón theo mức bón của nông dân; sử dụng CdCl2.5H2O
tinh khiết để bón lây nhiễm Cd trong đất.
* Thí nghiệm 2: Nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của một số
ngưỡng Cd trong đất xám bạc màu đến cải mơ và rau muống
Bảng 2.3. Công thức thí nghiệm và lượng Cd nghiên cứu trên đất
xám bạc màu
Công thức
CT1
CT2
CT3 CT4 CT5
(đối chứng)
Hàm lượng Cd (mg/kg
0,04
2
3
4
6
đất) trong đất

12


+ Bố trí thí nghiệm: Theo khối ngẫu nhiên với 05 công thức
và 03 lần lặp lại; bố trí trong thùng xốp, kích thước 50 x 30 cm, khối
lượng đất thí nghiệm 20 kg/ chậu.
+ Phân bón và muối kim loại nặng chứa Cd: chỉ sử dụng

phân hoá học, bón theo mức bón của khuyễn nông; sử dụng
CdCl2.5H2O tinh khiết để bón lây nhiễm Cd trong đất.
2.4.3. Phương pháp phân tích
Phân tích Cd trong đất và cây trồng: TCVN 6496-99.
2.4.4. Phương pháp xử lý số liệu
- Số liệu Cd trong đất và cây trồng được xử lý: Số trung vị
(Me, Median), nhỏ nhất (min), lớn nhất (max), trung bình ( m ), độ
lệch chuẩn (Std), khoảng tin cậy (Confidence Interval, CI) của giá trị
trung bình (m), phân bố chuẩn (Normal distribution). Các số liệu
năng suất, xử lý Excel, GenStat 2013.
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Đánh giá hàm lượng Cadimi trong một số nhóm đất chính
sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam
3.1.1. Cd trong nhóm đất phù sa Việt Nam
Bảng 3.2. Hàm lượng Cd (mg/kg) trong đất phù sa
Thông số
thống kê

Nhóm
đất
phù sa

Số mẫu

273

Nhỏ nhất

Đất phù sa hệ thống sông
Hồng


Cửu
Long



Lam

47

91

16

20

86

0,01

0,133

0,010

0,045

0,035

0,200


khác

Lớn nhất

1,7

1,600

1,620

1,250

1,100

1,700

Trung bình

0,567

0,769

0,53

0,371

0,315

0,620


Độ lệch chuẩn

0,401

0,411

0,442

0,441

0,387

0,263

m , 95% <

0,519 0,615

0,6730,914

0,438 0,622

0,1630,606

0,1340,496

0,5640,677

<


13


Hàm lượng Cd tích luỹ trong đất ở nhóm đất phù sa dao
động trong khoảng 0,519-0,615 mg/kg ; Cd trong đất tại đồng bằng
sông Hồng có kết quả cao nhất, trung bình đạt 0,769 mg/kg; Cd trung
bình trong đất phù sa sông sông Mã và sông Lam thấp nhất trong các
loại đất nghiên cứu. Hàm lượng Cd trong đất có xu hướng tích luỹ
chủ yếu ở tầng mặt (0-30 cm) và giảm dần theo chiều sâu của phẫu
diện đất nghiên cứu (0-30 ; 30-80 ; 80-120cm).
3.1.2. Cd trong nhóm đất xám Việt Nam
Bảng 3.8. Hàm lượng Cd (mg/kg) trong đất xám Việt Nam

Số mẫu

67

11

43

13

37

Đất
xám
bạc
màu
trên

sản
phẩm
dốc tụ
10

Nhỏ nhất

0,05

0,03

0,2

0,33

0,03

0,08

Thông số
thống kê

Đất
xám
trên
phù sa
cổ

Đất
xám

trên
phù sa
cổ có
tầng
loang lổ

Đất
xám
bạc
màu
trên
phù sa
cổ

Đất xám
trên phù
sa cổ có
thành
phần cơ
giới nhẹ

Đất
xám
trên đá
granít

Đất
xám
trên đá
macma

axít
14
0,08

Lớn nhất

1,11

0,78

1,31

1,0

0,82

0,49

0,43

Trung bình

0,426

0,420

0,456

0,638


0,270

0,292

0,274

Độ lệch chuẩn
<

m , 95% <

0,228

0,256

0,188

0,206

0,148

0,139

0,098

0,37 -

0,25 -

0,40 -


0,51 -

0,22 -

0,19 -

0,22 -

0,48

0,9

0,51

0,76

0,32

0,39

0,33

Hàm lượng Cd trong đất xám đạt từ 0,003-0,850 mg/kg. Ở
mức tin cậy 95 %, trung bình hàm lượng Cd trong các loại đất xám ở
Việt Nam dao động trong khoảng 0,19-0,76 mg/kg. Cd lớn nhất

