MỞ BÀI
Một xã hội không thể tồn tại và phát triển nếu không có gia đình. Bởi vậy mới có câu nói:
“Gia đình là tế bào của xã hội”. Xã hội chỉ có thể phát triển khi mỗi gia đình là một tế bào
khỏe mạnh. Gia đình phát sinh được là nhờ có sự kiện kết hôn. Sự kiện này đã làm phát
sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng mà cụ thể là các quyền và nghĩa vụ về nhân thân
và quyền và nghĩa vụ về tài sản. Trong đó quyền và nghĩa vụ về tài sản đóng vai trò rất
quan trọng trong đời sống gia đình. Nhằm làm rõ hơn về vấn đề này em xin được đi sâu
vào phân tích vấn đề: “Xác định quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này”.
NỘI DUNG
I. Lý luận chung
Khoản 2 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có giải thích từ ngữ “Kết hôn
là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn”. Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa vợ và
chồng. Nội dung của quan hệ pháp luật giữa vợ và chồng bao gồm các quyền và nghĩa vụ
về nhân thân và các quyền và nghĩa vụ về tài sản. Quyền và nghĩa vụ về tài sản đóng vai trò
quan trọng trong đời sống gia đình, mang nét đặc trưng gắn liền với nhân thân của vợ
chồng. Quyền và nghĩa vụ tài sản giữa vợ và chồng là cơ sở kinh tế bảo đảm cho gia đình
thực hiện tốt chức năng xã hội. Các quyền và nghĩa vụ đó còn đáp ứng nhu cầu vật chất của
vợ chồng, bảo đảm cho vợ chồng thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ về nhân thân đối với
nhau và thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ đối với con cái và với các thành viên trong gia
đình.
Quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng bao gồm: quyền sở hữu tài sản, quyền
và nghĩa vụ cấp dưỡng và quyền thừa kế.
II. Quyền và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000
1. Quyền sở hữu tài sản của vợ chồng
1.1. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
a) Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng
1
Cuộc sống chung giữa vợ chồng khi quan hệ hôn nhân được xác lập đòi hỏi phải có
một khối tài sản nhằm bảo đảm nhu cầu đời sống của gia đình. Thỏa mãn nhu cầu về tinh
thần, vật chất của vợ chồng, nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng; nghĩa vụ chăm
sóc, nuôi dưỡng các con… Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định rõ
về Tài sản chung của vợ chồng.
Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng chủ yếu dựa vào “thời kì hôn nhân” và
nguồn gốc của các loại tài sản:
- Tài sản chung của vợ chồng được xác lập trong “thời kì hôn nhân”
- Tài sản chung của vợ chồng được xác lập dựa vào nguồn gốc tài sản bao gồm các
tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân (Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000)
- Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các thu nhập hợp pháp của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân.
- Tài sản chung của vợ chồng bao gồm những tài sản mà vợ chồng được thừa kế
chung, được tặng choc hung (khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
- Tài sản chung của vợ chồng bao gồm quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau
khi kết hôn (khoản 1 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
- Tài sản chung của vợ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là
tài sản chung; những tài sản không đủ chứng cứ xác định là tài sản riêng (khoản 3 Điều 27
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000)
b) Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung
- Vợ chồng bình đẳng trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung
Theo quy định tại Điều 219 của Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 27 của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000, tài sản chung của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp
nhất có thể phân chia. Do vậy, bình thường chúng ta không thể xác định được phần tài sản
nào là của vợ, phần tài sản nào là của chồng trong khối tài sản chung hợp nhất, chỉ khi nào
có sự phân chia tài sản chung của vợ chồng thì mới xác định được phần tài sản của từng
người trong khối tài sản chung đó. Tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do
công sức của cả hai vợ chồng trực tiếp tạo ra, có thể chỉ do vợ hoặc chồng làm ra trong thời
2
kỳ hôn nhân. Có thể do điều kiện sức khỏe, đặc điểm công việc và nghề nghiệp nên sự
đóng góp công sức của vợ chồng vào việc xây dựng khối tài sản chung không ngang bằng
nhau, nhưng quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng nhau.
Với tư cách là đồng chủ sở hữu tài sản chung, vợ, chồng bình đẳng khi thực hiện
quyền sở hữu đối với tài sản chung. Vợ, chồng cùng bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản
chung nhằm bảo đảm đời sống chung của gia đình, sao cho việc sử dụng, định đoạt tài sản
chung đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc sống chung của vợ chồng; bảo đảm nghĩa vụ
nuôi dưỡng, giáo dục con cái cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình.
