Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH BÀN TAY TNÚ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.92 KB, 10 trang )

PHÂN TÍCH HÌNH ẢNH BÀN TAY TNÚ
Nguyễn Trung Thành là nhà văn rất có duyên với mảnh đất đỏ bazan
Tây Nguyên. Hai tác phẩm thành công nhất của ông đều viết về cuộc
sống. con người, về mảnh đất hùng vĩ hoang sơ. Tác phẩm đã tái hiện
được con đường đấu tranh giành lại tự do đầy đau khổ, mất mác hi sinh
và vinh quang của người dân Xô – man bất khuất kiên cường. Cùng với
hình ảnh con người, hình tượng cây xà nu làm nên sức hút cho thiên
truyện này.
Vào năm 1965, Mỹ đổ quân ào ạt vào toàn Miền Nam Việt Nam. Cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta diễn ra vô cùng ác liệt.
Nó khơi nguồn cảm hứng để Nguyễn Trung Thành sáng tác nên tác
phẩm “ Rừng xà nu “. Tư tưởng cơ bản của tác phẩm là khẳng định con
đường duy nhất để giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam là phải
đứng lên cầm vũ khí để chiến đấu, dùng bạo lực cách mạng để chống lại
sự tàn bạo của kẻ thù. Tác phẩm được in lần đầu tiên trên tạp chí văn
nghệ quân giải phóng Trung Trung Bộ số 2/1965, sau đó được in trong
tập “ Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc “.
Tác phẩm viết về cuộc đời của anh Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng
Xô – man chống lại đế quốc Mỹ - Ngụy và tay sai nhưng tác giả lại lấy
hình tượng “ Rừng xà nu “ để đặt tên cho tác phẩm. Bởi vì tác giả đã
từng gắn bó với chiến trường Tây Nguyên đầy khốc liệt, và cũng là nơi
có những cánh rừng xà nu bạt ngàn bất tận. Cho nên cảm hứng chủ đạo
và dụng ý nghệ thuật được khơi nguồn từ hình ảnh này. Nó đã trở thành
linh hồn của tác phẩm. Cây xà nu có sự gắn bó mật thiết với đời sống
sinh hoạt của dân làng Xô – man từ những sinh hoạt hằng ngày đến
những sự kiện trọng đại. Cây xà nu là biểu tượng cho số phận và phẩm
chất của con người, của dân làng Xô – man, của đồng bào Tây Nguyên,
của nhân dân miền Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu
nước. Vì vây, nó đã trở thành hình tượng nổi bật và xuyên suốt trong tác
phẩm.



Sau ba năm đi lực lượng, Tnú trở về thăm làng. Bé Heng gặp anh ở con
nước lớn và dẫn anh về. Con đường cũ, hai cái dốc, rừng lách chằng chịt
hố chông, hầm chông, giàn thò sắc lạnh. Mặt trời chưa tắt thì anh về đến
làng. Cụ Mết già làng và bà con dân làng reo lên mừng rỡ. Cụ Mết đưa
anh về nhà ăn cơm. Từ nhà ưng vang lên một hồi, ba tiếng mõ dài, cả lũ
làng cầm đuốc kéo tới nhà cụ Mết để gặp Tnú. Có ông bà già. Nhiều trai
tráng và lũ con gái, nhưng đông nhất là lũ trẻ con. Có cả cô Dít, em gái
Mai, nay là bí thư chi bộ kiêm chính trị viên xã hội. Ai cũng muốn ngồi
gần Tnú. Dít thay mặt dân làng xem giấy có chữ kí chỉ huy cho phép
Tnú về thăm làng một đêm. Quanh bếp lửa rộn lên “ Tốt lắm rồi! “, “
Mai lại đi rồi, ít quá, tiếc quá! “. Rồi cụ Mết kể lại cuộc đời của Tnú cho
dân làng nghe. Tiếng nói rất trầm….
Hình tượng đi vào lòng người đọc đến tận bây giờ chính là hình tượng
cây xà nu trong tác phẩm. Xà nu là một loại cay họ thông, nhựa và gỗ
đều có giá trị, mọc rất nhiều ở Kon Tum. Rừng xà nu là hình ảnh thiên
nhiên bạt ngàn bất tận. Xuyên suốt tác phẩm, hình ảnh cây xà nu xuất
hiện rất nhiều lần. Đặc biệt là đoạn mở đầu và đoạn kết thúc tác giả miêu
tả một cánh rừng xà nu nối tiếp đến tận chân trời.
“ Đứng trên đồi xà nu ấy trong xa xa, đến hết tầm mắt cũng không
thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời “. Đoạn kết
lặp lại gần như trọn vẹn “ ba người đứng ở đấy nhìn xa xa, đến hết tầm
mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân
trời “. Nó để lại một hình ảnh đầy ấn tượng, một dư âm, dư ảnh trong
tâm trí của người đọc một cánh rừng mênh mông, bạt ngàn. Rừng xà nu
còn mang vẻ đẹp đặc trưng từ màu sắc hình dáng đến mùi hương. Màu “
xanh rờn “, “ hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời “, “ thơm mỡ
màn, thơm ngào ngạt “. Xà nu là loại cây rất ham ánh sáng Mặt Trời “
Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng “. Và cũng là loại cây có
sức sống mãnh liệt “ đạn đại bát không giết nỗi chúng, những vết