14



trong đất xám trên phù sa cổ có thành phần cơ giới nhẹ và thấp nhất
trong đất xám trên đá granit. Cd trong đất xám là rất thấp, Cd có xu
hướng tích luỹ chủ yếu ở tầng mặt của phẫu diện đất và giảm dần ở
độ sâu 30-80 cm, 80-120 cm.
3.1.3. Cd trong nhóm đất đỏ vàng ở Việt Nam
Bảng 3.10. Hàm lượng Cd (mg/kg) trong đất đỏ vàng ở Việt Nam
Phân theo vùng sinh thái

Nhóm đất

Thông số

đỏ vàng ở

Miền núi

Miền

Tây

Miền đông

Việt Nam

phía Bắc

Trung

Nguyên


Nam bộ

Số mẫu

253

49

49

134

21

Nhỏ nhất

0,01

0,65

1,50

0,01

2,63

thống kê

Lớn nhất


3,95

3,75

3,43

3,95

3,93

Trung bình

2,08

2,06

2,71

1,66

3,33

Độ lệch chuẩn

1,20

0,63

0,35


1,40

0,37

1,93-2,23

1,88-2,24

2,61-2,81

1,42-1,90

3,16-3,50

<

m , 95% <

Hàm lượng Cd rất cao, dao động 0,01-3,95 mg/kg, trung
bình đạt 2,08 mg/kg vượt quá giới hạn 1,5mg/kg của QCVN 03MT :2015/BTNMT. Cd trong đất đỏ Đông Nam Bộ đạt cao nhất.
95% của giá trị trung bình hàm lượng Cd trong đất dao động trong
khoảng từ 3,16 -3,50 mg/kg, trung bình là 3,33 mg/kg cao hơn gấp
1,22 lần so với QCVN 03-MT :2015/BTNMT. Kết quả phân tích trên
23 phẫu diện đất đỏ vàng ở Việt Nam cho thấy, hàm lượng Cd cao
nhất ở tầng 0-30 cm và giảm dần ở các tầng 30-80cm và tầng 80-120
cm, tuy nhiên kết quả đánh giá hàm lượng Cd ở tầng sâu hơn 120 cm
hàm lượng Cd có xu hướng tăng.