Do tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi
(tất yếu) vợ chồng phải có quan hệ giao dịch với những người khác liên quan đến tài sản
chung, nhằm đảm bảo nhu cầu của gia đình, của vợ chồng. Chính vì thế nhà làm luật phải
dự liệu:
+ Đối với những giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản có giá trị không lớn hoặc để
phục vụ nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình thì chỉ cần một bên vợ hoặc chồng thực
hiện hoặc đương nhiên coi là có sự đồng ý của bên kia. Trong trường hợp vì lí do nào đó
mà chỉ có một bên vợ hoặc chồng thực hiện giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản chung
của vợ chồng nhằm để phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hàng ngày của gia đình thì bên
kia phải chịu trách nhiệm liên đới (điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Quy
định này khẳng định quyền tự chủ của vợ, chồng trong việc thực hiện các giao dịch dân sự
nhằm đảm bảo nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình cũng chính là nhằm bảo vệ lợi ích
của gia đình, đồng thời cũng khẳng định trách nhiệm của bên kia đối với các hành vi dân sự
hợp pháp do vợ hoặc chồng mình thực hiện vì lợi ích chính đáng của gia đình.
+ Đối với những tài sản chung có giá trị lớn thì khi định đoạt, phải có sự thỏa thuận
đồng ý của hai vợ chồng (tivi, tủ lạnh, xe máy, ô tô, tàu, quyền sử dụng đất, nhà ở,…). Nếu
pháp luật quy định hợp đồng liên quan đến tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn phải
được ký kết bằng văn bản (hợp đồng mua bán nhà, chuyển quyền sử dụng đất,…) thì hình
thức của hợp đồng phải tuân theo quy định của pháp luật. Vợ, chồng phải cùng trực tiếp ký
vào văn bản (hợp đồng); nếu chỉ có một bên trực tiếp ký thì phải có giấy ủy quyền cho vợ,
chồng ký thay, hợp đồng mới có hiệu lực; việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có
3
chữ ký của cả hai vợ chồng (khoản 3 Điều 219 Bộ Luật dân sự năm 2005 và khoản 1 Điều
24 Luật Hôn nhân và gia đình).
Khoản 3 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Việc xác lập, thực hiện,
và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn, hoặc là nguồn sống
duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng
bàn bạc thỏa thuận…”
Để cụ thể hóa những quy định này và xuất phát từ thực tế, nhằm đảm bảo lợi ích chung của
gia đình, Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 của Chính phủ cũng đã có
quy định về vấn đề này, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ và thống nhất trong thực tiễn áp dụng
luật liên quan đến quyền định đoạt tài sản chung của vợ chồng. Hơn nữa, khoản 3 và khoản
4 Điều 4 của Nghị định này còn có những quy định nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc giúp
Tòa án giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Tài sản chung của vợ chồng “được chi dùng để đảm bảo nhu cầu gia đình, thực hiện
các nghĩa vụ chung của vợ chồng” (khoản 2 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000). Do vậy, trong việc duy trì và phát triển khối tài sản chung không cần căn cứ vào
công sức đóng góp của vợ, chồng. Trong những trường hợp vì lí do chính đáng và hoàn
cảnh riêng của từng gia đình mà có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp tạo ra tài sản mà chỉ
“lao động trong gia đình” như làm nội trợ, chăm sóc con,… thì quyền sở hữu của họ đối
với tài sản chung vẫn ngang bằng với người kia. Như vậy có nghĩa là “lao động của vợ
chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập” (điểm a khoản 2 Điều 95)
Trong trường hợp vợ, chồng sống cách xa nhau vì lí do chính đáng không làm ảnh
hưởng đến các quyền và nghĩa vụ của họ đối với tài sản chung hợp nhất.
- Đăng kí quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng
Đăng ký quyền sở hữu của vợ chồng liên quan đến các loại tài sản có giá trị lớn (nhà
ở, quyền sử dụng đất, xe máy, ô tô,…) là rất cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
vợ chồng đối với các tài sản đó. Thông qua việc đăng ký quyền sở hữu, Nhà nước bằng
pháp luật công nhận và bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của vợ chồng đối với các tài sản
trong khối tài sản chung của vợ chồng. Đăng ký quyền sở hữu là một thủ tục (pháp lý)
hành chính để Nhà nước công nhận, bảo hộ quyền sở hữu của công dân.