thương của chúng chống lành như trên một thân thể cường tráng “.


Không chỉ thế, xà nu là một loại cây sinh sôi nảy nở rất khỏe “ cạnh
một cây xà nu mới gãy gụt đã có bốn năm cây con mọc lên “.
Rừng xà nu là loại cây gắn bó mật thiết với con người Tây Nguyên. Từ
những sinh hoạt hằng ngày đến những sự kiện trọng đại của dân làng Xô
– man đều xuất hiện hình ảnh của cây xà nu. Lửa xà nu dùng để thắp
sáng, khói xà nu làm tấm bảng nứa đen lại. Lửa xà nu bập bùng cháy ở
nhà ưng, sáng lên trong những đêm cả làng mài dao chuẩn bị nổi dậy,
nhựa xà nu, kẻ thù dùng để đốt hai bàn tay của Tnú và ánh lửa xà nu rực
rỡ sáng lên trong cái đêm dân làng nổi dậy. Bằng sự quan sát tinh tế,
bằng tình yêu thiên nhiên tha thiết và bằng nhiều hình ảnh so sáng độc
đáo, tác giả đã tái hiện lại rừng xà nu – một vẻ đẹp của núi rừng Tây
Nguyên.
Rừng xà nu còn là biểu tượng cho con người. Cuộc sống của con người
phải chịu nhiều đau thương, mất mác bởi sự tàn bạo của kẻ thù. “ Làng
ở trong tầm đại bác của giặc. Mỗi ngày chúng bắn hai lần. Cả rừng
xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương “. Điều đó cho
thấy cuộc sống của con người đang bị đe dọa, sự sống đang đối mặt với
cái chết, sự sinh tồn đang đứng trước sự diệt vong.
Sự đau thương có nhiều dạng vẻ và không có nỗi đau nào giống nỗi đau
nào. Có những nỗi đau xót xa của những cây xà nu giống như cái chết
của những đứa trẻ khi tuổi đời còn rất nhỏ. “ Có những cây con vừa lớn
ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây
đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thương không lành được,
cứ loét mãi ra… thì cây chết “. Cái chết của những cây xà nu con trước
đạn đại bác của kẻ thù giống như đứa con của Tnú chết trước trận đòn
gậy sắt tàn bạo của Dục.
Cũng có những nỗi đau dữ dội của những cây xà nu trưởng thành giống

như những con người đã trưởng thành, những con người đang sống giữa
tuổi thanh xuân. “ Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ
ào ào như một trận bão “. Nó giống như sự hi sinh của anh Xút, bà
Nhan, của Mai.