15



3.1.4. Cd trong nhóm đất cát Việt Nam
Bảng 3.13. Hàm lượng Cd (mg/kg đất) trong đất cát
Thông số
thống kê

Nhóm
đất cát
Việt
Nam

Vùng sinh thái

Số mẫu

209

14

Bắc
Trung
bộ
110

56

29

Nhỏ nhất


0,03

0,09

0,03

0,11

0,15

Đông bắc

Nam
Trung bộ

Nam bộ

Lớn nhất

1,29

0,43

0,72

0,39

1,29

Trung bình


0,28

0,23

0,28

0,22

0,38

Độ lệch chuẩn

0,16

0,11

0,15

0,07

0,26

0,26-0,30

0,16-0,29

0,25-0,30

0,20-0,23


0,28-0,48

<

m , 95% <

Hàm lượng Cd trong đất cát biển Việt Nam ở mức thấp,
trung bình đạt 0,28 mg/kg. Ở khoảng tin cậy với mức 95% của giá trị
trung bình, Cd (mg/kg) trong nhóm đất cát Việt Nam là 0,26 - 0,30
mg/kg. Cd đạt cao nhất trong các mẫu đất cát ở khu vực Nam Bộ
(0,38 mg/kg) và thấp nhất ở khu vực Đông Bắc (0,23 mg/kg). Các
mẫu đất cát nghiên cứu được coi là sạch đối với chỉ tiêu Cd.
3.1.5. Cd trong đất ở một số vùng có nguy cơ ô nhiễm do tác động
của chất thải
Nghiên cứu hàm lượng Cd trong đất tại một số vùng có nguy
cơ ô nhiễm do tác động của chất thải cho thấy: đất tại các điểm trồng
rau vẫn được coi là sạch, hầu hết các mẫu đất nghiên cứu đều có hàm
lượng Cd nằm dưới ngưỡng QCVN 03-MT:2015/BTNMT cho phép
đối với đất nông nghiệp. Cd trong đất tại các điểm nghiên cứu vùng
ngoại ngoại ô thành phố Hà Nội dao động trong khoảng 0,015-2,500
mg/kg, trong đó có một số điểm hàm lượng Cd vượt quá QCVN 03MT:2015/BTNMT cho phép đối với đất nông nghiệp. Tuy nhiên,
hiện tượng tích luỹ Cd trong đất chỉ mang tính cục bộ, nguyên nhân
do chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nguồn thải công nghiệp và sinh
hoạt từ thành phố Hà Nội.

16

Formatted:  Line  spacing:    multiple  1,2  li



3.2. Hàm lượng Cd trong một số loại cây trồng chính ở Việt Nam
3.2.1. Hàm lượng Cd tích luỹ trong rau tại một số vùng ở Việt Nam
Nhóm rau ăn lá (húng quế, hành tây, mùng tơi, một số rau họ
cải…): Hàm lượng Cd tồn dư từ 0,02 đến 0,4 mg/kg rau khô. Đối với
rau lang, hàm lượng Cd tích luỹ trung bình là 0,15 mg/kg rau khô;
hàm lượng Cd trong rau muống trung bình là 0,2 mg/kg rau khô.
Nhóm rau ăn củ: Cd dao động từ 0,01 – 0,62 mg/kg rau khô. So sánh
đánh giá hàm lượng Cd tồn dư trong các nhóm rau nghiên cứu cho
thấy trung bình Cd tích luỹ trong rau ăn củ đạt cao nhất (0,21 mg/kg
khô), tiếp theo là trong rau muống (0,20 mg/kg khô), hàm lượng Cd
trong rau ăn lá và rau khoai lang thấp nhất trong các nhóm rau
nghiên cứu.
3.2.2. Cd trong nhóm cây lương thực tại một số vùng ở Việt Nam
Hàm lượng Cd tồn dư trong thóc dao động 0,01 - 1,58 mg/kg
khô. Hàm lượng Cd tồn dư trong khoai lang dao động 0,02 - 0,1 mg/kg.
3.2.3. Cd trong nhóm cây thực phẩm tại một số vùng ở Việt Nam
Hàm lượng Cd tồn dư trong lạc từ 0,02 đến 0,24 mg/kg, hàm
lượng Cd trong đất trồng lạc động từ 0,02 đến 0,17 mg/kg đất khô.
Cd tồn dư trong ớt từ 0,05 đến 1,17 mg/kg khô. Hàm lượng Cd trong
ớt và đất trồng ớt có xu hướng cao hơn Cd tích luỹ trong lạc và đất
trồng lạc tại các điểm nghiên cứu.
3.3. Mối quan hệ giữa Cd trong đất và cây trồng dưới các loại
hình tác động khác nhau
3.3.1 Mối quan hệ Cd trong đất và cây trồng dưới tác động của
thâm canh nông nghiệp
Mối quan hệ giữa hàm lượng Cd trong đất và cây trồng, được
tổng hợp nghiên cứu trên tổng số 187 cặp mẫu đất và cây trồng, kết
quả nghiên cứu cho thấy, hàm lượng Cd trong đất tại các vùng sản
xuất nông nghiệp chưa ảnh hưởng đến khả năng tích luỹ Cd trong