4
Tại khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định: “Trong
trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký
quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng”.
Tuy nhiên nhiều năm trước đây (trước ngày 01/01/2001), việc đăng ký quyền sở hữu
các tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng thường do một bên vợ hoặc chồng đứng tên
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu. Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 và kể từ ngày Nghị định số 70/2001/NĐ-CP có hiệu lực, thì vợ
chồng có thể yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở hữu tài sản
để ghi tên cả hai vợ chồng; nếu vợ, chồng không yêu cầu cấp lại giấy tờ đăng ký quyền sở
hữu tài sản, thì tài sản đó vẫn thuộc sở hữu chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp, bên nào
cho đó là tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, thì có nghĩa vụ chứng minh (khoản 3 Điều 5
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP). Đây cũng là giải pháp đã được ghi nhận tại khoản 3 Điều
27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “Trong trường hợp không có chứng cứ chứng
minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là
tài sản chung”. Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 cũng có hướng dẫn về
vấn đề này.
- Về nghĩa vụ tài sản chung của vợ chồng
Khoản 2 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Tài sản chung của
vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung
của vợ chồng”.
Nhu cầu đời sống chung của gia đình bao gồm các lợi ích về tinh thần, vật chất của vợ
chồng và các thành viên khác trong gia đình. Tài sản chung của vợ chồng là cơ sở kinh tế
nhằm đáp ứng những lợi ích của vợ, chồng và các thành viên gia đình. Tính tất yếu phải có
tiền bạc, tài sản của vợ chồng để đảm bảo cho gia đình tồn tại và phát triển; bảo đảm nghĩa
vụ chăm sóc lẫn nhau giữa vợ chồng; nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục con cái,… Nhiều khi
tài sản chung của vợ chồng không đủ đáp ứng với quyền lợi của gia đình, vợ, chồng đã
phải vay, mượn tiền bạc, tài sản của người khác vì nhu cầu của gia đình. Đó chính là những
khoản nợ mà vợ chồng phải có nghĩa vụ thanh toán trả cho người chủ nợ. Theo nguyên tắc,
nếu là nợ chung thì cả vợ chồng phải có nghĩa vụ trả nợ (có thể trích từ khối tài sản chung
5
của vợ chồng hoặc xác định nghĩa vụ của cả hai vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm chi
trả khoản nợ đó), ngược lại, nếu vợ, chồng vay nợ sử dụng vào mục đích riêng, bảo đảm
cho nhu cầu riêng thì vợ, chồng đó phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng (hoặc
phần tài sản của người vợ, chồng đó trong khối tài sản chung của vợ chồng khi có yêu cầu,
nếu người vợ, chồng không có tài sản riêng), mà không buộc người chồng, vợ kia phải liên
đới trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vấn đề phân biệt nợ chung hay nợ riêng của
vợ, chồng là rất khó khăn trên cơ sở đó để quy kết trách nhiệm (nghĩa vụ) chung của vợ
chồng hay trách nhiệm cá nhân của vợ, chồng. Có trường hợp món nợ đó do một bên vợ,
chồng vay hoặc cả hai vợ chồng cùng đi vay, nhưng chỉ có một bên vợ, chồng ký vào giấy
vay nợ. Khi có tranh chấp, việc xác định “nợ chung” hay “nợ riêng” giữa vợ chồng với chủ
nợ thường gặp nhiều khó khăn. Điều 25 Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định:
“Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một
trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình”.
Quy định này nhằm quy kết trách nhiệm (nghĩa vụ) chung của hai vợ chồng đối với các
giao dịch dân sự hợp pháp do một bên vợ hoặc chồng thực hiện vì nhu cầu thiết yếu của gia
đình. Như vậy, nếu một bên vợ, chồng vay nợ nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình
như ăn, ở, học hành, chữa bệnh,… thì món nợ đó được bảo đảm thanh toán bằng tài sản
chung của vợ chồng, nghĩa là cả hai vợ chồng đều có chung nghĩa vụ trả món nợ đó.