Và cũng có những nỗi đau âm thầm của những cây xà nu cường tráng
giống như Tnú và Dít. “ Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao
hơn đầu người, cành lá sum xuê như những con chim đã đủ long
mao, long vũ. Đại bác không chiết nỗi chúng, những vết thương của
chúng chóng lành như trên một thân thể cường tráng “.
Tnú thì bị kẻ thù bắt và tra tấn. Bị đốt mười đầu ngón tay, mỗi ngón tay
chỉ còn hai đốt nhưng vẫn có thể cầm súng và bóp chết người chỉ huy
của giặc. Còn Dít cũng bị giặc bắt và bị bắn để đe dọa. Tuy là còn nhỏ
nhưng Dít không sợ và đã trở thành bí thư chi bộ chính trị xã hội đầy uy
tín và trách nhiệm. Rừng xà nu đã phản ánh những đau thương của một
thời mà dân tộc ta phải chịu đựng.
Rừng xà nu còn lại một biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của con
người. Xà nu là một loại cây rất ham ánh sáng, cũng giống như con
người luôn muốn hướng đến một cuộc sống tự do và luôn hướng về cách
mạng. Xà nu là một loại cây sinh sôi nảy nở rất khỏe: một cây ngả, bốn
năm cây con mọc lên, nó giống như truyền thống đấu tranh của dân làng
Xô – man, lớp người ngã xuống lớp người kia đứng lên tiếp tục chiến
đấu. Bà Nhan, anh Xút hi sinh thì có Dít tiếp nối con đường của chị làm
bí thư chi bộ chính trị viên xã hội có uy tín và có trách nhiệm, nhưng
cũng rất giàu tình cảm, tiếp nối Dít sẽ còn những người như thằng bé
Heng.
Cây xà nu có sức sống mãnh liệt và có sức chịu đựng ghê gớm. Cũng
như con người luôn kiên cường bất khuất hiên ngang trước kẻ thù. Tnú
bị bắt vẫn không khai ra cộng sản, bị đốt mười ngón tay nhưng vẫn

không hề kêu xin. Mai dù bị đánh, bị tra tấn, Dít dù bị kẻ thù bắn dọa
nhưng vẫn kiên cường, không hề sợ hãi.
Rừng xà nu cũng là một hình ảnh nhân hóa, ẩn dụ độc đáo. “ Hình ảnh
rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra để che chỡ cho làng “. Đây
là hình ảnh tượng trưng cho những con người đang ngày đêm chiến đấu
bảo vệ quê hương trong những năm chống Mỹ. Hình ảnh những cánh


rừng xà nu nối tiếp nhau tới chân trời tượng trưng cho dân làng Xô –
man, cho Tây Nguyên, cho miền Nam trong thời kì chống Mỹ.
Từ một hình ảnh có thực, nhà văn đã đưa vào tác phẩm một hình tượng
nghệ thuật với những sáng tạo độc đáo. Rừng xà nu không chỉ là hình
ảnh thiên nhiên mà tượng trưng cho hình ảnh con người. Qua hình tượng
cây xà nu ta hiểu thêm về cuộc sống của đồng bào Tây Nguyên, thêm
yêu quý và tự hào về những phẩm chất cao đẹp của con người.
Một nhân tố tạo nên sức hút cho tác phẩm là ở những con người ở “
Rừng xà nu “. Nhân vật đầu tiên phải kể đến là anh Tnú. Anh là người
Strá ở làng Xô – man. Mồ côi cha mẹ “ Cha mẹ nó chết sớm làng Xô –
man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng bụng nó sạch như nước suối
làng ta “. Tnú là niềm tự hào, là tấm gương cho các thế hệ noi theo. Tnú
được xây dựng từ một nhân vật có thật ở ngoài đời. Anh Đề người Xơ
Đăng là nguyên mẫu của nhân vật Tnú. Tnú có nghĩa là người dũng sĩ.
Tác giả muốn tạo một không khí đậm chất Tây Nguyên ngay từ cái tên
của nhân vật. Theo Nguyễn Trung Thành, “ Rừng xà nu là truyện của
một đời và được kể trong một đêm “. Nhân vật được nhắc đến là cuộc
đời của Tnú được kể trong đêm anh trở về thăm làng sau ba năm tham
gia cách mạng.
Ngay từ khi còn rất nhỏ, Tnú đã làm công việc tiếp tế và nuối giấu cán
bộ. Anh rất gan dạ và dũng cảm bởi vì tính chất của công việc mà anh
đang làm rất nguy hiểm, dễ bị giặc phát hiện, nếu bị phát hiện thì sẽ bị

treo cổ như nh Xút, bị chặt đầu như bà Nhan. Nhưng Tnú không sợ chết
và không sợ nguy hiểm. Anh cũng là người có tinh thần trách nhiệm rất
cao “ Có đêm ngủ lại luôn ngoài rừng ban đêm. Để cán bộ ngủ một
mình ngoài rừng ban đêm, bụng dạ không yên được. Lỡ giặc lùng, ai
dẫn cán bộ chạy ”.
Tnú cũng tin vào lời của cụ Mết, tin vào Đảng và tin vào cách mạng. Cụ
Mết nói “ cán bộ là Đảng, Đảng còn núi nước này còn thì phải nuôi
giấu cán bộ “. Anh có ý thức lớn lên sẽ trở thành một cán bộ giỏi để tiếp
nối con đường của anh Quyết “ Tnú học chậm, tính hay nổi nóng có