một số sản phẩm cây trồng nghiên cứu (rau ăn củ, rau ăn lá, rau lang

17


lá, lạc, thóc). Hệ số tương quan giữa hàm lượng Cd trong đất và rau
ăn lá, đất và khoang lang củ, đất và thóc có giá thị rất, thấp điều này
chứng tỏ rằng nguyên nhân gây tích luỹ Cd trong rau ăn lá, khoai
lang củ, thóc không phải là từ đất mà từ các nguyên nhân khác.
3.3.2 Mối quan hệ hàm lượng Cd trong đất và cây trồng tại một số
vùng chịu ảnh hưởng của chất thải công nghiệp, đô thị và chất
thải làng nghề
Nghiên cứu trên tổng số 103 cặp mẫu (đất - cây trồng) trong
đó bao gồm 8 cặp đất – thóc; 11 cặp mẫu (đất – rau muống); 64 cặp
mẫu (đất – rau ăn lá) và 20 cặp mẫu (đất – rau ăn củ) được lấy tại
(Hà Nội, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí Minh). Kết quả tính toán
hệ số tương quan giữa đất và cây trồng cho thấy, hàm lượng Cd trong
đất ở các vùng nghiên cứu không có mối tương quan đến tích luỹ Cd
trong các sản phẩm cây trồng nghiên cứu, điều này có nghĩa là hàm
lượng Cd trong đất hiện nay ở các khu vực có nguy cơ ô nhiễm
không có những tác động rõ nét đến sự tích luỹ Cd trong sản phẩm
cây trồng. Tuy nhiên ở nhóm rau muống và thóc hệ số tương quan (r)
giữa Cd trong đất và cây trồng là khá lớn, gần ở mức có ý nghĩa
thống kê, tiềm ẩn nhiều rủi ro ô nhiễm Cd từ đất nếu không có những
biện pháp giảm thiểu lượng Cd tích luỹ trong đất trong thời gian tới.
3.4. Ảnh hưởng của các ngưỡng Cd trong đất đến tích luỹ Cd
trong rau ăn lá trên đất phù sa sông Hồng và đất xám bạc màu.
3.4.1. Một số tính chất hoá học, vật lý và kim loại nặng của đất thí
nghiệm
Kết quả phân tích đất xám trước thí nghiệm cho thấy đất có

độ chua trung tính, OC trong đất ở mức nghèo, thành phần cơ giới
thịt nhẹ, hàm lượng Cd trong đất là 0,04 mg/kg đất khô. Kết quả
phân tích phù sa sông Hồng trước thí nghiệm cho thấy đất có độ chua
trung tính, OC trong đất ở mức trung bình, thành phần cơ giới thịt
nhẹ đến trung bình, hàm lượng Cd trong đất là 1,0 mg/kg đất khô.

18


3.4.2. Ảnh hưởng của Cd trong đất đến sinh trưởng, năng suất của (cải
mơ, rau muống) trên đất xám bạc màu và đất phù sa sông Hồng
3.4.2.1. Trên đất phù sa sông Hồng
* Cải mơ: Hàm lượng Cd trong đất từ 1 - 6 mg Cd/kg đất, cải
mơ phát triển khá tốt, thậm chí phát triển tốt hơn so với công thức
đối chứng (Cd1); chiều cao trung bình của rau cải mơ đạt từ 18,5 –
22,4 cm; năng suất trung bình ở các công thức thí nghiệm dao động
từ 3,97-9,01 tấn tươi/ha; ở công thức có bón Cd, cải mơ cho năng
suất cao hơn so với công thức đối chứng.
* Rau muống: Hàm lượng Cd trong đất từ 1-6mgCd/kg đất,
không có tác động đến quá trình sinh trưởng của rau muống; chiều
cao cây ở các công thức đạt từ 43,83-58,3 cm; năng suất trung bình ở
các công thức đạt từ 16,53-21,33 tấn tươi/ha. So sánh về quá trình
sinh trưởng, chiều cao cây và năng suất cho thấy hàm lượng Cd bón
bổ sung vào đất không làm ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng cũng như
năng suất của rau muống trên đất phù sa sông Hồng.
3.4.2.2. Trên đất xám bạc màu
* Cải mơ: Hàm lượng Cd trong đất từ 0,04 mg - 6 mg Cd/kg
đất; cải mơ sinh trưởng và phát triển khá tốt; chiều cao trung bình
của rau cải mơ đạt 17,8 – 22,1cm; chiều cao trung bình đạt cao nhất
ở công thức Cd2 và thấp nhất ở công thức Cd5. Năng suất trung bình

ở các công thức thí nghiệm dao động 3,15-3,94 tấn tươi/ha, năng suất
trung bình của cải mơ ở 2 công thức có hàm lượng Cd cao (Cd4 và
Cd5) cho thấy năng suất thấp hơn so với các công thức còn lại.
* Rau muống: Kết quả cho thấy, chiều cao trung bình của
rau muống dao động 35 – 39,3 cm; năng suất trung bình ở các công
thức đạt 8,0-12,5 tấn tươi/ha. So sánh chiều cao cây và năng suất cho
thấy ở các mức bón Cd không làm ảnh hưởng xấu đến chiều cao
cũng như năng suất của rau muống trên đất phù sa sông Hồng.