-
Về vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng
Xuất phát từ tình hình thực tế các quan hệ hôn nhân và gia đình, đồng thời cũng nhằm
bảo vệ lợi ích chính đáng của vợ chồng về vấn đề tài sản, luật Hôn nhân và gia đình quy
định các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng. Đó là: chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kỳ hôn nhân; chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ, chồng chết và chia
tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn.
+ Chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân
Quy định về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân nhằm bảo vệ
quyền lợi chính đáng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng cũng như quyền lợi của những
người khác có liên quan đến tài sản chung của vợ, chồng. Về phương diện chia tài sản
chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cho phép
6
hai vợ chồng tự thỏa thuận chia sản chung bằng văn bản hoặc yêu cầu toàn án giải quyết.
Việc chia tài sản chung trước hết sẽ do vợ chồng tự quyết và thỏa thuận với nhau bằng văn
bản. Nếu không thể thỏa thuận được với nhau thì vợ chồng có quyền yêu cầu Tòa án giải
quyết. Hậu quả pháp lí sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân,
Điều 30 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã qui định: “Trong trường hợp chia tài sản
chung của vợ chồng khi hoa lợi, lới tức phát sinh từ tài sản đã được chia thuộc sở hữu
riêng của mỗi người; phần tài sản còn lại không chia vẫn thuộc sở hữu chung của vợ
chồng”. Như vậy vợ chồng có thể thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia một phần hay toàn
bộ tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân.
+ Chia tài sản của vợ chồng khi vợ chồng ly hôn
Theo nguyên tắc chung, khi phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật, quan
hệ vợ chồng được chấm dứt. Với trường hợp thuận tình ly hôn, vợ chồng thỏa thuận được
với nhau về việc phân chia tài sản chung và vấn đề giao con chưa thành niên cho bên nào
nuôi dưỡng, giáo dục trực tiếp và mức phí tổn cấp dưỡng nuôi con là một điều kiện thuận
lợi để tòa án công nhận thuận tình ly hôn. Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với
nhau, có yêu cầu toàn án giải quyết, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng và
những người khác có lợi ích liên quan đến tài sản của vợ chồng, trước khi quyết định tòa án
cần phải xác định về vấn đề tài sản chung của vợ chồng: đâu là tài sản riêng của vợ, chồng;
những tài sản nào thuộc khối tài sản chung; những ai có quyền và lợi ích liên quan đến tài
sản của vợ chồng; đối với tài sản chung của vợ chồng thì xem xét thu nhập thực tế của vợ,
chồng, công sức đóng góp trong việc tạo dựng, quản lí tài sản chung; những tài sản nào
được chia bằng hiện vật hoặc phải thanh toán bằng tiền; điều kiện, hoàn cảnh, nghề nghiệp
của vợ, chồng khi ly hôn; hai vợ chồng sống riêng hoặc cùng sống chung với gia đình bên
nhà chồng (vợ)… khi chia tòa phải áp dụng các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng và
các nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng (từ Đ95 đến Đ99 Luật HN&GĐ 2000). Trong đó,
quy định theo Đ95 Luật HN&GĐ 2000 bao gồm các nguyên tắc chung về việc chia tài sản
của vợ chồng khi ly hôn; đặc biệt chia tài sản chung của vợ chồng.
+ Chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ, chồng chết trước hoặc bị Tòa án
tuyên bố đã chết
7
Về nguyên tắc, tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, phần tài sản của người vợ,
chồng chết sẽ được chia theo di chúc của người chết. Nếu vợ, chồng chết trước có để lại di
chúc định đoạt tài sản của mình trong khối tài sản chung cho người chồng, vợ còn sống
được hưởng thì di sản đó thuộc quyền sở hữu của người chồng, vợ. Bên cạnh đó trong
trường hợp không có di chúc, khi có yêu cầu, tài sản chung của vợ chồng sẽ được chia đôi,
phần tài sản của vợ, chồng đã chết trong khối tài sản chung sẽ được chia cho những người
thừa kế theo pháp luật của người chết. Người chồng, vợ còn sống được hưởng một suất
thừa kế cùng với cha, mẹ và các con của người chết, vì những người thừa kế cùng hàng
được hưởng phần di sản bằng nhau (khoản 2 Điều 676 BLDS năm 2005).
1.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng
a) Căn cứ xác lập tài sản riêng của vợ, chồng
Khoản 1 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “ Tài sản riêng của
vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản đưuọc thừa kế riêng,
được tặng cho riêng trong thời kì hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy
định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này, đồ dùng tư trang cá nhân”.