lần thua Mai đập hư bảng nứa. Dùng hòn đá đập vào đầu chảy máu
ròng ròng “. Khi nghe anh Quyết nói “ không học chữ sao làm được
cán bộ giỏi “. Tnú giả ngủ không nghe nhưng sáng ra nó quyết tâm học
chữ để sau này làm cán bộ giỏi. Tnú rất trung thành với cách mạng vì
khi bị giặc bắt, mặc dù bị tra tấn dã man nhưng Tnú vẫn quyết không
khai ra cộng sản. Đứng trước kẻ thù, Tnú rất dũng cảm không sợ hi sinh,
dám chỉ tay vào bụng mà nói với kẻ thù “ Cộng sản ở đây này “. Từ
nhỏ, anh đã gắn bó với cách mạng và thể hiện nhiều phẩm chất của một
người anh hùng lí tưởng.
Sau ba năm bị bắt, Tnú vượt ngục trở về làng. Anh cùng mọi người
chuẩn bị chiến đấu. Tnú trở thành một chàng trai hoàn hảo như cây xà
nu cường tráng, như người dũng sĩ trong truyền thuyết dân gian. Tnú là
con cọp đực đáng sợ đối với kẻ thù, là lực lượng nồng cốt lãnh đạo dân
làng mài vũ khí chuẩn bị nỗi dậy. Tnú lấy Mai làm vợ và sinh con, trở
thành một người chồng, người cha tốt, rất yêu vợ và thương con. Tnú
chăm sóc chu đáo cho vợ con “ Khi Mai sinh, không đi Kon Tum mua
vải được, Tnú phải xé đôi tấm dồ của mình ra làm tấm choàng cho
Mai điệu “. Tnú đau xót khi vợ con mình bị bắt “ Hai bàn tay níu chặt
lấy gốc cây. Khi bọn lính, mười thằng dẫn Mai ra giữa sân “, “ anh đã

bứt đứt hàng chục trái vả mà không hề hay biết “. Anh căm thù giặc
khi chứng kiến cảnh vợ con mình bị tra tấn dã man. Tnú bỏ gốc cây
chồm dậy, Tnú gạt tay ông cụ ra. Ở hai chỗ con mắt anh bây giờ là hai
cục lửa lớn đó chính là lửa yêu thương và lửa căm thù. Anh đã nhảy xổ
vào giữa bọn lính. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh
ôm chặt lấy mẹ con Mai. Tnú rất yêu vợ thương con. Vì muốn cứu vợ
con nên Tnú bất chấp tất cả, sẵn sàng hi sinh bản thân mình.
Tnú rất dũng cảm, kiên cường, bất khuất trước kẻ thù tàn bạo. Khi bị trói
bằng dây rừng, đối diện với cái chết, Tnú rất bình thản. Khi bị tra tấn
bằng cách đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu thì Tnú cũng không
kêu lên một tiếng nào. Một ngón tay Tnú bốc cháy. Hai ngón, ba ngón,
mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc. Đầu ngón tay là nơi tập trung


nhiều sợi dây thần kinh cảm giác nên nỗi đau đớn Tnú đang gánh chịu là
vô cùng to lớn.
Hình ảnh Tnú “ nhắm mắt lại rồi mở mắt ra trừng trừng “ là ánh mắt
căm thù tột độ nhưng không chịu khuất phục. “ Trời ơi! Cha mẹ ơi…
Tnú sẽ không kêu! Không! “. Đây chính là suy nghĩ của Tnú khi mười
ngón tay bốc cháy. Vợ con vừa mất, nỗi đau đớn về mặt tinh thần chưa
nguôi, bay giờ Tnú lại phải chịu thêm nỗi đau về thể xác. Nhưng dù
hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu cũng vẫn không làm Tnú gục ngã mà
làm cho Tnú mạnh mẽ hơn.
Tác giả đã đặt nhân vật vào một hoàn cảnh khốc liệt, đầy thử thách để tô
đậm bản chất anh hùng của nhân vật. Bàn tay Tnú mỗi ngón chỉ còn có
hai đốt nhưng nó là minh chứng hùng hồn nhất cho thái độ hiên ngang
bất khuất trước kẻ thù, đồng thời cũng là minh chứng cho tội ác mà kẻ
thù đã gây ra.
Tnú là con người rơi vào hoàn cảnh bi thảm, bế tắc và con người ý thức
được hoàn cảnh của mình. Tnú có khát vọng đứng lên chống lại kẻ thù