19


3.4.3. Ảnh hưởng của Cd trong đất đến tích luỹ Cd trong cải mơ, rau
muống trên đất phù sa sông hồng và đất xám bạc màu Việt Nam.
3.4.3.1. Ảnh hưởng của Cd trong đất đến tích luỹ Cd trong cải mơ,
rau muống trên đất phù sa sông hồng
Bảng 3.28. Cd trong đất và cải mơ trên đất phù sa sông Hồng
Công thức
thí nghiệm

Cd trong đất
(mg/kg đất khô)

Cd (mg/kg rau
tươi)

Cd1

1


0,008

Cd2

2

0,037

Cd3
Cd4

3
4

0,044
0,062

Cd5

6

0,088

Hàm lượng Cd tồn dư trong cải mơ tăng dần từ 0,008 mg
đến 0,088 mg Cd/kg rau cải tươi; như vậy hàm lượng Cd trong đất ở
các công thức thí nghiệm đã có tác động làm gia tăng sự tích luỹ Cd
trong rau cải mơ trên đất phù sa sông Hồng ở mức 99% (P=0,01). Cd
trong cải mơ ở tất cả các công thức thí nghiệm ở ngưỡng an toàn theo
quy định của Bộ Y tế (TT 22/2011-BYT) là 0,2 mg Cd/kg rau tươi
Bảng 3.29. Cd trong đất và rau muống trên đất phù sa sông Hồng

Công thức thí
nghiệm
Cd1

Cd trong đất
(mg/kg đất khô)
1

Cd2

2

0,045

Cd3

3

0,058

Cd4

4

0,074

Cd5

6


0,096

Cd (mg/kg rau tươi)
0,007

Ở công thức không bón Cd trong đất phù sa, hàm lượng Cd
tích luỹ đạt từ 0,007 – 0,96 mg/kg rau tươi; hàm lượng Cd trong đất
ở các công thức thí nghiệm đã có tác động làm gia tăng sự tích luỹ

20


Cd trong rau muống trên đất phù sa sông Hồng ở mức 99% (P=0,01).
Tuy nhiên Cd trong rau muống ở tất cả các công thức thí nghiệm vẫn
ở ngưỡng an toàn theo quy định của Bộ Y tế (TT 22/2011-BYT)
3.4.3.2. Ảnh hưởng của Cd trong đất đến tích luỹ Cd trong cải mơ,
rau muống trên đất xám bạc màu.
Bảng 3.30. Hàm lượng Cd trong đất và cải mơ trên xám bạc màu
Công thức thí
Cd trong đất
Cd (mg/kg rau tươi)
nghiệm
(mg/kg đất khô)
Cd1
0,04
0,011
Cd2
2
0,101
Cd3

3
0,129
Cd4
4
0,144
Cd5
6
0,175
Cd trong cải mơ đạt từ 0,011- 0,175mg/kg tươi; ở công thức
có mức bón Cd cao nhất (Cd5) hàm lượng Cd trong cải mơ đạt 0,175
mg Cd/kg rau tươi, tăng gần 16 lần so với đối chứng. Đánh giá tương
quan giữa hàm lượng Cd trong đất và rau cải mơ trên đất xám cho
thấy, Cd trong đất ở các công thức thí nghiệm đã có tác động làm gia
tăng sự tích luỹ Cd trong rau muống ở mức 95% (P=0,05).
Bảng 3.31. Hàm lượng Cd trong đất và rau muống trên đất
xám bạc màu
Công thức thí
Cd trong đất
Cd (mg/kg rau tươi)
nghiệm
(mg/kg đất khô)
Cd1
0,041
0,028
Cd2
2,080
0,104
Cd3
3,371
0,154

Cd4
4,142
0,217
Cd5
6,218
0,332
Với các mức Cd trong đất nghiên cứu, Cd tích luỹ trong rau
muống đạt các lần lượt là (0,104; 0,154; 0,217 và 0,332) mg Cd/kg
rau muống tươi. Cd trong rau ở công thức Cd4 và Cd5 có mức ô