Tài sản riêng của vợ, chồng được xác lập dựa vào thời điểm tài sản đó phát sinh trước
khi kết hôn; dựa vào sự định đoạt của chủ sở hữu tài sản đã dịch chuyển tài sản của mình
cho mỗi bên vợ, chồng trên sự kiện chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn
nhân. Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm:
+ Tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn.
+ Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân.
+ Đồ dùng, tư trang cá nhân.
+ Những tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kỳ hôn nhân.
+ Những tài sản mà vợ, chồng thỏa thuận là tài sản riêng của mỗi bên.
b) Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng
- Quyền của vợ, chồng đối với tài sản riêng
8
Khoản 1 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Vợ, chồng có
quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản riêng của mình, trừ trường hợp quy định tại
khoản 5 Điều này”.
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản của mình, vợ, chồng có toàn quyền sở hữu đối với
tài sản riêng, không phụ thuộc bới ý chí của người kia. Đối với tài sản riêng của vợ, chồng,
mỗi bên sẽ tự quản lí tài sản riêng của mình. Trong trường hợp, vợ hoặc chồng không thể
tự mình quản lí tài sản riêng và cũng không ủy quyền cho người khác quản lí thì bên người
kia có quyền quản lí tài sản đó (khoản 2 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình). Trong việc
quản lí tài sản riêng của vợ, chồng mình, người chồng, vợ có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn
các tài sản đó như tài sản của mình, nếu làm hư hại thất thoát mà không có lý do chính
đáng thì có nghĩa vụ phải bồi thường (khi có yêu cầu). Đối với tài sản riêng, vợ, chồng có
quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung của vợ chồng (khoản 2
Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình).
Trong việc sử dụng tài sản riêng, Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ, chồng có
quyền sử dụng tài sản riêng của mình. Tuy nhiên, khi vợ chồng chung sống với nhau, họ có
thể cùng thỏa thuận trong việc sử dụng tài sản riêng của mỗi bên sao cho có thể khai thác
được tốt nhất giá trị sử dụng của tài sản. Do đó, việc phân định tài sản riêng chỉ có ý nghĩa
trong việc định đoạt tài sản. Nhưng xuất phát từ việc bảo đảm cuộc sống chung của gia
đình, quyền định đoạt tài sản riêng của vợ hoặc chồng có thể bị hạn chế trong trường hợp
được quy định tại khoản 5 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình.
Xuất phát từ tính cộng đồng của quan hệ hôn nhân và vì lợi ích chung của gia đình
nên mặc dù pháp luật quy định vợ chồng có quyền có tài sản riêng nhưng trong những
trường hợp tài sản chung của vợ chồng không đủ để đảm bảo cuộc sống chung của gia
đình thì “tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia
đình” (khoản 4 Điều 33). Những tài sản đã chi dùng cho gia đình thì người có tài sản không
được quyền đòi lại nữa.
Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng không phụ thuộc vào tình trạng hôn
nhân của họ nên trong những trường hợp cần chia tài sản của vợ chồng theo quy định của
pháp luật thì tài sản riêng của ai vẫn thuộc về người đó. Nhưng người có tài sản riêng phải
chứng minh được tài sản đó là tài sản riêng của mình. Việc chứng minh có thể thực hiện
9
bằng sự công nhận của bên kia, bằng các giấy tờ như văn tự, di chúc hoặc chứng cứ
khác… Nếu người có tài sản không chứng minh được đó là tài sản riêng của mình thì tài
sản đó là tài sản chung của vợ chồng (khoản 3 Điều 27).
- Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng
Theo quy định tại khoản 4 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000: “tài sản
riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường
hợp tài sản chung không đủ để đáp ứng”. Như vậy, trong trường hợp cuộc sống chung của
gia đình gặp nhiều khó khăn, tài sản chung của vợ chồng không đủ bảo đảm cho những
nhu cầu sinh hoạt thiết yếu hằng ngày của gia đình mà người vợ, chồng có tài sản riêng thì
người đó có nghĩa vụ sử dụng tài sản riêng của mình nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết đó
của gia đình, đảm bảo cuộc sống của vợ chồng và các con. Nghĩa vụ này của vợ, chồng
xuất phát từ việc đảm bảo lợi ích chung của gia đình.