để bảo vệ hạnh phúc gia đình, bình yên cho xóm làng, đất nước được tự
do. Bi kịch cuộc đời của Tnú đó chính là muốn cứu vợ con nhưng không
thể cứu được. Cụ Mết nhắc lại điều này bốn lần trong lời kể “ Tnú
không cứu sống được Mai “, “ Tnú không cứu sống được mẹ con Mai
“, “ Tnú không cứu được vợ con “, “ Tnú mày cũng không cứu sống
được vợ mình “. Đó là nỗi đau day dứt, trở đi trở lại giống như một điệp
khúc đau thương.
Và Tnú cũng không bảo vệ được chính mình. Theo lời của cụ Mết giải
thích là “ trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, tau cũng chỉ có hai
bàn tay không “. Tay trắng, tay không thì không thể chiến đấu với kẻ
thù. Hậu quả sẽ vô cùng to lớn, một khi kẻ thù đã cầm súng mà chúng ta
chưa kịp cầm giáo thì sẽ rất nguy hiểm. Chân lí được đút kết từ bi kịch
của cuộc đời Tnú đó chính là “ Chúng đã cầm súng, mình phải cầm
giáo “. Muốn chiến thắng kẻ thù thì phải cầm vũ khí đứng lên. Khi
chúng ta cầm vũ khí đứng lên chống lại súng đạn của kẻ thù thì mọi thứ


sẽ thay đổi. Lửa sẽ tắt trên bàn tay Tnú, xác mười tên lính nằm ngổn
ngang quanh đống lửa. Chính Tnú đã biến đau thương thành hành động,
vượt qua nỗi đau của cá nhân, của gia đình, nợ nước thù nhà, Tnú đã
sống và chiến đấu vì tổ quốc.
Đến khi đi bộ đội, Tnú là một người chiến sĩ giỏi. Bàn tay mỗi ngón chỉ
còn có hai đốt nhưng vẫn có thể cầm súng, lập được chiến công. Anh đã
dùng bàn tay để bóp chết chỉ huy khi nó cố thủ dưới hầm. Anh cũng là
người có ý thức kỷ luật cao và là người rất giàu tình cảm.
Tnú nhận ra nhiều sự thay đổi từ cảnh vật đến con người. Thằng bé
Heng ngày anh ra đi mới đứng ngang bụng anh, chưa biết mang củi, chỉ
mới đeo cái xà lét nhỏ xíu theo người lớn ra rẫy. Thế mà bây giờ nó ít
nói, nó ra vẻ một người lính thật sự. Cụ Mết thì vẫn quất thước như xưa.
Dít lớn lên rất giống Mai. Cái mũi hơi tròn của Dít ngày nay đã thẳng và

nhỏ lại, hai hàng long mày đậm đến che tối cả đôi mắt mở to, bình thản,
trong suốt. Anh được dân làng thương yêu và quý trọng. Khi về phép,
anh được mọi người tiếp đón nồng nhiệt. Cụ Mết đã đãi anh món canh
tàu môn bạc hà. Dân làng lũ lượt kéo đến nhà cụ Mết để được gặp anh.
Tnú như được hồi sinh vì được sống giữa tình thương yêu của xóm làng.
Nhân vật Tnú là nhân vật trung tâm, tô đậm màu sắc sử thi cho toàn bộ
tác phẩm. Cuộc đời và số phận của nhân vật có ý nghĩa tiêu biểu cho số
phận và con đường đi lên của dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước. Những phẩm chất của Tnú mang ý nghĩa tiêu
biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ VN đó chính là lòng căm thù giặc sâu sắc,
có tinh thần trách nhiệm, một lòng trung thành với đất nước.
So với nhân vật A Phủ, Tnú thể hiện một bước tiến mới trong nhận thức
và biểu hiện những phẩm chất của một người anh hùng lí tưởng. Giữa
cánh rừng xà nu và Tnú có mối quan hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau.
Miêu tả rừng xà nu tác giả gợi ra đời sống, số phận, phẩm chất của dân
làng Xô – man, trong đó có Tnú. Tnú là cây xà nu cường tráng, hiên
ngang, bất khuất trước kẻ thù. Tnú cầm vũ khí chống lại kẻ thù là để giữ
cho sự sống, cho cánh rừng mãi mãi sinh sôi. Rừng xà nu không thể trải