21


nhiễm vượt quá quy định cho phép (TT 22/2011-BYT). Hàm lượng
Cd trong đất ở các mức nghiên cứu, có tác động làm gia tăng sự tích
luỹ Cd trong rau muống trên đất xám bạc màu ở mức 99% (P=0,01).
Đánh giá kết quả nghiên cứu hàm lượng Cd trong đất phù sa
sông Hồng và đất xám bạc màu trên 02 đối tượng cây trồng là cải mơ
và rau muống, kết quả cho thấy hàm lượng Cd trong đất đã tác động
rất lớn đến sự tích luỹ của Cd trong rau ở mức độ tương quan từ 95
đến 99%. Các kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với kết quả
nghiên cứu của dự án ACIAR/LWR/1998/119 và kết quả nghiên cứu
của (Bùi Lan Hương, 2015).
3.4.4. Ảnh hưởng của Cd trong đất đến vi sinh vật tổng số trên đất
phù sa sông Hồng và đất xám bạc màu
* Đất phù sa: Mật độ vi sinh vật tổng số trong đất trong các
công thức thí nghiệm đạt từ 6,55x106 đến 8,08x106 CFU/g đất. Hàm
lượng Cd trong đất ở các mức nghiên cứu từ 1 đến 4 mg/kg đất
không làm ảnh hưởng đến lượng vi sinh vật tổng số trong đất phù sa
sông Hồng. Tuy nhiên khi hàm lượng Cd trong đất ở mức (5 mg

Cd/kg và 6 mg Cd/kg đất), vi sinh vật tổng số có xu hướng giảm.
* Đất xám bạc màu: Mật độ vi sinh vật tổng số ở các công
thức thí nghiệm đạt từ 1,37x106 đến 4,08x106 CFU/g đất, đạt cao
nhất ở công thưc Cd3 và thấp nhất ở công thức Cd5. Kết quả nghiên
cứu trên đất xám cũng cho thấy ở các công thức Cd4 và Cd5 đã làm
cho vi sinh vật tổng số có hướng giảm trong đất.

22


KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Kết luận
1. Cd tích lũy trong đất ở tầng mặt và phẫu diện của nhóm
đất phù sa, đất xám ở Việt Nam còn ở mức thấp hơn nhiều so với
QCVN03-MT:2015/BTNMT đối với đất sản xuất nông nghiệp. Cd
trong nhóm đất cát có giá trị nhỏ nhất trong số các nhóm đất nghiên
cứu, tiếp theo là Cd trong đất xám và đất phù sa. Tuy nhiên kết quả
nghiên cứu hàm lượng Cd trong nhóm đất đỏ vàng là rất cao ở tất cả
các khu vực nghiên cứu, trung bình Cd trong nhóm đất đỏ vàng đạt
từ 2,06 đến 3,3 mgCd/kg đất, cao hơn so với QCVN 03MT:2015/BTNMT.
2. Trong các nhóm đất (cát, xám, phù sa), hàm lượng Cd
trong đất đều có xu hướng giảm dần theo chiều sâu của phẫu diện đất
nghiên cứu (0-30cm; 30 – 80cm; 80-120cm; > 120cm). Đối với đất
đỏ vàng, xu hướng tích lũy Cd theo chiều sâu của phẩu diện chưa rõ
ràng.
3. Các khu vực chịu ảnh hưởng của chất thải công nghiệp
của làng nghề, hiện tượng tích luỹ Cd trong đất cao hơn so với
QCVN03-MT:2015/BTNMT đối với đất sản xuất nông nghiệp đã
xảy ra cục bộ.
4. Không phát hiện tương quan chặt, phổ biến giữa Cd tổng

số trong đất và Cd tích luỹ trong một số cây trồng (cây ăn củ, rau ăn
lá, rau lang lá, lạc, thóc). Như vậy, nguyên nhân gây tích luỹ Cd
trong các đối tượng cây trồng nghiên cứu không phải là từ đất mà từ
các nguyên nhân khác (như nước tưới, phân bón...).
5. Ở các mức bón bổ sung Cd từ 2mg/kg đất đến 6mg/kg đất
chưa thấy có những tác động đến sinh trưởng, phát triển, chiều cao
cây và năng suất của cải mơ và rau muống, thậm chí còn cho thấy
năng suất ở các công thức bón Cd có dấu hiệu cao hơn ở công thức
không bón Cd.