Khoản 3 Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “nghĩa vụ riêng về tài sản của
mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”. Như vậy, theo quy định của
pháp luật, vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loaị nghĩa
vụ sau đây:
+ Một là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi
kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình.
+ Hai là, nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kì
hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng nhu cầu và lợi ích chung của gia
đình.
+ Ba là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lí, sử dụng, định
đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác các hoa
lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kì hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những
hoa lợi đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người.
+ Bốn là, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lí di sản thừa kế
mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản.
+ Năm là, các khoản nợ phát sinh khi thực hiện nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân
thân vợ, chồng như các khoản chi phí cho con riêng của mình.
10
+ Sáu là, nghĩa vụ cấp dưỡng mà vợ, chồng phải thực hiện liên đới với các thành viên
trong gia đình.
+ Bảy là, nghĩa vụ bồi thường khoản tiền cấp dưỡng mà vợ, chồng là người được
giao quản lí nhưng đã làm tiêu tán hoặc sử dụng không đúng mục đích.
+ Tám là, nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh dựa trên cơ sở vợ, chồng đã có hành vi
tự mình tiến hành các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn của vợ
chồng hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình.
+ Chín là, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi trái pháp luật của vợ,
chồng.
Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có
nghĩa vụ thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình. Cũng có thể nghĩa vụ tài sản
của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung cuả vợ chồng khi vợ chồng thỏa thuận.
2. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
Cấp dưỡng giữa vợ và chồng là việc vợ chồng có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản
khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người kia khi vợ, chồng không cùng chung sống mà
gặp khó khăn, túng thiếu do không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình. Chương VI Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể mức cấp
dưỡng, thời hạn cấp dưỡng, điều kiện cấp dưỡng và phương thức thực hiện nghĩa vụ cấp
dưỡng.
Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng chỉ được đặt ra khi họ không cùng
chung sống mà một trong hai bên do mất khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình. Nếu người kia không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì ngời cần cấp dưỡng có
quyền yêu cầu tòa án buộc người kia phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho mình.
Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng là quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau nên về
nguyên tắc thì quyền và nghiã vụ này phát sinh kể từ khi vợ chồng kết hôn và chấm dứt khi
hôn nhân chấm dứt. Nhưng do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân mà pháp luật đã
quy định khi vợ chồng ly hôn họ vẫn có thể phải thực hiện quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng
lẫn nhau (Điều 60).
3. Quyền thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng
11
Quyền được thừa kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng đã được quy định tài Điều
676 Bộ luật dân sự năm 2005 và Điều 31 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
Như vậy, khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, người còn sống sẽ được thừa kế tài
sản của vợ hoặc chồng mình đã chết. Vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật
cùng với cha, mẹ và các con của người chết. Ngoài ra, vợ, chồng còn được thừa kế tài sản
của nhau theo di chúc.
Điều kiện để vợ, chồng thuộc hàng thừa kế thứ nhất của nhau là: vợ, chồng đang tòn
tại hôn nhân hợp pháp. Nếu việc kết hôn của họ là trái pháp luật thì dù có giấy chứng nhận
kết hôn giữa họ cũng không phát sinh quan hệ vợ chồng và vì vậy họ không được thừa kế
tài sản của nhau. Trong trường hợp vợ chồng đã ly hôn thì họ cũng không được thừa kế tài
sản của nhau theo pháp luật. Đối với những trường hợp vợ chồng không ly hôn những đã
chia tài sản chung theo quy định tại Điều 29 Luật hôn nhân và gia đình, sau đó một trong
hai người chết thì người kia vẫn được thừa kế tài sản của vợ hoặc chồng mình đã chết.
Trường hợp vợ chồng đã xin ly hôn nhưng toàn án chưa xét xử hoặc tuy tòa án đã mở
phiên toàn xét xử cho họ ly hôn nhưng bản án hoặc quyết định của tòa án chưa có hiệu lực
pháp luật (do có kháng cáo hoặc đang trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị) mà một trong
hai vợ chồng chết thì người còn sống vẫn được quyền thừa kế tài sản của chồng hoặc vợ đã
chết (Điều 683 Bộ luật dân sự). Khoản 3 Điều 680 Bộ luật dân sự còn quy định quyền thừa
kế tài sản của nhau giữa vợ và chồng được pháp luật bảo vệ ngay cả khi người vợ góa hoặc
người chồng góa kết hôn với người khác.