mãi đến chân trời trong màu xanh bất diệt của con người nếu con người
chưa hiểu được bài học được rút ra từ cuộc đời của Tnú “ Chúng nó đã
cầm súng, mình phải cầm giáo “.
Nhân vật thứ hai làm nên sự thành công cho tác phẩm đó chính là cụ
Mết. Giữa cánh rừng xà nu bạc ngàn, cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ,
là già làng được mọi người kính nể. Cụ Mết nay đã sáu mươi tuổi. Ông
cụ vẫn quất thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng,
mắt vẫn sáng và xếch ngược, vếch xẹo ở má bên phải vẫn láng bóng,
ngực căng như một cây xà nu lớn, tiếng nói ồ ồ dội vang trong lòng
ngực. Ông có thói quen là không bao giờ khen tốt, giỏi, nhưng khi vừa ý

nhất, ông chỉ nói “ được “.
Ông là người rất nghiêm khắc, có ý thức tổ chức. Khi Tnú về thăm làng,
ông hỏi “ Cấp chỉ huy cho về mấy đêm? … Một đêm à, được! Cho một
đêm, về một đêm, cho hai đêm, về hai đêm, phải chấp hành cho đúng
“. Ông cũng là người rất giàu tình cảm, ông rất yêu thương Tnú và yêu
thương dân làng. Cụ Mết là hình ảnh tiêu biểu cho các già làng ở Tây
Nguyên, là hình ảnh những người chiến đấu từ thời Pháp cho đến thời
chống Mỹ, là dấu gạch nối giữa lịch sử và hiện tại, là chỗ dựa vững chắc
cho con cháu và cho dân làng Xô – man.
Nhân vật thứ ba đó chính là Dít. Dít là nhân vật đại diện cho thế hệ trẻ
lớn lên nhanh chóng, tiếp nối và phát huy truyền thống của cha anh
mình. Cuối cùng là bé Heng, bé Heng là cây xà nu mới lớn tràn trề nhựa
sống, là hình ảnh ngày xưa của Tnú, là thế hệ đàn em đáng tin cậy trong
tương lai.
Tác phẩm là một câu chuyện sinh động, hấp dẫn và lôi cuốn. Tác phẩm
này cũng mang đậm tính sử thi. Về đề tài, câu chuyện phản ánh những
sự kiện có ý nghĩa lớn lao của dân tộc. Thông qua câu chuyện về cuộc
đời của Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô – man, tác phẩm tái hiện
lại một thời kỳ lịch sử của phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam từ
những năm đen tối cho đến lúc đồng khởi nghĩa. Đó là vận mệnh của
dân tộc trong thời đại chống Mỹ cứu nước.


Nhân vật là kết tính của những phẩm chất và lí tưởng của cộng đồng.
Giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng. Câu chuyện mà cụ Mết kể cho dân
làng nghe bên bếp lửa như một câu chuyện lịch sử trọng đại. Cách kể
chuyện gợi lên liên tưởng đến lối kể trong các tác phẩm sử thi Tây
Nguyên.
Cảm hứng về rừng xà nu được khơi nguồn từ một vấn đề trọng đại nhất
trong lịch sử nước ta từ những năm chống Mỹ khi hiệp định Gio ne vơ

đã không được thi hành. Mỹ đổ quân vào miền Nam Việt Nam và mở
rộng ra miền Bắc. Nhân dân ta phải cầm vũ khí đứng lên chống lại kẻ
thù. Tác phẩm “ Rừng xà nu “ được viết ra như một sự biểu dương cho
con đường chúng ta đi. Đó là con đường cầm vũ khí đứng lên. Nó bắt
đầu từ phong trào Đồng khởi ở miền Nam và kết thúc với chiến dịch Hồ
Chí Minh toàn thắng. Bằng sức mạnh của nghệ thuật, tác phẩm này như
một bản anh hùng ca ca ngợi tinh thần chiến đấu của dân tộc.



×