23


6. Trên đất phù sa sông Hồng với các mức Cd trong đất tăng
từ 1 mg/kg đất - 6 mg/kg đất đã gây tích luỹ Cd trong cải mơ tăng từ
0,008 mg/kg rau tươi đến 0,088 mg/kg rau tươi; Cd trong rau muống
tăng từ 0,007 mg/kg rau tươi đến 0,096 mg/kg rau tươi. Trên đất xám
bạc màu với hàm lượng Cd tăng trong đất từ 0,04 mg/kg đất đến 6
mg/kg đất đã tác động làm tăng lượng Cd tích luỹ trong cải mơ từ
0,011 mg/kg đến 0,175 mg/kg rau tươi; Cd tích luỹ trong rau muống
từ 0,028 mg/kg rau tươi đến 0,332 mg/kg rau tươi.
Đề nghị
1. Cần thiết sửa đối QCVN 03-MT:2015/BTNMT của Bộ
Tài Nguyên và Môi trường về giới hạn tối đa cho phép đối với KLN
trong đất, cập nhật chi tiết hơn đối với đất sản xuất nông nghiệp theo
nhóm đất, vì hàm lượng Cd trong nhóm đất đỏ vàng ở nhiều điểm là
rất cao, trung bình Cd trong đất đỏ vàng vượt quá QCVN 03MT:2015/BTNMT nhưng không thấy có tương quan giữa Cd tổng số
trong đất với Cd tích luỹ trong sản phẩm của cây trồng.
2. Một số điểm nghiên cứu tại các khu vực chịu ảnh hưởng
của chất thải (công nghiệp, đô thị, làng nghề) hàm lượng Cd tích luỹ

trong đất vượt QCVN 03-MT:2015/BTNMT cho phép, đề nghị phải
tăng cường cảnh báo và có biện pháp quản lý nguồn ô nhiễm và xử
lý chất thải trước khi thải ra môi trường nhằm giảm thiểu các nguyên
nhân làm tích luỹ Cd trong đất.
3. Một số cây rau có thể tích lũy Cd cao, khi Cd trong môi
trường đất tăng không ảnh hưởng đến sinh khối, là yếu tố tiềm năng
gây hại lâu dài, vì hàm lượng Cd tích luỹ trong cây có thể ảnh hưởng
đến sức khoẻ của con người và vật nuôi. Để có những số liệu đầy đủ
hơn, cần thêm nghiên cứu dài hạn về tích lũy Cd với các đối tượng
cây trồng khác nhau cũng như đối với hoạt động sinh học trong đất
để đánh giá chính xác những tác động của Cd trong đất ở các dạng
khác nhau đến chất lượng nông sản và môi trường./.

24

Deleted:  


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN TIẾN SĨ
1.   Hà Mạnh Thắng, Phạm Quang Hà (2013), “Tổng quan hàm
lượng Cadimi trong một số nhóm đất chính Việt Nam và
cảnh báo ô nhiễm Cadimi trong đất tại một số khu vực chịu
tác động của chất thải”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, tháng 3, tr 91-95.
2.   Hà Mạnh Thắng, Nguyễn Thị Thắm, Hoàng Thị Ngân
(2015), “ Kết quả quan trắc môi trường đất Việt Nam giai
đoạn 2010-2014 và đề xuất nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020”,
Kỷ yếu hội nghị tổng kết Công tác bảo vệ môi trường nông
nghiệp, nông thôn giai đoạn 2011-2015 và Định hướng giai

đoạn 2016-2020. Bộ NN và PTNT, tr 338-350.
3.   Mai Văn Trịnh, Hà Mạnh Thắng, Bùi Thị Phương Loan,
Đỗ Thu Hà, Lê Hồng Lịch (2015), “ Thực trạng môi trường
đất Việt Nam”, Hội thảo quốc gia đất Việt Nam, hiện trạng
sử dụng và thách thức. Hội Khoa học đất Việt Nam, tháng
11, tr 97-107.
4.   Hà Mạnh Thắng, Phạm Quang Hà (2016), “Ảnh hưởng của
hàm lượng Cd trong đất đến khả năng tích luỹ Cd trong rau
cải mơ trên đất phù sa sông Hồng”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ nông nghiệp Việt Nam số 10 (71); tr 63-66.

25


×