Bên cạnh việc khẳng định vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau, Luật Hôn
nhân và gia đình còn quy định quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết
hoặc bị tòa án tuyên bố là đã chết. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị tòa án tuyên bố là đã
chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có
chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác
quản lý di sản (khoản 2 Điều 31). Hiện nay, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của vợ,
chồng và gia đình, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định vấn đề hạn chế quyền
yêu cầu chia di sản thừa kế của những người được thừa kế di sản của vợ, chồng đã chết tại
khoản 3 Điều 31 của Luật này.
12
III. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về vấn đề này
Bên cạnh những quy định mới có nhiều điểm tiến bộ so với trước đây, quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về quyền và nghĩa vụ về
tài sản của vợ chồng cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn, dễ áp dụng và có hiệu quả
trong thực tế.
-
Xác định tài sản chung của vợ, chồng bị Tòa án tuyên bố chết, mà sau đó
lại trở về (Điều 26 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 83 Bộ
luật dân sự năm 2005)
Trường hợp này pháp luật mới chỉ dự liệu quan hệ hôn nhân được khôi phục (nếu
người chồng, vợ kia chưa kết hôn với người khác), còn về vấn đề tài sản chung của vợ
chồng thì xác định như thế nào?
Điều 26, Luật HN&GĐ 2000 và Điều 83 của BLDS Việt Nam 2005 nên chỉnh sửa
theo hướng: khi phán quyết của tòa án tuyên bố vợ, chồng chết có hiệu lực pháp luật, quan
hệ hôn nhân chấm dứt; kể cả trường hợp sau này, vì lí do nào đó mà người vợ, chồng đã bị
tuyên bố chết lại trở về cũng không thể “đương nhiên” phục hồi quan hệ hôn nhân được
(dù người vợ, chồng kia chưa kết hôn với người khác). Nếu vợ, chồng muốn tái hợp chung
sống với nhau, họ phải đăng kí kết hôn theo thủ tục chung. Tức là sẽ phát sinh một quan hệ
hôn nhân mới, thời kì hôn nhân mới, dù chủ thể vẫn là vợ, chồng đó. Như vậy, chế độ tài
sản mới giữa vợ chồng được phát sinh theo luật định, áp dụng trong thời kì hôn nhân mới
này.
-
Xác định tài sản chung của vợ, chồng trong trường hợp vợ, chồng đã chia tài sản
chung trong thời kì hôn nhân, sau đó lại khôi phục chế độ tài sản chung
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 29, 30) không quy định rõ vấn đề khôi
phục chế độ tài sản chung của vợ chồng sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng trong
thời kì hôn nhân, nhiều hậu quả pháp lý còn chưa được pháp luật hôn nhân và gia đình dự
liệu. Chính vì thế có một số ý kiến cho rằng cần phải bổ sung vào Luật Hôn nhân và gia
đình những vấn đề sau:
Thứ nhất, những lí do chính đáng để vợ chồng chia tài sản chung trong thời kì hôn
nhân bao gồm những lí do nào.
Thứ hai, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (có thể) do vợ
chồng tự thỏa thuận với nhau nhưng dứt khoát phải được tòa án công nhận hoặc phải được
13
công chứng, chứng thực theo qui định của pháp luật, nhằm hạn chế tối đa hành vi của vợ,
chồng lợi dụng việc chia tài sản chung để tẩu tán, trốn tránh nghĩa vụ tài sản đối với người
khác.
Thứ ba, sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân (dù chia một
phần hay toàn bộ tài sản chung của vợ chồng) thì chế độ tài sản chung của vợ chồng phải
được coi là chấm dứt; phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia; hoa lợi, lợi tức thu được từ
tài sản đó; thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp
khác của vợ, chồng sau khi đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đều thuộc tài sản
riêng của vợ, chồng.
Thứ tư, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân không làm chấm dứt
quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Luật cần dự liệu về nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau,
đối với con chung và nghĩa vụ đóng góp tài sản chung nhằm bảo đảm đời sống chung của
gia đình. Mặt khác, luật cần dự liệu trường hợp sau khi đã chia tài sản chung của vợ chồng
trong thời kì hôn nhân, một thời gian sau vợ chồng mới có yêu cầu ly hôn hoặc một bên vợ,
chồng chết trước, những tài sản nào thuộc khối tài sản chung của vợ chồng thì mới chia.
Thứ năm, vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 9, Điều 10
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, cần dự liệu rõ thêm các vấn đề sau: khôi phục các tài sản
chung của vợ chồng sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, không
chỉ là việc thỏa thuận của vợ chồng xem xét những tài sản nào là tài sản chung của vợ
chồng, mà ở đây cần phải hiểu rằng việc khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng là
“khôi phục căn cứ pháp lí xác lập tài sản chung của vợ chồng”. Bởi lẽ theo nguyên tắc
chung, toàn bộ tài sản mà vợ, chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân đều thuộc khối tài sản
chung của vợ chồng. Căn cứ này đã tạm chấm dứt khi vợ chồng thỏa thuận chia tài sản
chung của mình trong thời kì hôn nhân.
Đối với trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân thực chất
là đã chấp nhận “chế độ biệt sản” giữa vợ chồng, sau khi đã chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân. Mặc dù vậy, nó vẫn phải được điều chỉnh bởi pháp luật, chứ
không phụ thuộc vào sự thỏa thuận của vợ chồng. Trường hợp đã chia tài sản chung của vợ
chồng trong thời kì hôn nhân, sau đó vợ chồng muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung,
vẫn phải tuân theo những qui định của pháp luật.
14
-
Xác định tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân
Luật cần quy định cụ thể nguồn gốc tài sản là đồ dùng, tư trang cá nhân bao gồm
những gì thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Có thể hiểu đồ dùng tư trang cá nhân là tài sản
riêng có nguồn gốc phát sinh từ tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ
hôn nhân?
-
Xác định tài sản chung của vợ chồng trong quan hệ “hôn nhân thực tế” sau ngày
01/01/2003
Trong trường hợp này, sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn, quan hệ
vợ chồng thực tế sẽ không được pháp luật công nhận, quan hệ tài sản giữa họ không thể
được áp dụng như đối với quan hệ hôn nhân hợp pháp; nghĩa là các qui định về chế độ tài
sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình sẽ không được áp dụng đối với họ.
- Nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng
Luật cần dự liệu cụ thể, bổ sung khoản 2 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình năm
2000 về tài sản chung của vợ chồng được bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ
chồng bao gồm:
+ Các khoản nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.
+ Các khoản nợ liên quan đến việc tạo lập, quản lí, sử dụng, định đoạt tài sản chung
của vợ chồng.
+ Các khoản nợ liên quan đến tài sản riêng của vợ, chồng đã được đưa vào sử dụng
chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống của gia đình.
+ Các khoản nợ phát sinh có liên quan đến công việc mà cả hai vợ chồng cùng thực
hiện.
+ Các khoản nợ theo thỏa thuận của hai vợ chồng.
Hơn nữa, về trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với giao dịch dân sự hợp pháp do
một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình (Điều
25), Luật cần dự liệu rõ “nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” ở đây bao gồm những
như cầu nào? Về ăn ở, khám chữa bệnh, chăm sóc con cái, học hành,… và các chi phí
thông thường cần thiết khác bảo đảm cuộc sống cho các thành viên trong gia đình.
- Về nghĩa vụ của vợ, chồng được thực hiện từ tài sản riêng
Theo khoản 3 Điều 33 Luật HN&GĐ 2000, nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ,
chồng được thanh toán từ tài khoản riêng của người có nghĩa vụ. Tuy nhiên, qui định này
15
còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại nghĩa vụ tài sản này. Cần bổ
sung, xác định rõ nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng bao gồm những nghĩa vụ nào?
KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên chúng ta đã có thêm phần nào kiến thức về vấn đề quyền
và nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên những quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình 2000 về vấn đề này vẫn còn những tồn tại đáng kể cần phải được nghiên cứu để bổ
khuyết nhằm hoàn thiện hơn, tạo cơ sở pháp lý thống nhất trong quá trình thực hiện và áp
dụng Luật.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình ViệtNam,
Nxb CAND, Hà Nội, 2007.
2
3
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, NXB Lao động, Hà Nội, 2013.
TS. Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Hôn nhân và
gia đình Việt Nam, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2008.
4 Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình
Việt Nam (Tập II – Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng), Nxb Trẻ, 2004.
17